Củng cố ‘lưới đa tầng’ an sinh xã hội để không ai bị bỏ lại phía sau

Năm 2022 là năm đầu tiên Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo đa chiều mới được thiết kế cho giai đoạn 2021-2025. Với những thay đổi, điều chỉnh này, vai trò của việc củng cố hệ thống an sinh xã hội (ASXH) trong công cuộc giảm nghèo bền vững, những thành quả đạt được, các thách thức đặt ra, v.v… như thế nào?

Trong cuộc tọa đàm “Củng cố an sinh xã hội nhằm thúc đẩy giảm nghèo bền vững” hôm nay, các vị khách mời sẽ chia sẻ cùng độc giả VietNamNet góc nhìn về những vấn đề trên. Xin trân trọng giới thiệu 2 vị khách mời:

–         Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hùng – chuyên gia nghiên cứu về ASXH, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

–         Ông Đoàn Hữu Minh – Cán bộ chương trình của UNDP tại Việt Nam 

>> Mời độc giả theo dõi Video Tọa đàm tại đây:

Hệ thống an sinh đa tầng lưới

Nhà báo Diệu Bình: Thưa Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hùng, trong giảm nghèo bền vững, hệ thống ASXH đóng vai trò như thế nào và gồm các trụ cột gì? 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên xã hội trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay gặp phải những rủi ro khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội.

Về giảm nghèo trong cấu trúc ASXH, Nghị quyết 15–NQ/TW năm 2012 lần đầu tiên đã xác định cấu trúc hệ thống ASXH ở nước ta trong đó gồm 04 trụ cột chính:

Thứ nhất là trụ cột việc làm, thu nhập và giảm nghèo. Trong những năm qua Việt Nam đã đạt được thành tựu ấn tượng trong hỗ trợ tạo việc làm và giảm nghèo. Nó đi cùng với đà tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao, và sự vào cuộc của Chính phủ, hệ thống chính trị, các DN thuộc mọi thành phần kinh tế được tạo điều kiện phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài.

Điều này đã tạo đà thúc đẩy cho việc làm và giảm nghèo theo mục tiêu thiên niên kỷ, mục tiêu quốc gia. Thời gian qua dù có đại dịch Covid-19, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy trì ở mức thấp 2% – 3%. Tỷ lệ nghèo giảm xuống dưới 10% (theo chuẩn nghèo đa chiều).

Thứ 2 là lĩnh vực bảo hiểm xã hội (BHXH). BHXH ngày càng mở rộng diện bao phủ và cải thiện chế độ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu an sinh của người lao động. Hệ thống cơ quan BHXH được thành lập từ Trung ương tới địa phương. Hệ thống pháp luật về lao động và bảo hiểm ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế, quốc tế. 

Các hình thức bảo hiểm được mở rộng với việc giới thiệu BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế (BHYT) gia đình… Phạm vi bao phủ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp ngày càng mở rộng. Đặc biệt là việc cải cách thủ tục hành chính giúp thủ tục tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH ngày càng thuận lợi.

Thứ 3 là trụ cột trợ giúp xã hội với những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trợ giúp xã hội được quan tâm góp phần bảo đảm đời sống cho một bộ phận nằm trong nhóm yếu thế của xã hội là người già, người tàn tật…

Trụ cột thứ 4 là đảm bảo mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và bảo đảm thông tin… Trong những năm qua, các yếu tố này đã được Nhà nước đưa vào thành các tiêu chí trong chuẩn nghèo đa chiều. 

Nhà nước luôn có nhiều chính sách phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ, triển khai lan tỏa vào vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, Nhà nước cũng có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ người nghèo, trẻ em trong tiếp cận giáo dục, y tế. 

Nhờ những nỗ lực này, Việt Nam trở thành nước có chỉ số phát triển con người HDI cao, giảm nghèo nói chung và nghèo đa chiều nói riêng đạt kết quả ấn tượng. 

 


Từ trái qua phải: Nhà báo Diệu Bình, TS. Nguyễn Tiến Hùng, ông Đoàn Hữu Minh.

Ông Đoàn Hữu Minh: Hệ thống ASXH quốc tế người ta đặt ra 4 chữ P, gồm: Promotion, Prevention, Provision, Protection, nghĩa là thúc đẩy, phòng ngừa, cung cấp, bảo vệ. ASXH cũng được thiết kế theo 4 chữ P này. 

Chữ P đầu tiên là chữ P về thúc đẩy. Đó là thị trường lao động, việc làm. Đối với một hệ thống chính sách, chúng ta sẽ cố gắng thúc đẩy dân số trong độ tuổi lao động tham gia thị trường này càng nhiều càng tốt. Bởi đây chính là trụ cột tạo ra thu nhập tích cực, để tạo ra của cải xã hội, để có thể phòng ngừa trong giai đoạn thứ 2. 

Chữ P thứ 2 là bảo hiểm, đây chính là trụ cột có chức năng phòng ngừa. Khi người lao động bị mất việc làm, ốm yếu hoặc về hưu, thì họ sẽ được hưởng trụ cột thứ 2 này, gồm BHXH, bảo hiểm thất nghiệp… 

Trụ cột thứ 3, liên quan đến trợ giúp xã hội. Trong trường hợp một người dân rơi khỏi cái lưới thứ nhất – thị trường lao động và trượt khỏi lưới thứ 2 –  bảo hiểm, họ sẽ được đỡ ở lưới thứ 3 này. 

Trợ giúp xã hội là trợ giúp những người yếu thế nhất trong xã hội, gồm người khuyết tật, trẻ mồ côi, người già cô đơn… Nếu những đối tượng này không có sự hỗ trợ của nhà nước, của cộng đồng thì khó mà tồn tại được. 

Do đó tầng lưới thứ 3 mang chức năng cung cấp. Vậy nên chúng ta mới có hệ thống chính sách trợ giúp thường xuyên, hàng tháng, để nhóm yếu thế này có khoản tiền nhất định để duy trì được cuộc sống của họ. 

Vậy giữa giảm nghèo với hệ thống an sinh có mối quan hệ thế nào? Hệ thống ASXH bao trùm và là một trong những cấu phần để giảm nghèo, cũng như giảm nghèo là một trong những cấu phần của ASXH. Giảm nghèo vừa là mục tiêu cho hệ thống ASXH, cũng vừa là các giải pháp để thực hiện mạng lưới ASXH.

Nói tóm lại, mạng lưới ASXH, hệ thống ASXH của Việt Nam hiện nay theo chuẩn quốc tế 4P. Thứ hai, nó được thiết kế đa tầng, người ta rơi khỏi tầng lưới này thì có thể được đỡ ở tầng lưới kia. Đây là hệ thống ASXH theo thiết kế khá toàn diện, phát huy được hiệu quả. 

Nhà báo Diệu Bình: Năm 2022 là năm đầu tiên Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo đa chiều mới được thiết kế cho giai đoạn 2021-2025. Đâu là những điều chỉnh lớn trong chuẩn nghèo mới so với chuẩn của giai đoạn 2016 – 2020? Trong chuẩn nghèo đa chiều mới, hệ thống ASXH có những thay đổi về thiết kế, tiêu chuẩn để phù hợp không? 

Ông Đoàn Hữu Minh: Thứ nhất, tôi cũng xin chia sẻ đôi chút về chuẩn nghèo đa chiều của quốc tế. Chuẩn nghèo đa chiều quốc tế không có chiều về thu nhập, họ chỉ có các dịch vụ xã hội cơ bản là y tế, giáo dục, các dịch vụ thiết yếu và phụ thuộc vào từng nước để quy định dịch vụ cơ bản này như thế nào. Việc đưa vào chiều cạnh tiền tệ là điểm ưu việt thứ nhất trong chuẩn nghèo đa chiều của Việt Nam so với chuẩn nghèo quốc tế. 

Một điểm ưu việt đặc biệt nữa là chúng ta sử dụng chuẩn nghèo này cho cả ba mục đích. Thông thường, chuẩn nghèo quốc tế họ chỉ sử dụng phục vụ việc theo dõi, nghiên cứu nghèo, để đưa ra những chuẩn đoán, định hướng nghèo trong tương lai của đất nước. 

Chuẩn nghèo của Việt Nam sử dụng cho cả 3 mục đích. Thứ nhất cũng dùng để theo dõi nghèo giống như chuẩn nghèo quốc tế. 

Thứ 2, dùng để xác định đối tượng. Nghĩa là dùng nó để xác định đến từng cá nhân, họ thiếu hụt về chiều thu nhập, về các chiều cạnh xã hội cơ bản hay thiếu hụt về bao nhiêu chiều cạnh, họ ở đâu…? Tóm lại là phải vẽ ra đầy đủ thông tin về cá nhân đó hay hộ đó.

Điểm đặc biệt nữa là người ta sử dụng dữ liệu thu thập được với hai chức năng trên để thiết kế và thực hiện chính sách. Có nghĩa là chúng ta sử dụng các yếu tố này để áp dụng, thực hiện, thiết kế chính sách, như về ASXH theo chuẩn nghèo mới này. Như vậy, chúng ta thực hiện được cả ba mục đích. 

Liên quan đến thay đổi lớn của chuẩn nghèo đa chiều cho giai đoạn mới, UNDP vừa là một cơ quan tư vấn chính sách cho Chính phủ, cũng là cơ quan đồng hành cùng Bộ LĐTBXH để xây dựng và thực hiện chuẩn nghèo này. 

Chúng tôi nhận thấy có 3 điểm đổi mới lớn rất dễ nhận thấy. Thứ nhất, chúng ta đã nâng chuẩn nghèo về thu nhập trước đây là 700 nghìn đồng ở nông thôn, 900 nghìn đồng ở thành thị lên 1,5 triệu đồng ở nông thôn (gấp hơn 2 lần), 2 triệu đồng ở thành thị. 

Đây là mức đang tiệm cận được với mức sống tối thiểu, một mức tăng rất đáng ghi nhận. Với mức tăng này, theo tính toán của chúng tôi với Tổng cục thống kê sẽ có khoảng 10 triệu người trước đây có thể chưa được bao phủ bởi chuẩn cũ sẽ được bao phủ theo chuẩn mới. Việc này rất có ý nghĩa khi họ vừa trải qua đợt dịch Covid-19 vừa qua. 

Liên quan đến thu nhập, tiền tệ, chúng ta còn bổ sung thêm chiều việc làm. Điều này đảm bảo cho người dân có việc làm mới có thu nhập ổn định. Điểm nữa là bổ sung chiều về người phụ thuộc, điều này cho thấy một người lao động sẽ gánh bao nhiêu người phụ thuộc trong gia đình và cũng tách bạch được 2 vấn đề giảm nghèo và trợ giúp xã hội.

Thứ 2, chuyển từ việc đo các chỉ số đầu vào thành đo chỉ số đầu ra và kết quả. Điều này có ý nghĩa ở nhiều mặt. 

Ví dụ trong y tế, trước đây chúng ta chỉ đo tỉ lệ người dân được cung cấp thẻ BHYT, còn việc họ sử dụng thế nào, chất lượng ra sao… chưa đo được. Hiện nay chúng ta đo được mức độ dinh dưỡng, có các chỉ số tác động trực tiếp do y tế mang lại. Nếu dinh dưỡng tốt nghĩa là kết quả chăm sóc y tế tốt. 

Hoặc liên quan đến giáo dục. Trước chúng ta chỉ đo mức trẻ em nhập học chẳng hạn, bây giờ nâng cao tiêu chí lên một chút nữa, đó là trẻ em nhập học đúng tuổi. 

Điểm thứ 3 cũng rất đáng hoan nghênh, đó là Bộ LĐTBXH rất tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xác định đối tượng, quản lý dữ liệu, cũng như thực hiện chương trình. Phía UNDP đã đồng hành cùng Bộ LĐTBXH thiết kế ra bộ công cụ cũng như quy trình, đặc biệt là phần mềm, để người dân có thể tự đăng ký vào hệ thống của Chính phủ và tự khai báo thông tin.

Qua đó cấp xã có thể xác nhận thông tin và người dân tự động được nằm trong danh sách nếu thông tin của họ khai báo phù hợp với chuẩn nghèo. Thứ nhất, việc này giúp giảm được thủ tục hành chính. Trước chúng ta sử dụng hệ thống giấy tờ, cán bộ xã hội sẽ đi đến từng nhà để xác định, như thế sẽ rất mất thời gian và quy trình này sẽ diễn ra hàng năm. 

Với hệ thống mới, người dân ở bất kỳ nơi đâu và bất kỳ khi nào, chỉ cần tiếp cận được Internet là có thể đăng nhập và tự khai báo. Nghèo đói có thể diễn ra bất kỳ lúc nào trong cuộc đời, nếu như phải chờ đến cuối năm mới được rà soát thì sẽ rất trễ. Với hệ thống này họ có thể khai báo một cách kịp thời và được hưởng chính sách nhanh chóng hơn. 

Điều này xoay chuyển cách người dân tiếp cận với hệ thống. Trước đây cán bộ của địa phương sẽ đến người dân để rà soát nhưng ở đây người dân sẽ chủ động tiếp cận hệ thống, nhờ đó bảo đảm được quyền của người dân, tính chủ động, họ sẽ chịu trách nhiệm về thông tin khai báo. Điều này sẽ đảm bảo tính minh bạch, kịp thời của hệ thống.

Đây là 3 điểm rất mới trong chuẩn nghèo đa chiều trong thời gian tới. Đó là chuẩn nghèo về thu nhập, thứ hai là đo theo kết quả đầu ra và thứ ba là ứng dụng CNTT. 


Ông Đoàn Hữu Minh

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Chuẩn nghèo đa chiều có những điểm mới, đặc thù ở Việt Nam nhưng đồng thời cũng đạt được quy chuẩn chung của thế giới. Những điểm mới đó sẽ giúp giảm tải rất nhiều áp lực lên mục tiêu và tốc độ tăng trưởng kinh tế. 

Đặc biệt, việc nâng tiêu chí về thu nhập rõ ràng cho thấy sự quan tâm của xã hội, của Nhà nước, nhưng điều quan trọng nhất, mấu chốt trong đó là hướng người dân tới khát vọng vươn lên tự giải phóng chính mình, tự làm ổn định cuộc sống và từ đó sẽ thúc đẩy cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung. 

Qua đó, tự bản thân họ thoát được nghèo, đồng thời hỗ trợ người khác thoát nghèo. Đây mới là mục tiêu, mục đích đúng nghĩa mà chuẩn nghèo đa chiều mang lại. 

Và khi đã có việc làm, muốn nâng cao thu nhập phải kích thích tính sáng tạo của người lao động. Do đó quá trình này mang lại lợi ích nhiều chiều, không chỉ dừng lại ở góc độ là an sinh theo đúng nghĩa của nó là tạo điều kiện cho những người giảm thu nhập, mất việc làm hoặc rơi vào tác động của dịch bệnh thiên tai nữa mà ở đây là vươn lên trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Nhân tố mang tính quyết định trong giảm nghèo bền vững

Nhà báo Diệu Bình: Mong được nghe các vị chia sẻ thêm về khái niệm “việc làm có năng suất” và vai trò, ảnh hưởng qua lại của nó trong giảm nghèo bền vững.

Ông Đoàn Hữu Minh: Có một số khái niệm phổ biến về việc làm có năng suất nhưng theo tôi nó cần đáp ứng được 4 tiêu chí: Số lượng, chất lượng, thời gian, mức chi phí hợp lý. Nghĩa là sản phẩm mình bán ra thị trường phải cao hơn giá trị đầu tư vào sản xuất thì mới đáp ứng được yêu cầu về việc làm có năng suất. 

Tuy nhiên, trên thực tế, có hai loại hàng hóa, một loại nhìn thấy được, loại thứ 2 là vô hình. Với loại hàng hóa đo đếm được có thể áp dụng tiêu chí này rất dễ dàng. Nhưng với những hàng hóa mang tính chất vô hình thì rất khó, chẳng hạn nâng cao năng lực, trí tuệ… Chúng ta lại phải có những bộ tiêu chí tương đối khác, đặc thù để có thể đo lường việc làm có năng suất. 

Còn về vai trò của việc làm đối với giảm nghèo bền vững, chúng tôi xác định đây là nhân tố quyết định. Trong các báo cáo cũng như các đề xuất của UNDP đối với Chính phủ Việt Nam, chúng tôi cũng thường xuyên đề cập đến việc làm có năng suất, dịch vụ trợ giúp xã hội và dịch vụ xã hội cơ bản. Đó là 3 trụ cột chính để tạo nên hệ thống gọi là chính sách giảm nghèo bền vững. 

Việc làm có năng suất đã đẩy nền kinh tế lên, đẩy mức thu nhập của người dân lên và giúp rất nhiều cho giảm nghèo. Có lẽ một quan điểm được rất nhiều người đồng tình, ủng hộ, đặc biệt là các nhà khoa học, đó là sự phát triển kinh tế chung của Việt Nam đi lên sẽ kéo tỷ lệ nghèo giảm xuống, cải thiện đời sống, kinh tế, xã hội của người dân. Chính vì vậy, đóng góp của việc làm, sự phát triển kinh tế chung của cả đất nước mới là chỉ số quan trọng để giúp chúng ta có tỷ lệ giảm nghèo bền vững.

Điểm thứ hai, chúng tôi đánh giá rất cao Chính phủ Việt Nam trong thiết kế và thực hiện các chương trình giảm nghèo giai đoạn 2021 – 2025. Trong giai đoạn mới, chúng ta đưa rất nhiều mô hình, phương pháp tiếp cận mới vào các chương trình giảm nghèo. 

Đặc biệt là chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số cũng như chương trình giảm nghèo bền vững của Bộ LĐTBXH đã mở ra cho chính quyền địa phương những cơ chế để có thể sáng tạo, chủ động trong hoạt động giảm nghèo của họ, để họ có trách nhiệm hơn với đời sống, kinh tế của địa phương. 

Thời gian tới cũng có những cơ chế hỗ trợ không chỉ cho người nghèo mà cả những người biết làm ăn kinh tế. Qua đó, giúp cho người nghèo cùng tham gia vào thị trường, tham gia vào chuỗi phát triển sản xuất để giúp cả cộng đồng đi lên, chứ không chỉ hỗ trợ trực tiếp cho các cá nhân như các giai đoạn trước. 

Đồng thời, chúng ta cũng tập trung hỗ trợ theo phương thức dự án, tức là tổ hay nhóm đó cần chủ động xây dựng kế hoạch, dự án đáp ứng được nhu cầu của địa phương, phù hợp với từng điều kiện kinh tế, xã hội của từng nhóm người. Như vậy, nó sẽ phát huy được thế mạnh của họ. 

Tóm lại, để giảm nghèo bền vững, chúng ta cần có những chính sách thúc đẩy việc làm có năng suất, tạo thu nhập cao và đặc biệt là có chính sách để biến nông dân thành công nhân hay chuyển công nhân từ những khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức. Từ đó, họ có được thu nhập ổn định cao hơn, tiếp cận được hệ thống bảo hiểm, chỉ khi họ tham gia vào khu vực chính thức họ mới được bảo hiểm ở tầng lưới thứ 2. 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Trong bất cứ lĩnh vực nào, làm việc mà có năng suất luôn đi cùng việc đảm bảo chất lượng công việc mới đạt được hiệu quả cao, qua đó góp phần nâng cao cuộc sống của mỗi cá nhân và gia đình.

Trong giảm nghèo bền vững, vấn đề nâng năng suất gắn với rất nhiều yếu tố. Chúng ta không chỉ hỗ trợ, giúp đỡ cho người nghèo có cần câu hay con cá mà điều quan trọng là hướng họ tới mục đích lâu dài hơn, đó là quá trình tăng trưởng kinh tế nhưng đồng thời phải đảm bảo mục tiêu chung là sự ổn định của toàn xã hội. 

Trong giai đoạn hiện nay sau đại dịch, dòng chảy của FDI vào Việt Nam đã bắt đầu đạt đến áp lực là đòi hỏi nguồn nhân công lao động phải có trình độ cao. Để tạo việc làm có năng suất, chúng ta phải tạo ra nguồn nhân lực có trình độ, ít nhất đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế và hội nhập. Bởi khi chúng ta chào mời nhà đầu tư vào, họ đem công nghệ, kỹ năng, tạo ra việc làm nhưng điều quan trọng là ta phải tự đứng trên vai mình sau một thời gian. 

Trong các trụ cột, các tiêu chí, các cấu trúc của hệ thống an sinh, trong tiếp cận về dịch vụ xã hội cơ bản có vấn đề giáo dục. Lĩnh vực này phải là sự vào cuộc của cả hệ thống, để nâng dần dân trí lên, từ đó nâng chất lượng nguồn lao động để tạo ra việc làm có năng suất thì mới đạt được mục tiêu dài hạn. Qua đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống và người nghèo thoát nghèo, họ ổn định và không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi yếu tố khách quan.  


 TS. Nguyễn Tiến Hùng

Nhà báo Diệu Bình: Các ông có đánh giá như thế nào về những nỗ lực, thành tựu về tăng việc làm có năng suất mà chúng ta đã đạt được trong những năm qua? 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Nhìn lại quá trình hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đặc biệt là trong 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để cải thiện năng suất lao động (NSLĐ). Một bằng chứng rất rõ là sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ ngày càng gia tăng.

Nếu chọn ra một điểm nhấn thì có thể lấy mốc thời gian đó là từ năm 2013 đến nay, tình hình cải thiện về tăng trưởng NSLĐ đã dần bắt kịp, và đặc biệt là giai đoạn sau đại dịch Covid-19, từ đầu 2022 trở về đây, đã có những bước chuyển đổi. Minh chứng cụ thể là tăng trưởng GDP của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2022 đã hơn 8,8%. Trong dự báo của năm 2022, mục tiêu đặt ra theo đánh giá của Ngân hàng thế giới cũng như Ngân hàng châu Á có lẽ còn có thể vượt hơn. 

Theo số liệu thống kê, năm 2000 Việt Nam có 65,3% lực lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp nhưng đến năm 2020, giảm xuống chỉ còn 37,2% và tăng thêm lao động cho lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp. Giai đoạn 2016 – 2020, NSLĐ của chúng ta tăng 5,8%, cao hơn mức 4,3% của giai đoạn 2011 – 2015. 

Còn NSLĐ tính theo giá so sánh của năm 2010 chỉ tăng 5,4%, so với mức tăng 6,2% năm 2019 và 5 năm trở lại đây, rõ ràng mức này ngày càng tăng cao, và chúng ta đã theo kịp  khối ASEAN và châu Á, tiệm cận dần theo xu hướng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế.

Tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 theo đánh giá của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đạt được 5,11%, cao hơn mức trung bình của ASEAN (3,11%). Tuy nhiên, tốc độ này vẫn thấp hơn mức tăng của Trung Quốc (7%) và Ấn Độ (6%).

Mặc dù trong hơn 20 năm trở lại đây mức tăng NSLĐ cao, nhưng theo ước tính của ILO thì NSLĐ Việt Nam vẫn còn tương đối khiêm tốn. Chẳng hạn, thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan, 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy NSLĐ Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm.

Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 15, trong 15 chỉ tiêu kế hoạch ước đạt được của năm 2022, chỉ tiêu tốc độ tăng NSLĐXH là chỉ tiêu duy nhất ước chưa đạt, thậm chí thấp hơn tốc độ tăng NSLĐ xã hội năm 2021, dự kiến chỉ đạt 4,7-5,2%, thấp hơn so với kế hoạch đề ra. 

Rõ ràng, hiệu suất lao động là yếu tố cơ bản để tạo ra tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng của nền kinh tế bắt nguồn từ lực lượng lao động, chất lượng nguồn lao động. 

Thêm vào đó, Việt Nam hiện nay đang trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó vai trò quyết định vẫn là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có kỹ năng, tay nghề, chất lượng và hiệu quả cao thì chắc chắn đi cùng với nó là gia tăng NSLĐ.

Trong giai đoạn đầu, chúng ta thấy rất rõ cơ cấu “dân số vàng” của Việt Nam với khoảng 51,6 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 55% dân số. Đây là một lợi thế. Hơn nữa, với sự tiếp cận của công nghiệp 4.0, sự thúc đẩy của khoa học công nghệ, muốn tăng NSLĐ thì đi cùng với đó chúng ta phải có mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Mục tiêu xuyên suốt là phải phân loại, phân kỳ để từng ngành nghề, từng đối tượng lao động được bổ sung về năng lực, kỹ năng, trình độ. 

Trong giai đoạn hiện nay, các DN cũng nên hướng theo yếu tố này. Nếu chỉ dừng lại lao động mang tính phổ thông và giá rẻ, chúng ta sẽ không bắt kịp được và do đó sẽ không tiến sâu vào hội nhập của nền kinh tế quốc tế. 

Tốc độ phát triển, tăng trưởng của chúng ta là một điều mừng so với quá khứ. Tuy nhiên, so với tốc độ phát triển chung của thế giới, vô hình trung chúng ta sẽ bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Chúng ta thấy rõ là dòng chảy của FDI có những lĩnh vực đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao đã dịch chuyển thị trường đầu tư vào Việt Nam. 

Ông Đoàn Hữu Minh: Có một câu hỏi đặt ra là tại sao người Việt Nam rất thông minh, cần cù, sáng tạo nhưng NSLĐ lại thấp như thế? 

Một lý do chúng tôi nghiên cứu và quan sát thấy là xuất phát từ hệ thống giáo dục cũng như dạy nghề của Việt Nam. Chúng ta còn chạy theo kết quả nhiều hơn, đi vào lý thuyết là chính, dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Người nói có thể rất nhiều nhưng người làm cụ thể được, mà làm với chất lượng thực sự cao, đáp ứng được tiêu chuẩn của quốc tế thì rất ít. 

Chính vì vậy việc đổi mới hệ thống giáo dục nói chung và dạy nghề nói riêng trong thời gian tới cần phải có những hành động rất cụ thể. Chúng ta phải đặt ra những giáo trình đáp ứng nhu cầu của quốc tế cũng như là yêu cầu về NSLĐ. 

Hiện tại có những đào tạo theo tiêu chuẩn đầu ra gắn kết giữa nhà trường với các DN, người sử dụng lao động, để khi ra trường sinh viên có thể tiếp cận được với công việc họ có thể làm được ngay. Qua đó họ có được điều kiện để nâng cao năng suất dần dần lên. 

 
Nhà báo Diệu Bình: Vừa rồi, đại dịch Covid-19 đã khiến không ít ngành nghề chịu tác động mạnh mẽ hoặc bị đình trệ. Điều này đã tác động đến mục tiêu tạo việc làm năng suất trong giảm nghèo bền vững của chúng ta? 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Mặt trái của đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến toàn cầu, trong đó những nước chậm phát triển, đang phát triển có thu nhập trung bình như Việt Nam tác động tương đối rõ nét. 

Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,22%, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 3,1%. Theo đánh giá của Bộ LĐTBXH, đại dịch Covid-19 đã gây ra nhiều thách thức đối với thị trường lao động Việt Nam, chia cắt cục bộ giữa các vùng, các địa phương, gây ra thiếu lao động cho sản xuất – kinh doanh. 

Tác động của đại dịch Covid-19 bùng phát đối với Việt Nam thấy rất rõ cuối 2020, đầu 2021 trong các khu vực kinh tế trọng điểm của các thành phố lớn. Tiêu biểu như TP.HCM làn sóng dịch chuyển lao động lớn chưa từng có. Đặc biệt sau đại dịch, tình trạng thiếu hụt nguồn lao động rất lớn. 

Mặc dù đại dịch Covid-19 gây ra nhiều thách thức với thị trường lao động Việt Nam nói chung và quá trình tăng NSLĐ nói riêng nhưng nó cũng tạo ra không ít cơ hội. 

Thứ nhất là cơ hội để các doanh nghiệp sắp xếp, cơ cấu lại sản xuất kinh doanh phù hợp để đón đầu được thành tựu Cách mạng KHCN 4.0, để điều chỉnh, phân bổ lại lao động giữa các vùng, các ngành kinh tế, góp phần nâng cao NSLĐ. 

Để chuyển đổi yếu tố đó, thì nền kinh tế của chúng ta phải biết phát huy những lợi thế và đáp ứng xu hướng chuyển dịch dần theo kịp với thế giới như tăng trưởng xanh, kinh tế xanh. Trước hết hướng đến để tạo việc làm, tạo thu nhập, tạo sự ổn định của mỗi gia đình và xã hội, đồng thời qua đó chúng ta phải hướng đến xuất khẩu hàng hóa nhưng phải đạt cái quy chuẩn cao của những thị trường khó tính. Muốn vậy phải có một hệ thống giải pháp căn cơ và đồng bộ.

Tôi rất đồng tình với quan điểm của ông Minh khi cho rằng để tạo ra cơ hội việc làm mang tính bền vững phải đổi mới giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp. Tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” là bài toán, câu chuyện vẫn thường được bàn nhưng bối cảnh hiện nay cũng là một điều kiện để chúng ta sắp xếp, căn cơ lại. 

Có những yếu tố chúng ta phải biết tận dụng thời cơ, bước khôi phục, đặc biệt là thị trường lao động Việt Nam trở về trạng thái bình thường mới. Để làm được điều đó, theo tôi, góp phần trong công cuộc giảm nghèo bền vững, chúng ta cần phải thực hiện 1 số giải pháp cơ bản. 

Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả chủ trương, chính sách  của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế đi đôi với chăm lo phúc lợi, ASXH sau đại dịch. Thí dụ chúng ta có các Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch bệnh Covid-19; Nghị quyết số 116/NQ-CP và Quyết định số 28/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ BHTN…

Những chính sách này hỗ trợ được người dân trong ngắn hạn, còn về lâu dài cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ kịp thời, đồng thời các cơ quan chức năng và DN phải phối hợp chặt chẽ trong thực hiện những chính sách này. Bên cạnh đó, phải thực hiện các chương trình, các chính sách khuyến khích người lao động, đặc biệt là thanh niên tích cực học tập, nâng cao trình độ để có các kỹ năng, tay nghề đáp ứng yêu cầu phục hồi sản xuất, kinh doanh qua đó góp phần tăng NSLĐ. 

Điều không thể thiếu là các địa phương cần thiết lập hệ thống chính sách trên cơ sở hệ thống chính sách của nhà nước, để tạo ra kênh thông tin chính thống về việc làm, đào tạo nghề, về chiến lược phát triển kinh tế. 

Hiện nay thông tin tuy mở rộng nhưng rõ ràng việc đi vào các mục tiêu trọng tâm trong lĩnh vực của kinh tế, của tăng NSLĐ, của tạo ra việc làm, sự dịch chuyển từ thị trường, khu vực này sang thị trường, khu vực kia, cho đến dòng chảy lao động, nơi này thiếu lao động, nơi kia dư thừa… người dân vẫn chưa nắm được. 

Cơ chế chính sách của ta thì đúng nhưng thông tin đến không kịp thì sẽ ảnh hưởng rất lớn. Đặc biệt, các địa phương cần phải chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch khôi phục phát triển sản xuất của địa phương mình gắn với tổng thể phát triển, khôi phục phát triển kinh tế của quốc gia. 

Bây giờ là thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0, phải tăng cường quá trình giao dịch việc làm trên cổng thông tin hoặc các trung tâm hỗ trợ việc làm và phải phát huy năng suất tối đa các kênh này.

Mặt khác, để tạo việc làm cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Do đó, các nhà trường, đặc biệt là hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng quốc dân, các lĩnh vực trường nghề nói chung phải kết hợp giữa nhà trường với xã hội, với DN.

Ngược lại, các DN muốn tìm được nguồn nhân lực chất lượng và đáp ứng được nhu cầu, mục tiêu phát triển cũng phải chủ động gắn với các nhà trường. Bởi vì không có cái gì tự thân cả. Nếu người đào tạo cứ đào tạo, người có nhu cầu tuyển dụng cứ tuyển dụng thì cuối cùng nó không khớp được với nhau. Do đó phải đào tạo theo nhu cầu ở đầu vào và đầu ra có việc làm. 

Cuối cùng, theo tôi, phải có những cơ chế thu hút nguồn lực lao động của nước ngoài nữa. Như thế để có sự đối sánh, từ đó có sự chuyển giao về mặt kinh nghiệm, công nghệ, giao lưu về văn hóa, giao thương về kinh tế, góp phần thúc đẩy người dân tự lực. 

Nếu chính sách chỉ nằm trên giấy không có công cụ mang tính vi mô hiệu quả, thì những câu chuyện bàn về tỷ lệ thất nghiệp, tính ổn định, năng suất và mục tiêu xóa đói giảm nghèo sẽ vẫn được bàn từ năm này qua năm khác và chúng ta sẽ không có sức đề kháng tốt để đối chọi với những tác động bất khả kháng của khách quan. 

Ông Đoàn Hữu Minh: Trong thời kỳ Covid-19, chúng tôi tiến hành 1 loạt đánh giá tác động về kinh tế – xã hội, đặc biệt là với nhóm dễ bị tổn thương và nhận thấy 3 tác động rất lớn. 

Đó là tác động về kinh tế, thu nhập. Thời điểm tháng 7/2021, đợt dịch thứ 4 bùng phát, có đến 88% số hộ được khảo sát bị ảnh hưởng bởi việc làm, kéo theo 63,5% hộ bị giảm thu nhập từ 30% trở lên. 

Tác động thứ 2 phi kinh tế nhưng ảnh hưởng lâu dài, không thể đo đếm được bằng con số. Ví dụ như ảnh hưởng về sức khỏe, về tâm thần. Có đến 66,4% các hộ gia đình được hỏi có sự bất an, lo lắng, do tác động của Covid-19. Đặc biệt gần như 100% các hộ gia đình có phụ nữ làm chủ hộ rất lo lắng về vấn đề Covid-19, việc làm cũng như thu nhập. 

Theo con số của Bộ LĐTBXH, sau dịch Covid-19, có 2.100 trẻ em bị mồ côi, tạo ra gánh nặng rất lớn đối với xã hội; có khoảng 10 triệu hộ đã cần đến sự trợ giúp khẩn cấp của nhà nước. 

Theo đánh giá của UNDP với Tổng cục thống kê, chúng tôi có đo 1 cái khái niệm về cái nghèo thu nhập tạm thời. Kết quả khảo sát 6 vùng kinh tế của Việt Nam cho thấy 4/6 vùng là chịu sự tác động rất lớn, trên 85% các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Ví dụ như: Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng trung bộ, Duyên hải miền trung và vùng Đồng bằng sông Hồng là chịu ảnh hưởng trên 75%.

Bị suy giảm về kinh tế tạm thời có nghĩa là tụt giảm thu nhập trong thời gian ngắn. Tuy nhiên nó lại có một hàm ý về chính sách là: Nếu không có những giải pháp đồng thời, kịp thời như các gói hỗ trợ của Chính phủ, đối tượng này sẽ khó quay trở lại tình trạng ban đầu được, phần lớn các hộ này vẫn nằm trong tình trạng nghèo và xã hội khó quay lại trạng thái bình thường mới. Như vậy, từ cái nghèo tạm thời sẽ biến thành cái nghèo kinh niên, nghèo mãi mãi. 

Các xã hội nói chung cũng như Việt Nam sẽ chia ra làm 3 nhóm dân cư: nhóm có mức thu nhập cao, nhóm có mức thu nhập trung bình, trung bình thấp và nhóm nghèo. Với nhóm nghèo chúng ta đã có một số chính sách hỗ trợ, ví dụ chương trình giảm nghèo, các chính sách về trợ giúp xã hội… 

Tuy nhiên cái tầng ở trên chuẩn nghèo, có thể về thu nhập họ cao hơn một chút nên vẫn chưa ở diện hộ nghèo nhưng họ cũng rất bấp bênh. Ví dụ, các hộ gia đình lao động phi chính thức hoặc lao động tại các thành phố di cư, với tỷ lệ dân số chiếm khoảng 40%. Và họ lại chưa có chính sách cụ thể nào hỗ trợ nào, chúng tôi gọi đây là những “khoảng trống ở giữa”. Đứng trước tác động của đại dịch, nhóm ở giữa này là nhóm bị tác động rất nhiều. 

Chẳng hạn, trong các gói hỗ trợ của Nhà nước, những hộ nghèo hay hộ được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thì đã có trong danh sách đăng ký của Chính phủ rồi, họ tiếp cận gói này rất nhanh. Nhưng những hộ chưa nằm trong danh sách, ví dụ người lao động phi chính thức hoặc lao động di cư thì việc xác định được họ, các thủ tục xác định rất phức tạp, và để tiếp cận được chính sách cũng rất khó, do đó tỷ lệ tiếp cận thấp. 

 
Để người dân thực sự hiểu và tin vào BHXH

Nhà báo Diệu Bình: Các vị chia sẻ như thế nào về tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống ASXH và đối với giảm nghèo bền vững? Việc phủ sóng BHXH đã đạt được kết quả như thế nào? 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Trong cấu trúc của ASXH, BHXH nằm ở tầng thứ 2. Thực hiện chính sách BHXH là nhằm ổn định, hỗ trợ người lao động khi gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp để sớm hồi phục sức khỏe và có việc làm. 

Thứ hai, BHXH là công cụ đắc lực của Nhà nước góp phần vào việc phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và người lao động, đồng thời giảm chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh bền vững. 

Thứ ba, thực hiện chính sách BHXH là góp phần ổn định và nâng cao chất lượng nguồn lao động, đảm bảo sự bình đẳng, vị thế xã hội của người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau và thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội.

Thứ tư, thực hiện tốt chính sách BHXH thì chế độ hưu trí sẽ được bảo đảm, ổn định cuộc sống của người lao động khi về già và gắn kết trách nhiệm của các thế hệ cùng chung tay xây dựng và chăm lo đến nhau. 

Trong những năm vừa qua, tỷ lệ tham gia BHXH tăng, và trong cấu trúc của BHXH, yếu tố mang tính bao trùm ở Việt Nam là BHYT đến thời điểm này chúng ta đã đạt được trên dưới 90%. 

Các khu vực như Trung du miền núi phía Bắc có tỷ lệ bao phủ BHYT cao nhưng BHXH lại hơi thấp hơn. Theo mục tiêu đặt ra đến năm 2025, chúng ta mong muốn đạt mức độ bao phủ BHYT toàn dân. Đây là vấn đề không chỉ thể hiện giá trị nhân văn mà còn là thước đo của sự tăng trưởng, phát triển kinh tế theo hướng bền vững. 

Mặt khác, nó không chỉ tạo ra cơ hội cho mọi người bình đẳng ngang nhau, mà điều quan trọng là nền kinh tế muốn khỏe thì phải có sức lao động khỏe. Muốn có sức lao động khỏe, lĩnh vực y tế phải được thúc đẩy. 

Nhà báo Diệu Bình: Trong thực tế, vẫn có tình trạng không ít người lao động do hoàn cảnh khó khăn hoặc do chưa nắm được tầm quan trọng của BHXH và họ lựa chọn rút BHXH 1 lần. Điều này hẳn sẽ tác động không nhỏ tới hệ thống an sinh, đặc biệt trong bối cảnh dân số nước ta bắt đầu già hóa. Các vị cho suy nghĩ gì về việc này? 

Ông Đoàn Hữu Minh: BHXH là một trong 4 trụ cột của hệ thống ASXH. Hình dung ngôi nhà có 4 cột, nếu cột bảo hiểm bị mục ruỗng sẽ ảnh hưởng thế nào đến cái nhà? 

Cũng giống như nhiều chuyên gia khác, thông điệp của chúng tôi là khuyến khích người dân tích cực tham gia vào hệ thống BHXH, kể cả bắt buộc cũng như tự nguyện.  

Tuy nhiên, trên thực tế, BHXH bắt buộc hiện nay mới đạt có 32% số người lao động và đặc biệt là bảo hiểm tự nguyện rất thấp, mới 2,1%. Nếu tính theo tổng số lượng lực lượng lao động, chúng ta còn khoảng 37 triệu lao động chưa tham gia bất kỳ chương trình nào về ASXH. Như vậy chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực về lâu dài. 

Còn việc một số người dân, đặc biệt là sau đợt dịch Covid-19, có mong muốn rút bảo hiểm 1 lần sẽ có những tác động rất tiêu cực đối với hệ thống ASXH. 

Như tôi đã đề cập, hệ thống ASXH của chúng ta đa tầng như vậy. Khi một trong 4 trụ cột đó bị khuyết, đương nhiên là các trụ cột khác cũng sẽ bị ảnh hưởng và nó làm mất cân bằng trong hệ thống ASXH. Bởi hệ thống an sinh của chúng ta là gồm 2 cấu phần, thứ nhất là cấu phần đóng – hưởng đó là ASXH, thứ hai là không đóng nhưng vẫn được hưởng, cấu phần này sẽ do Nhà nước chi trả. 

Trong trường hợp hệ thống ASXH không được người dân đóng vào, cấu phần, quỹ bảo hiểm sẽ càng ngày càng teo đi. Nhà nước sẽ phải bù vào ngân sách. Nếu Nhà nước lấy phần không đóng đóng cho phần phải đóng, khi đó đáng nhẽ đối tượng về trợ giúp xã hội được hưởng thì họ sẽ bị giảm đi. Như vậy, nó sẽ mất cân đối giữa phần đóng và phần không đóng. Điều này tạo ra nguy cơ ví dụ như vỡ quỹ bảo hiểm. 

Thứ hai, nó sẽ ảnh hưởng đến người dân. Bởi rút BHXH một lần có thể lợi trước mắt nhưng ảnh hưởng lâu dài, họ có một khoản tiền nhỏ để xử lý nhu cầu ban đầu, nhưng về lâu dài họ không có nguồn thu nhập để có thể bảo đảm, duy trì cuộc sống khi về già, khi không còn sức lao động, ốm yếu, lúc đó phải phụ thuộc hoàn toàn vào con cái hoặc cộng đồng và họ không được hưởng BHYT. Như vậy, họ rất có rủi ro về sức khỏe và đặc biệt sẽ trở thành gánh nặng cho con cái sau này, ảnh hưởng đến kinh tế xã hội. 

 

Nhà báo Diệu Bình: Xem ra rất cần các giải pháp để BHXH tăng tốc nâng tỷ lệ “phủ sóng”? Xin được nghe góc nhìn của các vị.

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Tôi muốn nói sâu về chính sách BHXH. Chúng ta thấy phân tích được nguy cơ, đó là người lao động rút bảo hiểm 1 lần. Cái thứ hai là nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm. Nó có rất nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân căn bản. 

Thứ nhất là tỷ lệ người dân tham gia vào hệ thống BHXH chưa được nhiều. Lý do có thể là nhận thức của người dân về lĩnh vực này chưa cao, bên cạnh đó, nhiều người sử dụng lao động hay nợ đọng BHXH, không đóng cho người lao động, lợi dụng kẽ hở của pháp luật, v.v…

Chúng ta phải mở rộng diện bao phủ BHXH để hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân giống như BHYT. Ở đây, đôi khi về mặt thuật ngữ, chúng ta thấy nó vừa có cái bao trùm nhưng nó lại có cái tách riêng. BHYT là liên quan đến khám chữa bệnh, đảm bảo sức khỏe cho người dân nhưng BHXH lại liên quan đến phần hưởng lương tối thiểu khi anh mất sức lao động. Đó là hai điểm cần phải có điều chỉnh, phân tách rõ thì mới tuyên truyền được đến người dân.

Thứ hai, thời gian đóng và được hưởng BHXH cũng cần phải có sự điều chỉnh lại cho phù hợp với công thức tính của lương hưu. Rồi mở rộng đối tượng tham gia bắt buộc đến chủ hộ kinh doanh cá thể, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt, v.v…

Cùng với đó, phải tăng cường sự hỗ trợ, cải cách trong thiết kế chính sách, tổ chức thực hiện để củng cố niềm tin của người lao động, người dân vào vai trò, vị trí, giá trị của BHXH. Làm được chúng ta sẽ thúc nhanh quá trình chuyển dịch lao động từ phi chính thức sang khu vực chính thức.

Để đảm bảo cân đối tài chính của quỹ trong dài hạn, chúng ta cần khắc phục sự bất hợp lý về chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng nhưng chặt chẽ hơn trong quy định được hưởng BHXH 1 lần. 

Một vấn đề nữa, hiện chúng ta đang trong lộ trình áp dụng nhưng phải nghiên cứu một cách căn cơ, đó là khi thách thức về già hóa dân số ngày càng hiện hữu, thì độ tuổi nghỉ hưu và tăng độ tuổi bình quân nghỉ hưu theo thực tế… cũng là một bài toán đặt ra. 

Một khía cạnh khác, nhiều người còn e ngại nữa là sự bất cập giữa điều chỉnh lương hưu độc lập và mối tương quan giữa tiền lương và người làm việc cũng cần được điều chỉnh. 

Nếu triển khai được các giải pháp này, tôi nghĩ BHXH sẽ thực sự là trụ cột của an sinh và mọi người dân sẽ tham gia và quỹ ngày càng lớn mạnh, nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm không còn tồn tại. Người dân sẽ thấy rõ lợi ích khi người ta hết độ tuổi lao động, hoặc ốm đau đột xuất hoặc thiên tai địch họa chẳng may nảy sinh còn có tầng lưới này để trợ giúp. 

Sau cuối, chúng ta cần phải thiết kế các gói BHXH tự nguyện linh hoạt để người lao động có thể lựa chọn tham gia và thụ hưởng. 

 

Ông Đoàn Hữu Minh: Theo chúng tôi, hệ thống bảo hiểm của Việt Nam có nhiều ưu việt. Thứ nhất nó thể hiện tính nhân văn rất cao. Quá trình đóng bảo hiểm của người dân là có sự hỗ trợ của Nhà nước, chứ không phải hoàn toàn người dân đóng 100%. Đối với hộ nghèo, nhà nước hỗ trợ đến 30%, hộ cận nghèo là 25%, hộ bình thường là 10%. 

Mức đóng của chúng ta rất linh hoạt, có thể lựa chọn mức đóng tối thiểu theo chuẩn nghèo. Như trước chuẩn nghèo là 700 – 900 nghìn đồng, như vậy mức đóng 1 năm rất thấp. Bây giờ chuẩn nghèo nâng lên nhưng mức đóng chưa đáng là gì. 

Thứ hai, thời gian đóng, vừa rồi quy định là phải đóng 20 năm, sau đó mới đủ điều kiện hưởng nhưng bây giờ chúng ta đang bàn giảm mức đóng xuống 15 hoặc 10 năm. Như thế một người đến 50 tuổi vẫn bắt đầu đóng bảo hiểm được, bởi đến 60 tuổi là anh ta có thể hưởng lương hưu. 

Thứ ba, rất linh hoạt trong hình thức đóng, chúng ta có thể đóng gối đầu, đóng bù. Ví dụ giờ tôi quá tuổi, tôi đóng bù lại thời gian mà tôi bị giãn cách hay không đóng, tôi đóng thêm lên, đóng tăng mức lên cũng được. 

Rồi hình thức tham gia bảo hiểm. Hiện tại tôi có công ăn việc làm tôi đóng theo bảo hiểm bắt buộc nhưng khi tôi bị mất việc, chuyển sang kinh doanh tự do, tôi cũng có thể tham gia bảo hiểm tự nguyện, như thế, hình thức chuyển cũng rất đơn giản.

Đấy là cái ưu việt của hệ thống bảo hiểm của chúng ta. Tuy nhiên, rất đáng tiếc, tỷ lệ bao phủ của bảo hiểm hiện nay còn khá thấp như đã đề cập ở đầu. 

Chúng tôi cũng nghĩ đến 3 giải pháp chính. Thứ nhất là tăng cường khâu thông tin truyền thông một cách sâu rộng. Thang nhận thức của Bloom chia ra 6 bậc từ biết, hiểu, biết làm, phân tích, tổng hợp, rồi đến sáng tạo. Tôi nghĩ hiện chúng ta mới đang dừng ở mức truyền thông “biết”, chưa chắc đã “hiểu”. 

Ví dụ khi về quê, tôi hỏi người quen, các bác có biết tác dụng của bảo hiểm không? Có khi người ta chưa biết là thế nào cả chưa nói đến hiểu lợi ích của nó thì sao họ tham gia được. Chúng ta phải đặt ra những mục tiêu cụ thể từ đó có những phương thức truyền thông cho phù hợp: đạt mức độ hiểu, hay mức mà họ tham gia, hay họ còn đi tuyên truyền cho những người khác cùng tham gia nữa. 

Điểm thứ 2, tôi nói đến niềm tin, làm thế nào để người dân tin vào hệ thống, để người ta chịu bỏ tiền ra, thay vì cảm thấy lấn cấn bỏ tiền ra rồi đến lúc không biết nó đi đâu, đến bao giờ mới được hưởng? 

Một điểm nữa là, vốn dĩ người Việt Nam vẫn có truyền thống trẻ cậy cha, già cậy con đã ăn sâu vào tiềm thức, nghĩ rằng già rồi con sẽ nuôi… nên chưa chủ động trong lúc còn khỏe, lao động được… Thực ra, việc tham gia bảo hiểm là đóng khi khỏe để hưởng khi già yếu. 

Vấn đề nữa cũng cần lưu ý, đó là tại sao người dân lại quyết định rút bảo hiểm 1 lần. Bởi vì thực ra người ta cũng rất là khó khăn, không còn cách nào khác. Nhà nước cũng như là Bảo hiểm có lẽ cũng phải có giải pháp để có những nguồn thay thế như vay không có lãi, hỗ trợ của Chính phủ… để họ vượt qua khó khăn, không rút bảo hiểm, vì rút thì khó quay trở lại đóng được. 

Đặc biệt, trong cơ cấu đóng bảo hiểm, người đóng đóng 8%, người sử dụng lao động đóng 14%. Nếu trong trường hợp người ta thực sự cần rút mà chúng ta không có giải pháp thay thế, có lẽ cũng giải thích cho họ là hãy chỉ rút 8% anh chị đóng thôi, còn lại 14% kia hệ thống sẽ tiếp tục giữ lại cho anh/chị, khi anh/chị đến tuổi được hưởng hay về hưu, chúng tôi lại tiếp tục trả theo phần đóng còn lại. Như thế, mặc dù thấp nhưng người ta vẫn có 1 khoản nhỏ  và được trả một cách thường xuyên, liên tục hàng tháng, nó sẽ bảo đảm được tính an sinh cao. 

Tiếp đến, chúng tôi đề xuất đẩy mạnh ứng dụng CNTT. Đây là công cụ quản lý rất hữu hiệu, một khi thông tin minh bạch, chính xác, kịp thời thì sẽ tạo được niềm tin. 

 
Tấm khiên bảo vệ khi ốm đau 

Nhà báo Diệu Bình: Bảo hiểm Y tế đóng vai trò quan trọng ra sao trong hệ thống ASXH?

Ông Đoàn Hữu Minh: Hệ thống BHYT khác với hệ thống BHXH. BHXH theo nguyên tắc là đóng hưởng, anh đóng nhiều anh hưởng nhiều. Nó gần như là một dạng gửi vào ngân hàng, quỹ bảo hiểm người ta giữ cho mình để khi mình hết tuổi đi làm hay ốm yếu thì mình được hưởng.

Còn BHYT theo nguyên tắc chia sẻ, nghĩa là nhiều người đóng vào nhưng ít người được hưởng. BHXH thì ai cũng được hưởng, BHYT thì không ai muốn hưởng. Khẩu hiệu của BHYT là “Đóng khi lành, để dành khi đau”. Trong cuộc đời mình thì không thể tránh được đến lúc cần dịch vụ y tế. 

Thứ hai, đối với người dân, BHYT gần như là tấm khiên bảo vệ khi ốm đau. Có BHYT nếu đúng tuyến chúng ta được hưởng đến 80% – 100%, còn trái tuyến là từ 40% – 60%, như vậy cũng được hơn một nửa. Khi chúng ta đi làm, tạo được thu nhập, khỏe mạnh, thì dịch vụ y tế không quan trọng nhưng khi chúng ta mất việc làm, rơi vào tình cảnh không có thu nhập, lúc đó lại ốm đau nữa thì thực sự “cái giường đắt nhất trên thế giới chính là giường bệnh”. 

Ý nghĩa thứ 3, từ góc độ xã hội, BHYT hay BHXH là một cơ chế để chia sẻ, chia sẻ giữa người dân với nhau, giữa Nhà nước với người dân, để tạo ra sự công bằng và nó là lưới để bảo đảm không ai bị rơi xuống tầng cuối cùng, đều được nâng đỡ và nó bảo đảm sự chăm sóc về sức khỏe cho người dân và đặc biệt là người yếu thế trong suốt vòng đời của họ. 

Nhà báo Diệu Bình: Theo tôi được biết, về mặt con số, lĩnh vực BHYT đã có sự tiến bộ vượt bậc, vậy còn về mặt chất lượng, chiều sâu, mức độ cải thiện các cơ sở y tế… vừa qua đã có những cải thiện gì? 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Chính sách BHYT được Đảng và Nhà nước ta tổ chức thực hiện từ năm 1992; năm 2008, Luật BHYT ra đời. Cùng với sự phát triển của đất nước, chính sách BHYT ngày càng được hoàn thiện, tỷ lệ người dân tham gia BHYT tăng dần qua các năm.

Nếu như các năm 2009, 2015 độ bao phủ BHYT lần lượt đạt 57% và 74,7% dân số, thì đến tháng 5/2022, độ bao phủ đã đạt khoảng 88% dân số, tương ứng với 86,2 triệu người tham gia, từng bước tiến tới mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân.

Theo thống kê của BHXH Việt Nam, mỗi năm Quỹ BHYT chi trả từ 100.000 đến 105.000 tỷ đồng, một con số không hề nhỏ. Không chỉ chi trả chi phí khám chữa bệnh ban đầu mà còn cả các bệnh hiểm nghèo.

Mức chi như vậy trong thời gian vừa qua rõ ràng là sự cố gắng của Chính phủ, Nhà nước mang lại sức khỏe tốt nhất cho người dân, để tạo ra sức khỏe tốt nhất cho nền kinh tế. 

Thế nhưng, bên cạnh đó, chúng ta thấy vẫn còn bộc lộ những yếu tố bất cập về vấn đề thụ hưởng bảo hiểm. Hiện nay, hệ thống y tế Trung ương vẫn còn đóng rất nhiều ở các thành phố lớn, y tế cơ sở mặc dù đã được chăm lo, đẩy mạnh để giảm tải tuyến trên nhưng vẫn còn bộc lộ khá nhiều bất cập.

Một trong những nguyên nhân căn bản là năng lực kinh tế của chúng ta điều phối cho lĩnh vực này. Tuy rằng trong hơn 35 năm đổi mới, đặc biệt là từ 1992 đến nay nó đã được nâng cao và cải thiện, song so với nhu cầu người dân, với tình trạng, nguy cơ của tuổi già gắn với bệnh tật rõ ràng là vẫn quá tải. 

Một nguyên nhân nữa là nhu cầu của nhân dân muốn được khám chữa bệnh, chăm sóc tốt nhất, tối ưu. Đó là nhu cầu chính đáng. Tâm lý người dân vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào hệ thống y tế ở cơ sở, một phần đã bởi tuy được cải thiện nhưng so với tuyến y tế trung ương ở các thành phố lớn vẫn chênh lệch khá rõ. Mặt khác, đối với một số loại bệnh hiểm nghèo, nguồn thuốc để ngăn ngừa và chữa trị không thể ở vùng sâu, vùng xa được mà phải ở thành phố. 

Rồi chế độ lương, đãi ngộ cho hệ thống y bác sĩ hoặc trong ngành y tế được Đảng, Nhà nước quan tâm, bàn rất nhiều và nỗ lực nâng cao, nhưng vẫn còn bất cập. Thời gian vừa qua chúng ta có chủ trương đưa bác sĩ trẻ về tuyến dưới, tuyến cơ sở. Tuy nhiên, độ bao phủ vẫn ở mức khiêm tốn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. 

Bài toán này cần có lời giải, tuy nhiên ta phải có lộ trình, có bước đi, nguồn lực và một phần không thể thiếu là nâng cao nhận thức của người dân về khám chữa bệnh. Có vậy chúng ta mới giảm tải được từng bước và làm cho hiệu quả tấm thẻ BHYT thực sự là một điểm nương tựa lúc về già, ốm đau. 

Ông Đoàn Hữu Minh: Tại sao chúng ta cần phải phát triển hệ thống y tế cũng như các dịch vụ chăm sóc xã hội cộng đồng? Có mấy lý do. 

Tỷ lệ người dân, đặc biệt là người mắc bệnh, người khuyết tật hay người cần chăm sóc thì họ sống chủ yếu là ở cộng đồng, gia đình, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Chi phí khi chúng ta chăm sóc ở tuyến dưới cộng đồng ít nhất cũng rẻ hơn một nửa, thậm chí đến 10 lần, khi ta di chuyển xa ra khỏi cộng đồng đó. 

Thêm vào đó, khi được chăm sóc ở nơi gần gũi với họ, đặc biệt là đối với người khuyết tật, khi họ được phục hồi chức năng ở cộng đồng của họ, thì khả năng phục hồi cũng nhanh hơn, chi phí rẻ và tiện lợi. Phát triển được hệ thống dưới cộng đồng sẽ giúp được rất nhiều cho người dân và bao phủ rộng khắp, giảm bớt chi phí cho Nhà nước đi, cho người dân và hiệu quả điều trị cũng tốt hơn.  

Nhà báo Diệu Bình: Có quan điểm cho rằng cần ưu tiên củng cố hệ thống y tế cơ sở do đây là dịch vụ gần người dân nhất, đặc biệt là những người nghèo, người thu nhập thấp, người dân ở vùng sâu vùng xa. Ý kiến của các vị khách mời về khía cạnh này như thế nào? 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Quan điểm này là hoàn toàn đúng. Chúng ta không dàn trải nhưng rõ ràng sức khỏe nằm trong cộng đồng. Phân bố dân cư của chúng ta là theo địa bàn, gắn với cộng đồng nên từ tuyến dưới mà lên tuyến trên thì việc di chuyển, các yếu tố hỗ trợ để từ tuyến cơ sở lên được tuyến trên chi phí phụ trội rất là cao. Thực tế nếu chúng ta xây dựng được hệ thống y tế cơ sở chính là câu trả lời căn cơ nhất cho hệ thống khám chữa bệnh BHYT từ trước đến nay vẫn còn đang có những bất cập. 

Chính phủ đã có những quyết định phê duyệt các đề án, ví dụ Quyết định số 2348 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở. Sơ kết công tác triển khai thực hiện sau 5 năm cho thấy hệ thống y tế cơ sở đã có những bước nâng cao. 

Thứ nhất là về trang thiết bị y tế, đặc biệt là cấp xã trở lên đến tuyến huyện đã được cải thiện từng bước. Có những loại bệnh, ca phẫu thuật đã thực hiện ở tuyến cơ sở rồi. 

Thứ hai là hệ thống bác sĩ, y sĩ, hộ lý đã từng bước được lựa chọn theo kênh là khuyến khích những người được đào tạo bài bản ở các cơ sở y tế về tham gia ở vùng sâu, vùng xa. 

Tuy nhiên với cái tỷ trọng, sức khỏe cộng đồng và địa giới hành chính lớn như vậy đã tạo ra những bất cập. Bài toán căn cơ nhất để giải là phải có mục tiêu, đồng thời là sự điều hành, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự hậu thuẫn của xã hội, sự đồng lòng của người dân. 

Thêm nữa, có lẽ ở tuyến cơ sở ta nên đẩy theo hướng xã hội hóa, từ đó có được sự đầu tư, đồng thời các trang thiết bị hiện đại và có chế độ đãi ngộ đối với hệ thống ngành y, đặc biệt là các y bác sĩ, hộ lý để người ta an tâm công tác tại tuyến cơ sở. 

 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa khách mời, hiện nay các hoạt động chính trong lĩnh vực Trợ giúp xã hội cho các nhóm đặc thù của Việt Nam là gì? Trong những năm đại dịch vừa qua, trợ giúp xã hội có vai trò thế nào và có những điều chỉnh gì để đáp ứng tình trạng khẩn cấp không? 

Ông Đoàn Hữu Minh: Trợ giúp xã hội cũng là 1 trong 4 trụ cột của hệ thống ASXH, đây là tầng lưới cuối cùng. Lưới cuối cùng này bao gồm 3 cấu phần: thứ nhất là trợ giúp xã hội thường xuyên, thứ 2 là trợ giúp xã hội đột xuất, thứ 3 là dịch vụ chăm sóc xã hội. 

Về trợ giúp xã hội thường xuyên, hiện nay chúng ta đang thực hiện theo Nghị định 20 về chính sách trợ giúp xã hội, trước đây là Nghị định 136. Có 2 điểm mà tôi rất muốn đề cập ở đây. Chúng ta đang hỗ trợ cho khoảng 3,13 triệu người (chiếm 3% dân số), như vậy độ bao phủ của nó không phải cao, đặc biệt là với nhóm người khuyết tật. Chúng ta có khoảng hơn 7 triệu người khuyết tật, trong khi hiện nay mới có hơn 1 triệu người được hưởng, chiếm khoảng 18%. Như vậy còn lại hơn 80% những người khuyết tật nhẹ chưa được hưởng. Đấy là nói về mức độ bao phủ.

Về mức hỗ trợ phải nói là rất thấp, tính so với chuẩn nghèo thì chỉ đạt 18% chuẩn nghèo hiện nay. Đấy là ở nông thôn, còn ở thành thị vào khoảng 13,5%. Mức chuẩn để trợ giúp xã hội là 360.000 đồng, là mức rất thấp. Đặc biệt là so với các nước ASEAN, gần đây, chúng ta chỉ đầu tư khoảng 0,4% GDP, trong khi các nước khác họ đầu tư ít nhất 2 – 4% GDP. 

Cấu phần thứ 2, đó là trợ giúp đột xuất. Chúng tôi đánh rất cao tính linh hoạt của hệ thống trợ giúp đột xuất, đặc biệt khi bão lũ, thiên tai xảy ra chúng ta có được cơ chế hỗ trợ “4 tại chỗ”, gồm có chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện vật tư tại chỗ và hậu cần tại chỗ. Như thế là đáp ứng được tính kịp thời cao. 

Đặc biệt là năm 2021, trong thời gian đại dịch Covid-19 diễn ra, đã có đến 41/63 tỉnh thành được hỗ trợ của Chính phủ như gạo, trang thiết bị… để ứng phó Covid-19, hơn 10 triệu hộ dân đã được tiếp cận. Đó là những kết quả rất đáng ghi nhận.

Tuy nhiên cũng vẫn còn nhiều bất cập, chẳng hạn nguồn lực tại chỗ khi sự cố xảy ra nó lấy ở đâu, có hay không, rồi nguồn quỹ dự phòng cũng còn nhiều bất cập. 

Về dịch vụ chăm sóc xã hội, cũng có mấy điểm. Một là, chúng ta hiện có 425 cơ sở trung tâm trợ giúp xã hội. Các trung tâm, cơ sở này chủ yếu nằm ở các thành phố. Trong khi ở các tỉnh nghèo, mạng lưới trợ giúp xã hội dưới cộng đồng còn rất trống, chưa có. Mặc dù nhu cầu cao nhưng mạng lưới cộng tác viên công tác xã hội, chăm sóc xã hội dưới địa phương lại yếu. 

Từ các thực trạng như vậy của 3 cấu phần kể trên, chúng tôi có đề xuất 3 hướng xử lý trong thời gian tới. 

Thứ nhất, cần phải điều chỉnh tăng mức trợ giúp thường xuyên lên, ít nhất là tiệm cần dần với mức về chuẩn nghèo hay mức sống tối thiểu để đảm bảo đời sống của đối tượng được hỗ trợ. 

Thứ hai là phương pháp xác định đối tượng cần phải có những đổi mới. Hiện nay, khi vấn đề đột xuất hay đại dịch xảy ra, chỉ những người nằm trong danh sách mới tiếp cận được, còn những người đang nằm ngoài danh sách thì chưa tiếp cận. 

Có lẽ trong trường hợp như thế, ta nên áp dụng biện pháp tiếp cận theo các nhóm đối tượng. Ví dụ với nhóm trẻ em dưới 6 tuổi, nhóm phụ nữ mang thai hay là nhóm người già trên 60 tuổi. Chỉ cần đặt tiêu chí là đưa ra chứng minh thư là được nằm trong danh sách hay đủ điều kiện hỗ trợ rồi.

Hay là chúng ta hỗ trợ phổ quát đi. Trường hợp 1 thôn bản, khu vực, thành phố nào đó bị ảnh hưởng thiên tai hoặc đại dịch, có lẽ chúng ta nên cấp cho toàn bộ người dân ở đó được hưởng, không cần phải hộ khẩu. Một số nghiên cứu cho thấy có khi phát nhầm còn hơn bỏ sót. Vì nhiều khi, việc bỏ tiền ra đi xác định đối tượng thậm chí còn đắt hơn so với việc hỗ trợ cho nhóm đối tượng đó. 

Thứ 3 là trong những trường hợp khẩn cấp, như đại dịch Covid-19, có lẽ chúng ta nên nghiên cứu và đưa ra áp dụng phương pháp là tự kích hoạt. Nghĩa là trong trường hợp khẩn cấp thì trao quyền cho chính quyền địa phương tự kích hoạt một số chính sách. Ví dụ chính sách hỗ trợ thường xuyên, không cần phải xin, không cần phải “trình bẩm” nữa và cứ có một mức quy định như vậy là người ta tự động ứng phó, tự triển khai trong một thời gian nào đó, khi cái nguy cơ, đại dịch nó qua rồi lại trở lại trạng thái bình thường. 

Nhà báo Diệu Bình: Nguồn lực trợ giúp xã hội đang đến từ các kênh nào? Các ông đánh giá thế nào về việc cần thiết đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa nguồn lực thực hiện trợ giúp xã hội, nhất là trợ giúp khẩn cấp? Những năm qua nguồn lực này phát huy vai trò ra sao, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoặc thiên tai? 

Ông Đoàn Hữu Minh: Theo chúng tôi, nguồn lực hỗ trợ sẽ đến từ hai nguồn chính. Thứ nhất là từ Nhà nước, thứ hai chúng ta gọi là xã hội hóa nhưng thực ra là nguồn tư nhân hóa, tức là không của nhà nước thì sẽ của các tổ chức cá nhân để đóng góp vào. 

Về vấn đề xã hội hóa, theo chúng tôi quan sát hiện nay thì bộ máy hay chính quyền hơi quá ôm đồm, gần như “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Theo các kinh nghiệm của quốc tế, thông thường Nhà nước chỉ tập trung vào vai trò ban hành chính sách, đưa ra các tiêu chí, theo dõi đánh giá quá trình thực hiện chính sách. 

Còn lại việc cung cấp dịch vụ thường được giao cho các tổ chức tư nhân, để họ có chuyên môn, họ đứng ra cung cấp dịch vụ. Nhà nước chỉ đứng ra giám sát, đưa ra cơ chế, chịu trách nhiệm chi trả cho các tổ chức tư nhân thông qua hình thức hợp đồng đấu thầu để cung cấp dịch vụ.

Tuy nhiên, hiện nay hệ thống của chúng ta vừa ban hành chính sách, vừa cung cấp dịch vụ, vừa giám sát, vừa báo cáo, hơi bị chồng chéo, chưa phát huy được vai trò của tư nhân tham gia vào hệ thống cung cấp dịch vụ. 

Xã hội hóa hay tư nhân hóa là việc cần phải được triển khai, đẩy mạnh. Trong Nghị định 103 của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến vận hành hệ thống cung cấp dịch vụ cũng như là quản lý các cơ sở bảo trợ xã hội cũng có đề cập đến vấn đề xã hội hóa rồi nhưng chúng ta chưa có công cụ cụ thể để thực hiện. 

Ví dụ, khi xã hội hóa cần phải có danh mục dịch vụ hay cái khung kinh tế xã hội, khung giá qua đó các tổ chức tư nhân mới có thể áp dụng khung giá vào để người ta thu giá cũng như cung cấp dịch vụ theo quy định. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang thiếu cái cơ chế như vậy. 

Hoặc cơ chế về theo dõi, giám sát, đánh giá việc huy động nguồn lực cũng thế. Vừa rồi có một số lùm xùm liên quan đến ca sĩ, người nổi tiếng huy động được nguồn lực rất lớn. Việc sử dụng như thế nào chúng ta chưa có cơ chế cụ thể để minh bạch hóa nó. 

 
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT, phản biện xã hội

Nhà báo Diệu Bình: Thưa ông Nguyễn Tiến Hùng, những năm vừa qua, hệ thống ASXH được cải thiện rõ rệt là điều dù không có các con số cũng có thể quan sát thấy. Tuy nhiên liệu có xảy ra tình trạng tốc độ cải thiện không đồng đều giữa các nhóm đối tượng, vùng miền, dân tộc? Chúng ta đã nỗ lực xử lý vấn đề này ra sao? 

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Trong quá trình phát triển, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, trước cơ hội. Tuy nhiên, việc tận dụng cơ hội để phát triển của mỗi người là khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. 

Do đó tình trạng, tốc độ cải thiện không đồng đều giữa các nhóm đối tượng, giữa các vùng miền dân tộc là một yếu tố khách quan. Tuy nhiên, để nó tạo ra sự có tính tương đồng, tạo ra mặt bằng chung, rõ ràng phải có bàn tay của chính sách, của cơ chế quản lý, sự vào cuộc, đồng hành của người dân, trong đó có các doanh nghiệp, tổ chức. 

Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù đã hơn 35 năm Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, hệ thống an sinh tuy đã được cải thiện, đã bắt kịp với cấu trúc chung của thế giới nhưng rõ ràng tính bao trùm của nó đối với xã hội, mức độ minh bạch, vấn đề chưa huy động được chủ thể ngoài Nhà nước tham gia vào quá trình an sinh… này cũng là một trong những bất cập. 

Trong quá trình phát triển, chắc chắn trong tương lai không xa chúng ta sẽ điều chỉnh được những bất cập. Ví dụ chuyện ôm đồm quá nhiều việc của một cơ quan hành chính nhà nước, rồi sự chồng chéo giữa các Bộ, ngành trong cơ chế quản lý. 

Với sự tác động của công nghiệp 4.0 và yêu cầu đặt ra phải số hóa, khai thác tài nguyên số sẽ giúp giảm bớt được các khâu, quy trình ngắn lại, tính minh bạch được nâng cao. Khi tính minh bạch được nâng cao, niềm tin của người dân, của các chủ thể tham gia trong quá trình an sinh sẽ được nâng cao hơn. 

Những thách thức là không tránh khỏi, bởi vì trong xu thế phát triển, có những điều chúng ta dự báo được nhưng có những điều vẫn vượt ngoài dự báo. Điều quan trọng nhất là chúng ta dự báo để có cách phòng và chủ động trong quá trình khi bị tác động. Một mình Nhà nước không thể làm được mà phải toàn xã hội trong đó có người dân.

Để hệ thống an sinh thu hẹp dần tốc độ, giãn dần khoảng cách, sự phân hóa giàu – nghèo, những điểm bất cập trong quá trình đóng – hưởng của BHXH, chúng ta cần hoàn thiện về chính sách. 

Chúng ta cần hoàn thiện pháp luật an sinh. Thứ 2, theo tìm hiểu của chúng tôi, một số nước phát triển họ có sổ an sinh được kết hợp công nghệ để người dân khai, đóng. Hiện tại, như ông Minh đã phân tích quy trình để được hưởng các hỗ trợ an sinh còn không ít thủ tục khiến người dân nhiều khi cũng nản.

Cùng với đó, việc giám sát, kiểm soát để người cần được hưởng sẽ được hưởng và cơ chế chính sách thì không có cách nào khác là phải “đi tắt đón đầu”, tận dụng những ảnh hưởng của Công nghiệp 4.0, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật số. 

Tất nhiên điều này đòi hỏi sự bài bản, đòi hỏi nguồn lực huy động cho lĩnh vực này cũng tương đối lớn. Nhưng chúng ta theo nguyên tắc cái gì làm được trước, dễ hơn thì làm trước, rồi bắt kịp dần. 

 

Nhà báo Diệu Bình: Sau hơn hai năm trải qua đại dịch, chúng ta lại đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng khác về giá cả nhiên liệu, thực phẩm… Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, trong khi thế giới cũng chịu tác động nặng nề do đại dịch… 

Chúng ta phải làm gì để những thành quả ASXH không bị ảnh hưởng và mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” tiếp tục đạt được kết quả thực chất, bền vững?

Ông Đoàn Hữu Minh: Tôi cho rằng hiện trạng đặt ra 4 thách thức lớn. Thứ nhất, tăng trưởng toàn cầu đang giảm dần. Ngay từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008 – 2009 và đặc biệt sau đợt dịch Covid-19 vừa qua, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã chậm lại. Mức trung bình tăng giai đoạn 1995 – 2007 đạt 3,57%, 2010 – 2020 chỉ đạt 3,17%.

Thứ 2, cuộc cách mạng 4.0 và chuyển đổi số, về mặt tích cực mang lại rất nhiều lợi thế, nhưng đồng thời cũng phá vỡ rất nhiều cấu trúc trong kinh doanh, sản xuất kinh doanh truyền thống mà đặc biệt đối với Việt Nam đang tận dụng lợi thế lao động giá rẻ thì lợi thế này hiện nay không còn nữa. Chúng ta chưa có các giải pháp để chuyển đổi cơ cấu lao động cũng như nâng cao tay nghề, NSLĐ.

Thứ 3 là vấn đề biến đổi khí hậu và các bất ổn chính trị trên thế giới. Việt Nam là 1 trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. 

Ngoài ra chúng ta có những khủng hoảng mới như xung đột vũ trang ở châu Âu đến nay vẫn chưa biết khi nào dừng lại, khiến giá nguyên liệu, thực phẩm tăng. Rồi chủ nghĩa bảo hộ, bất ổn chính trị cũng đang là tác động rất lớn đến kinh tế toàn cầu. Đặc biệt đại dịch Covid-19 kéo dài đến nay vẫn chưa biết khi nào hết tác động, tác động về y tế, kinh tế, phi kinh tế… 

Theo Báo cáo phát triển con người năm 2022 của Liên hợp quốc, có đến hơn 90% các quốc gia đã ghi nhận mức giảm về điểm chỉ số phát triển con người.

Với những thách thức như trên, chúng tôi đưa ra một số giải pháp đối với Chính phủ Việt Nam để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và bảo đảm an sinh, không ai bị bỏ lại phía sau.

Thứ nhất, thúc đẩy việc làm có năng suất, chuyển dịch từ lao động phi chính thức sang lao động chính thức, tăng NSLĐ của người lao động và đưa họ vào một hệ thống ASXH để khi họ không lao động được nữa thì vẫn được bảo vệ.

Thứ 2, cần mở rộng diện bao phủ theo hướng phổ quát và nâng mức trợ giúp xã hội đối với nhóm yếu thế để đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ.

Thứ 3, cần triển khai hệ thống tự động kích hoạt khi khẩn cấp thành hỗ trợ thường xuyên trong những cú sốc lớn như Covid-19 vừa rồi.

Thứ 4, đẩy mạnh ứng dụng CNTT để minh bạch hóa trong quá trình thực hiện cũng như đăng ký để được hỗ trợ đối với người dân trong trường hợp khẩn cấp.

Cuối cùng, để dần giảm dần tính bất công bằng, cần thiết kế những chương trình mang tính chất liên kết vùng, để kinh tế vùng này có thể trợ giúp vùng kia, hoặc sản phẩm giữa các vùng có thể giao thương… để có thể cùng phát triển.

TS. Nguyễn Tiến Hùng: Tôi xin bổ sung một thách thức khách quan, không thể tránh khỏi đó là vấn đề già hóa dân số, kéo theo lợi thế về cơ cấu dân số vàng trong độ tuổi lao động sẽ suy giảm dần, như cảnh báo của một số nhà phân tích là tình trạng “chưa giàu đã già”.

Thứ 2, hệ thống dịch vụ tuy đã có nhiều cải tiến, nhưng theo quá trình, tốc độ của phát triển, sự thích ứng của hệ thống bắt buộc phải theo kịp, mà như thế nguồn lực, đầu tư của Nhà nước, quan tâm của xã hội với lĩnh vực này cần được cải thiện, đặc biệt khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế. 

Thứ 3, cũng như ông Minh đã đề cập, thách thức về biến đổi khí hậu, thiên tai địch họa khiến có nguy cơ nhóm đang ở mức trung bình có thể rơi xuống mức cận nghèo hoặc nghèo, cần được hỗ trợ. Nhóm tổn thương này luôn luôn có khả năng hiện hữu bất cứ lúc nào.

Ngoài các giải pháp ông Minh đã đưa ra, tôi cho rằng hiện nay Chính phủ đang tiếp tục tạo đổi mới, xây dựng một Chính phủ kiến tạo, minh bạch. Như vậy cần sự đồng hành của hệ thống chính trị từ Trung ương cho đến địa phương, sự đồng hành của mọi người dân, các tổ chức, cơ quan làm công tác giáo dục, tuyên truyền để chuyển hóa. 

Bên cạnh đó, yếu tố phản biện xã hội về chính sách lĩnh vực an sinh cần được đẩy mạnh hơn trong thời gian tới, như thế những hạn chế sẽ được khắc phục, tính ưu việt của hệ thống an sinh sẽ dần đáp ứng được nhu cầu, hiện thực hóa được mục tiêu của bản thân nó cũng như chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. 

Thưa quý vị và các bạn, chương trình tọa đàm đến đây kết thúc. Xin cảm ơn hai vị khách mời đã dành thời gian tham gia cùng báo VietNamNet. Xin tạm biệt các vị khách mời cùng độc giả và xin hẹn gặp lại trong các chương trình sau!

Trần Kiên, Thanh Bình, Duy Tiến, Nguyễn Vịnh, Nguyễn Thảo, Quang Thậm