Công ty xuyên quốc gia – vai trò- ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM
Phần I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
1. Định nghĩa và khái niệm
Trong các tài liệu về các công ty xuyên quốc gia, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng như “công ty quốc tế” (International Enterprise/Firm), “công ty đa quốc gia” (Multinational Corporation – MNC hay Multinational Enterprise – MNE), “công ty xuyên quốc gia” (Transnational Corporation – TNC) và “công ty toàn cầu” (Global Firm). Tuy nhiên, độ phổ biến của các thuật ngữ này là khác nhau và nội dung của chúng cũng có phần khác nhau.
Năm 1960, các thuật ngữ “công ty quốc tế” (International Enterprise/Firm) và “công ty đa quốc gia” (Multinational Enterprise) được sử dụng với ý nghĩa như nhau nhưng nhìn chung thuật ngữ “công ty quốc tế” được sử dụng phổ biến hơn. Theo học giả Jenkins thì các thuật ngữ này nói đến sự lớn mạnh của công ty đã vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia và có các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. Đặc điểm cơ bản của hai loại công ty này là quy mô lớn, sở hữu đa quốc tịch và có phạm vi hoạt động ở nhiều nước. Mặc dù hai thuật ngữ trên có ý nghĩa tương đối giống nhau nhưng xét về cách tiếp cận, thuật ngữ “công ty quốc tế” xem xét công ty từ góc độ kinh doanh quốc tế; trong khi thuật ngữ “công ty đa quốc gia” lại đề cập đến cả tính sở hữu đa quốc gia của công ty (Richard E. Caves, 1986). Vì thế thuật ngữ thứ hai phản ánh đầy đủ hơn đặc điểm của loại hình công ty này.
Sang đến đầu những năm 1970, thuật ngữ “công ty đa quốc gia” (MNE) được sử dụng nhiều hơn thuật ngữ “công ty quốc tế”. Trong thời kỳ này, MNEs chuyển sang cơ chế phi tập trung và đa doanh hơn trước. Quá trình ra quyết định các hoạt động của các công ty không còn độc quyền từ một chủ sở hữu ở chính quốc mà quyền tham gia quản lý cũng được trao cho những người bản địa ở nơi mà công ty đặt chi nhánh. Hơn nữa, những người này còn có quyền điều chỉnh tỷ lệ góp vốn và quyết định hình thức hợp tác (FDI) với MNE ở nước chủ nhà. Chính vì thế, cơ cấu tổ chức và hoạt động của MNE không chỉ có tính quốc tế mà còn mang đậm nét đa quốc gia.
Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để xem xét một công ty là MNE. Các học giả Mỹ thường căn cứ vào phạm vi kiểm soát và quản lý các hoạt động sản xuất ít nhất từ hai nước trở lên; họ cũng thường sử dụng thuật ngữ “doanh nghiệp” (enterprise) hơn là “công ty” (company) và nhấn mạnh đến mức độ kiểm soát và quản lý trực tiếp của các hoạt động ở nước ngoài của công ty (Richard E. Caves, 1986). Một số học giả khác lại cho rằng một MNE phải có quy mô tài sản đạt mức trên 100 triệu USD (Raymond Vernon, 1971) hoặc được xếp vào danh sách 500 công ty lớn nhất về tài sản trên thế giới được công bố hàng năm (Harvard Business School, 1974). Ngoài ra còn có tài liệu định nghĩa MNE dựa trên các tiêu chuẩn như số lao động sử dụng ở nước ngoài hoặc tỷ lệ tài sản ở nước ngoài trên tổng giá trị tài sản của công ty (Jenkins, 1987).
Các MNE tăng trưởng mạnh mẽ cuối những năm 1980 do sự nới lỏng các quy chế đầu tư nước ngoài ở các nước đang phát triển và xu hướng tự do hóa thị trường vốn quốc tế. Trong thời gian này, trào lưu các công ty mẹ (parent firms) mở rộng các chi nhánh ra nhiều nước (transnational) đã trở nên nổi bật và thuật ngữ “công ty xuyên quốc gia” (TNCs) được sử dụng rộng rãi.
Theo định nghĩa, TNC là doanh nghiệp có sở hữu và kiểm soát tài sản như nhà máy, hầm mỏ, đồn điền và các cơ sở bán hàng ở hai hoặc nhiều nước (Colman and Nixson, 1994). Định nghĩa này cũng được đưa ra bởi nhiều học giả như Jenkins, Rasiah hay Dunning and Sauvant. Như vậy, theo các định nghĩa đã nêu, bản chất của TNCs và MNEs là giống nhau: chúng đều là những công ty có quy mô lớn về tài sản, phạm vi hoạt động ở nhiều nước và tìm kiếm lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Sự khác nhau về tên gọi chỉ là phản ánh đặc điểm phát triển trong từng thời kỳ tăng trưởng của TNC hoặc thói quen sử dụng từ ngữ của các học giả.
Gần đây, Hội nghị của Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: TNCs bao gồm các công ty mẹ và công ty con của chúng ở các nước trên thế giới. Công ty mẹ kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở nước sở hữu hơn là ở nước ngoài. Công ty con là công ty hoạt động ở nước ngoài dưới sự quản lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi nhánh ở nước ngoài.
Cũng theo định nghĩa này, có những loại công ty con sau đây:
Công ty phụ thuộc hay còn gọi là công ty con (Subsidiary Enterprises): là công ty TNHH (trách nhiệm hữu hạn) ở nước chủ nhà (Host Country – nước có công ty con của TNCs hoạt động), trong đó chủ đầu tư (thuộc công ty mẹ) sở hữu hơn 50% tài sản của công ty. Họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên trong bộ máy tổ chức và quản lý điều hành của công ty.
Công ty liên kết (Associate Enterprisies): là công ty TNHH ở nước chủ nhà, trong đó chủ đầu tư sở hữu ít nhất là 10% nhưng không lớn hơn một nửa quyền biểu quyết của các cổ đông, quyền hạn ít hơn công ty phụ thuộc.
Công ty chi nhánh (Branch Enterprises): là công ty hoạt động ở nước ngoài với 100% tài sản thuộc sở hữu của công ty mẹ.
Từ các nhận xét trên, có thể thấy được rằng, về bản chất, các thuật ngữ về công ty xuyên quốc gia không có sự khác biệt đáng kể. Chúng đều có đặc điểm chung là quy mô lớn, sở hữu đa quốc gia và kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều nước. Sự khác biệt chủ yếu chỉ là ở tên gọi, phản ánh những đặc điểm cụ thể về công ty xuyên quốc gia qua các thời kỳ, giai đoạn phát triển hoặc theo thói quen sử dụng từ ngữ của các học giả. Cũng có thể nói rằng, khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác nhất về công ty xuyên quốc gia; chính vì vậy, trong khuôn khổ bài giới thiệu này, thuật ngữ “công ty xuyên quốc gia” (TNCs) sẽ được sử dụng xuyên suốt.
2. Nguồn gốc hình thành của các công ty xuyên quốc gia.
Sự ra đời của TNCs trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn TBCN (Tư bản chủ nghĩa). Các công ty xuyên quốc gia là hình thức phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, và là kết quả trực tiếp của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản dưới sự tác động của các qui luật thị trường : là sự vận động mở rộng của quan hệ sản xuất TBCN thông qua các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh giản đơn đến kết cấu tổ chức sản xuất kinh doanh quốc tế.
Các TNCs ra đời và phát triển đã đem lại cho CNTB một hình thức tổ chức sản xuất mới, phản ánh sự thích ứng giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất TBCN ở tầm vĩ mô. Chúng là kết quả của quá trình cạnh tranh, tập trung tư bản và sản xuất không ngừng trong suốt quá trình tồn tại của CNTB, trong đó Tây Âu chính là nơi sớm ra đời phương thức sản xuất CNTB với các chế độ xí nghiệp TBCN – phôi thai của các TNCs hiện nay.
Tích tụ và tập trung sản xuất tất yếu dấn đến sự hình thành các TNCs. Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sé dẫn đến 2 xu hướng. Một là, các nhà tư bản với trình độ kỹ thuật cao và lực lượng kinh tế mạnh sẽ thôn tính các nhà tư bản nhỏ bị thua lỗ phá sản, làm cho quy mô sản xuất và quy mô tư bản ngày càng mở rộng. Hai là, cuộc cạnh tranh gay gắt sẽ nảy sinh xu hướng các đối thủ cạnh tranh phải liên hiệp với nhau, góp vốn để sản xuất kinh doanh chung.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng cùng với nhu cầu mở rộng qui mô sản xuất đã tạo cơ sở cho sự chuyển hóa dần những xí nghiệp TBCN thành những công ty cổ phần TBCN, là một hình thức tập trung tư bản dưới CNTB. Tín dụng trở thành công cụ tập trung vốn của các nhà tư bản thông qua phát hành cổ phiếu. Chế độ tín dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển của các lực lượng sản xuất và sự hình thành thị trường thế giới. Lênin cho rằng, việc CNTB mới-chủ nghĩa đế quốc trong đó độc quyền giữ vị trí thống trị thay thế CNTB cũ, là đặc trưng cơ bản nhất của giai đoạn phát triển hiện đại của CNTB, thể hiện bản chất kinh tế của CNTB mà trong đó quan hệ sản xuất TBCN vận động dưới hình thức tổ chức độc quyền.
Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty mẹ đứng đầu và các công ty con phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật vào công ty mẹ và rất nhiều các công ty con vừa và nhỏ hoạt động độc lập hoặc phụ thuộc. Ở các nước TBCN phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp, Italia, Canada, số xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm 70-80% tổng số các xí nghiệp. Về mặt tổ chức sản xuất, đây là hình thức mang tính hiệu quả cao vì giảm được chi phí sản xuất, tận dụng được nguyên liệu, phát huy tính sáng tạo…, do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận.
Từ thập kỷ 1960 trở lại đây, TNCs đã phát triển nhanh chóng dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ bùng nổ. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng đẩy mạnh dẫn đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hiệp nông-công nghiệp, nông-thương nghiệp (ở Mỹ những năm 1980, liên hiệp nông-công nghiệp chiếm trên 30% sản lượng nông sản). Cùng với quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp, mối liên hệ giữa công-nông nghiệp ngày càng tăng, đẩy mạnh xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc nội (hiện nay chỉ còn khoảng 2-10% ở các nước tư bản phát triển cao).
Quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học và công nghệ. Sự liên kết giữa các xí nghiệp lớn dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, trong đó lĩnh vực du lịch, ngân hang được các tổ chức độc quyền quan tâm và bành trướng quyền lực. Tình hình đó dẫn đến sự tập trung tư bản, tập trung sản xuất kinh doanh hết sức to lớn.
Tóm lại, tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến việc hình thành các TNCs, bởi đó chính là quá trình tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả năng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thực hiện việc đầu tư vào các nước dưới nhiều hình thức và thu được lợi nhuận cao.
3. Đặc trưng về quy mô và cơ cấu quản lý
Cơ cấu tổ chức của TNC rất đa dạng và phức tạp và có đặc điểm nổi bật là được tổ chức theo thức bậc (hierarchical organization). Có hai hình thức cơ bảncủa mô hình này: tổ chức theo chức năng (functional organization – F) và nhiều đầu mối (multidivision – MD)
Hình thức F bao gồm một nhóm các phòng chức năng, trong đó mỗi phòng có chức năng riêng và báo cáo trực tiếp với giám đốc điều hành. Đặc điểm của mô hình này là tính chuyên môn hóa rất cao giữa các phòng và mô hình này hoạt động rất hiệu quả nếu công việc không cần phải hợp tác giữa các phòng trong công ty.
Khi các hoạt động công ty trở nên đa dạng thì mô hình F không còn thích hợp nữa mà thay vào đó là mô hình (MD) hiệu quả hơn (Stopford and Wells, 1972). Trong mô hình này, mỗi hoạt động của công ty có bộ phận quản lý riêng và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của mình. Ban lãnh đạo công ty phân quyền, tăng tính tự chủ kinh doanh cho các bộ phận thành viên, còn họ chủ yếu tập trung vào các vấn đề có tính chiến lược dài hạn của công ty như những dự báo thay đổi lớn hay phân bổ tài chính, nguồn lực. Theo cơ cấu MD, ban lãnh đạo công ty quản lý các thành viên qua các chỉ tiêu lợi nhuận hơn là các mệnh lệnh trực tuyến. Bởi thế nó được áp dụng phổ biến hơn.
Mô hình cơ cấu tổ chức của TNCs luôn thay đổi, phụ thuộc vào đặc điểm cơ cấu thị trường và chiến lược hoạt động của chúng. Với TNCs mở rộng phạm vi hoạt động nhằm tìm kiếm thị trường thì cơ cấu tổ chức cải tiến gọn nhẹ hơn để tiết kiệm chi phí. Điển hình của chiều hướng này là hình thức sáp nhập và mua lại (Merger and Acquisitions – M&A). Trong khi đó, TNCs mở nhiều chi nhánh quốc tế và cấu trúc theo hệ thống “mẹ – con” (mother-daughter system) nếu phát triển theo hướng tìm kiếm nguồn nhiên liệu.
Cơ cấu tổ chức và quản lý của TNCs rất đa dạng, song phần lớn được cơ cấu dưới các dạng hình tháp (hình thức Concern) và mạng nhện (hình thức Conglomerate). Dạng cơ cấu hình tháp được đặc trưng theo trật tự thứ bậc nên có ưu điểm nổi bật là tính chuyên môn hóa qua từng khâu quản lý cao và dễ kiểm soát. Tuy vậy, mô hình tổ chức quản lý này lại kém linh hoạt, tỏ ra bất cập trong điều kiện môi trường cạnh tranh luôn thay đổi và tăng trưởng nhanh về quy mô của TNCs. Để khắc phục những hạn chế này, mô hình tổ chức quản lý theo kiểu mạng nhện đã thay thế trở thành mô hình tổ chức quản lý phổ biến của TNCs ngày nay.
4. Các loại hình công ty xuyên quốc gia (TNCs)
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các TNCs, tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu thì các phân loại phổ biến nhất hiện nay là phân loại theo trình độ phát triển, là sự thay đổi về hình thức sở hữu tư bản của các TNCs
1. Cartel: loại hình liên kết giữa các công ty độc quyền trong cùng một ngành, có thể cùng nhau ký hiệp định lập ra thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hang hóa và số lượng bán ra nhằm mục tiêu hạn chế cạnh tranh, phân chia lợi ích cụ thế. Ví dụ: OPEC (tổ chức các nước xuất khấu dầu lửa) là một loại Cartel có quy mô quốc tế, các thành viên OPEC thường thỏa thuận với nhau về số lượng dầu cung cấp và giá bán trên thế giới. Các công ty này về mặt phá lý là những công ty độc lập trong sản xuất cũng như thương mại. Hay tại Hồng Kông, các ngân hàng đã liên kết với nhau tạo thành một tổ chức Cartel và định lãi suất thấp cho các khoản tiền gửi và cao cho các khoản vay ngân hàng, thu được lợi nhuận trên 645 triệu USD trong năm 1991
2. Syndicate: cũng là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, các bên cùng ký hiệp định liên quan đến việc mua nguyên vật liệu vs giá thấp, bán sản phẩm vs giá cao Các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất nhưng không còn độc lập về thương mại. Một điều chú ý là rất nhiều Syndicate là do Cartel phát triển lên.
3. Trust: loại hình mà các xí nghiệp sản xuất cùng một mặt hàng hoặc ở các ngành kế cận nhau có quan hệ chặt chẽ, hợp nhất lại thành một tổ chức. Các xí nghiệp sau khi đã hợp nhất không còn độc lập về mọi mặt sản xuất, thương mại và luật pháp. Có 2 loại Trust cơ bản là công ty cổ phần đặc biệt (kiểm soát công ty qua việc nắm giữ cố phiếu) và công ty hợp nhất các xí nghiệp thông qua M&A (sát nhập và giải thể) (ví dụ như công ty Generator Motor Mỹ, là một trong 15 TNCs hùng mạnh nhất thế giới năm 1987 )
4. Concern: là một trong những hình thức phổ biến của TNCs hiện đại. Mối liên kết giữa các xí nghiệp trong Concern chủ yếu là liên kết ngang giữa ít nhất 2 công ty lớn kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân trong một ngành sản xuất hoặc giữa các ngành có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế và kỹ thuật. Đắc điểm nổi bật của TNCs thuộc Concern là sự thống nhất giữa tu bản sở hữu và quyền kiểm soát. Hình thức kiểm soát được xác lập từ công ty mẹ với các công ty con, cháu bằng chế độ điều hành trong hội đồng quản trị. Công ty mẹ chiếm một số cổ phiếu khống chế trong các công ty nhánh. Hội đồng quản trị đứng đầu các Concern, bao gồm những người có sở hữu cổ phiếu lớn nhất, tiếp theo là Hội đồng các giám đốc quản lý trực thuộc ban quản trị, có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo sản xuất và kinh doanh. Daimler Chrysler AG (DC) của Đức và Mỹ là một Concern khá điển hình. DC gồm nhiều công ty thành viên sản xuất các loại động cơ hết sức đa dạng. Hiện nay số tài sản của DC ở nước ngoài lên đến hơn 41,7 tỷ USD và doanh thu hàng năm là 55,2 tỷ USD, chỉ tính riêng cho 281 chi nhánh ở nước ngoài.
5. Conglomerate : là hình thức liên kết công ty theo chiều dọc, công ty lớn thâm nhập vào công ty, xí nghiệp của các ngành sản xuất khác không có sự ràng buộc về kỹ thuật sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu là liên hệ về tài chính. Conglomerate cơ bản bành trướng và thâu tóm trên thị trường chứng khoán. Công ty mẹ thực hiện việc mua cổ phiếu của các công ty đang hoạt động tốt ở tất cả các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao và thâu tóm dần. Vì thế, cơ cấu ngành kinh doanh trong Conglomerate luôn biến đổi theo hướng đa dạng, hỗn hợp và cơ cấu quản lý, điều hành phải linh hoạt. Ví dụ, công ty điện tín (ITT) của Mỹ từ một Trust hùng mạnh trong lĩnh vực điện thoại và viễn thông quốc tế, nay đã trở thành một Conglomerate khổng lồ do xâm nhập vào các ngành ngân hàng, bảo hiểm, khai thác đáy biển, dịch vụ, khách sạn, công nghiệp thực phẩm và báo chí.
Việc phân loại các TNCs theo các hình thức trên từ Cartel đến Conglomerate phản ánh sự giảm dần tính chất sở hữu tư nhân và sự tăng lên tính chất tập thể trong sở hữu tư bản. Các công ty tư bản độc quyền vốn đã tồn tại dưới hình thức những loại hình cơ bản này ở phạm vi quốc gia, nhưng do quá trình hoạt động phát triển, chúng buộc phải vượt ra khỏi biên giới quốc gia và hoạt động trên phạm vi quốc tế.
Phần II
VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TRONG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy nền kinh tế của các quốc gia phát triển và phục thuộc lẫn nhau nhiều hơn, dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Nhắc tới quá trình toàn cầu hóa không thể không nhắc tới hoạt động thương mại quốc tế của TNCs, một trong những nhân tố quan trọng tác động tới quá trình này.
TNCs có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thế giới bởi TNCs không chỉ tác động đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung mà còn tác động đến sự phát triển của nền kinh tế từng quốc gia nói riêng. TNCs đã thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế, thúc đẩy đầu tư quốc tế, chuyển giao và phát triển công nghệ, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực.
1. Vai trò của TNCs dối với thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế
1.1. TNCs thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế
TNCs đã thúc đẩy thương mại thế giới phát triển mạnh mẽ, nhất là đối với những nền kinh tế hướng về xuất khẩu, thông qua việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực sản xuất của thế giới. Kiểm soát hơn 50% mậu dịch quốc tế, TNCs ngày càng thúc đẩy mạnh quan hệ hàng hóa, tài chính trên phạm vi toàn cầu.
TNCs đã làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế thông qua thay đổi cơ cấu hàng hóa dịch vụ trao đổi và cơ cấu đối tác. Với sự tham gia sâu rộng của TNCs vào quá trình phân công lao động quốc tế, cơ cấu hàng hóa dịch vụ trao đổi có chiều hướng gia tăng tỷ trọng những hàng hóa có hàm lượng vốn, hoặc kỹ thuật cao và giảm dần tỷ trọng hàng hóa sử dụng nhiều lao động. Về cơ cấu đối tác cũng tăng dần tỷ trọng trao đổi hàng hóa và dịch vụ của các nước đang phát triển trên thị trường thế giới, đặc biệt là với các nước công nghiệp hóa mới.
Theo báo cáo đầu tư thế giới (Work Intervestment Report) năm 2006, giá trị xuất khẩu của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài đóng góp một tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị xuất khẩu ở một số quốc gia.
Bảng 1.1: Tổng giá trị xuất khẩu và đóng góp của các TNCs nước ngoài (đơn vị: triệu đôla Mỹ)
Nhờ vào mạng lưới dày đặc các công ty chi nhánh, TNCs có thể khai thác và tận dụng mọi nguồn hàng tiềm tàng của thế giới bằng hoạt động khai thác thị trường tại chỗ, làm giảm chi phí vận chuyển, hạ giá thành sản phẩm, phù hợp với thị trường mục tiêu, phục vụ có hiệu quả cho khâu tiêu thụ hàng hóa của công ty. TNCs cũng thực hiện hàng hóa hóa sản phẩm, từ bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ đến kinh nghiệm quản lý cũng được coi là sản phẩm trao đổi, mua bán, cho thuê,…Do đó các sản phẩm chất lượng cao của TNCs đã phá bỏ được những hàng rào biên giới quốc gia, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã hội hóa sản phẩm trên thế giới.
Tuy nhiên, vì mục đích lợi nhuận, TNCs có thể làm biến dạng các mối quan hệ hàng hóa tiền tệ thông qua hoạt động đầu cơ, nâng giá, trao đổi nội bộ giữa các công ty chi nhánh với một khối lượng lớn (chiếm tới 30% tổng khối lượng hàng hóa luân chuyển của TNCs không theo giá thị trường). Cho nên nó có thể gây nên tình hình mất ổn định trong lưu thông hàng hóa – dịch vụ cũng như nền tài chính – tiền tệ thế giới. Hầu hết các cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, sự bùng nổ nợ nần của thế giới thứ ba,…đều ít nhiều có liên quan tới TNCs. Vì vậy, các nước trên thế giới không phân biệt trình độ phát triển đều cần lưu ý đặt ra những luật lệ khống chế những tác động tiêu cực của TNCs, nhất là trong lĩnh vực khó kiểm soát như lưu thông hàng hóa và tài chính – tiền tệ.
Vai trò thúc đẩy thương mại quốc tế của TNCs được thể hiện thông qua tổng giá trị xuất khẩu và doanh thu của các công ty chi nhánh ở nước ngoài cũng như tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của TNCs. Xét theo những tiêu chí này, báo cáo đầu tư thế giới năm 2005 cho thấy tổng giá trị xuất khẩu của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài tăng lên nhanh chóng từ 730 tỷ USD năm 1982 lên tới 1498 tỷ USD năm 1990, đến năm 2003 và 2004 con số này đã tăng tương ứng lên tới 3073 tỷ USD và 3690 tỷ USD. Như vậy từ năm 1982 đến năm 2004, tổng giá trị xuất khẩu từ các công ty chi nhánh của TNCs ở nước ngoài đã tăng trên 500%. Cùng lúc đó, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vô hình cũng tăng tương ứng từ 2247 tỷ USD năm 1982 lên tới 11069 tỉ USD năm 2004, tăng khoảng 500%.
Biểu đồ 1.1: Giá trị xuất khẩu, tổng doanh thu của các công ty chinh nhánh TNCs ở nước ngoài và tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vô hình (đơn vị: tỷ đôla)
Nguồn: World Investment Report 2005, trang 14
1.2. Trao đổi hàng hóa và dịch vụ của TNCs
TNC là một hệ thống mạng lưới các công ty, trong đó công ty mẹ là công ty hạt nhân, giữ vai trò lãnh đạo, còn các công ty con là các công ty chi nhánh có chế độ hạch toán độc lập, nhưng phụ thuộc chủ yếu về tài chính, kỹ thuật công nghệ cũng như các định hướng phát triển chiến lược của công ty mẹ, có thể nói, trao đổi trong nội bộ công ty là trao đổi giữa công ty mẹ với các công ty chi nhánh của một TNC với nhau dù chúng ở những nước rất xa nhau. Trao đổi nội bộ là một hình thức kinh doanh để phát triển và giảm chi phí thường có của TNCs.
Trao đổi giữa các công ty chi nhánh trong nội bộ của TNCs ở các nước (intra-firm trade) ngày càng tăng nhanh và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị thương mại của nhiều nước.
Bảng 1.2: Giá trị trao đổi của TNCs và tỷ trọng của chúng trong tổng giá trị xuất, nhập khẩu của một số nước
Giá trị xuất khẩu của TNCs trong tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu tại một số nước trên thế giới hiện rất lớn và có xu hướng ngày một gia tăng.
Bảng 1.3: Giá trị xuất khẩu của TNCs ở một số quốc gia và khu vực trên thế giới (%)
Qua bảng trên có thể thấy được TNCs không chỉ có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngoại thương của các nước phát triển mà còn giữ vị trí không thể thiếu được trong sự phát triển của các quốc gia đang phát triển. Lấy Trung Quốc làm một ví dụ, năm 2001, giá trị xuất khẩu từ TNCs chiếm tới 50% tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu, trong đó giá trị xuất khẩu từ các ngành chế tạo cũng chiếm tới 44%. Điều này đã tạo tiền đề tốt cho Trung Quốc thực hiện công nghiệp hóa, hiện dại hóa cũng như giúp quốc gia này vươn lên vị trí cường quốc kinh tế trong những năm gần đây.
Với chiến lược đa quốc gia và tạo ra các liên kết giữa thương mại và đầu tư, các công ty mẹ thường chuyển giao trực tiếp công nghệ, nguyên liệu và dịch vụ cho các công ty chi nhánh của mình ở các nước. Tuy nhiên, trao đổi giữa các công ty chi nhánh của TNCs thường đi cùng với giá chuyển giao (transfer pricing), tức là giá cả không dựa trên quan hệ cung cầu (giá thị trường – arm’s length price) mà là giá thỏa thuận giữa các công ty chi nhánh trong cùng một TNC. Tình trạng này có thể làm hại đến nước chủ nhà, là vấn đề cần lưu ý đối với các nước đang phát triển. Nhìn chung, trao đổi nội bộ giữa các công ty chi nhánh TNCs trên thế giới chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới (UNCAD, 1995).
2. Vai trò của TNCs trong thúc đẩy đầu tư quốc tế
Tổng đầu tư của TNCs sẽ bao gồm cả hai loại hình đầu tư trong nước (nước đầu tư) và đầu tư ra nước ngoài (nước chủ nhà/nước đầu tư) với hai hình thức chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (PFI). Trong bài chuyên đề này chỉ xin phép được đề cập đến hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Với lợi thế về vốn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị trường rộng lớn, TNCs luôn tích cực đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Phần lớn FDI của thế giới được thực hiện bởi TNCs. Năm 1999, các chi nhánh TNCs trên thế giới đã đầu tư ra nước ngoài 644 tỷ USD trên phạm vi rộng trên 100 quốc gia và con số này đã tăng lên là 1679 tỷ USD vào năm 2008. Tuy trong thời gian gần đây FDI có xu hướng giảm nhẹ do cuộc khủng hoảng kinh tế tác động tới chiến lược đầu tư của TNCs nhưng vai trò của TNCs trong đầu tư quốc tế là không thể phủ nhận.
Vậy vai trò cụ thể của TNCs đối với đầu tư quốc tế là gì, tác động của FDI tới các hoạt động đầu tư quốc tế ra sao và hình thức của chúng như thế nào sẽ được tìm hiểu sau đây.
2.1. Thúc đẩy tự do hóa đầu tư giữa các nước
• Giảm bớt các rào cản đầu tư quốc tế
Thông qua việc trực tiếp tham gia các hoạt động đầu tư quốc tế, TNCs đã góp phần vào quá trình phát triển bền vững của nhiều nước, đặc biệt là chìa khóa cho công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển. Nguồn vốn FDI đến từ TNCs có vai trò quyết định đối với sự phát triển của nhiều quốc gia. Trong đó thì khi quyết định chiến lược đầu tư TNCs không chỉ căn cứ vào đặc điểm công nghệ và sản phẩm của mình mà còn cân nhắc tới đặc điểm và chính sách của nước nhận đầu tư. Do đó để thu hút đầu tư nước ngoài và đặc biệt của TNCs, nhiều nước đã không ngừng giảm bớt rào cản đầu tư để thu hút nguồn vốn quan trọng này. Xu hướng tự do hóa các chính sách đầu tư nước ngoài của các nước đã được xúc tiến mạnh từ những năm 1980, đặc biệt trong ngành dịch vụ, đã tạo ra khuôn khổ mới cho các hoạt động của TNcs cũng như thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của chúng. Ngày càng có nhiều điều chỉnh về luật pháp nhằm nới lỏng rào cản đầu tư quốc tế tuy tốc độ có chậm hơn so với trước năm 2001 và có sự khác biệt rõ nét ở từng quốc gia trên thế giới.
Từ năm 1991, UNCTAD (diễn đàn thương mại phát triển Liên Hợp Quốc) bắt đầu theo dõi sự thay đổi luật pháp của các nước đối với FDI và hoạt động của TNCs trên thế giới. Thực tế cho thấy hệ thống luật pháp của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển không ngừng được điều chỉnh. Dưới đây là bảng thể hiện sự thay đổi chính sách của các quốc gia theo đối với FDI.
Từ biểu đồ trên ta thấy những chính sách có lợi cho FDI vẫn chiếm tỉ trọng lớn hơn ở các quốc gia. Tuy nhiên con số này có xu hướng giảm dần theo từng giai đoạn do những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế đang diễn ra. Bên cạnh đó có những dấu hiệu cho thấy có sự tăng lên của sự bảo hộ thương mại bí mật dưới hình thức ưu tiên cho những sản phẩm mang tính chất nội địa.
Theo báo cáo năm 2009 của UNCTAD (diễn đàn thương mại phát triển Liên Hợp Quốc) thì năm 2008 và nửa đầu năm 2009, mặc dù quan ngại về việc tăng cường bảo hộ thương mại đầu tư có chiều hướng tăng lên nhưng xu hướng chung trong những chính sách với FDI vẫn duy trì là mở cửa, bao gồm cả việc hạ thấp rào cản FDI và giảm thuế thu nhập. Khảo sát thường niên của UNCTAD về thay đổi luật pháp và quy định của quốc gia liên quan đến FDI cho thấy rằng vào năm 2008, 110 chính sách mới liên quan đến FDI đã được ban hành mà 85chính sách trong số đó có lợi cho FDI. So với năm 2007 thì tỉ trọng của những chính sách bất lợi vẫn không có gì thay đổi.
Theo con số năm 2004, trong khi những nước đang phát triển và đang chuyển đổi ở châu Á và châu Âu hy vọng về khả năng thu hút được luồng FDI thông qua chính sách tự do hóa, các biện pháp ưu đãi và khuyến khích đầu tư thì ở một số nước đang phát triển tại châu Mỹ La tinh và Caribe, và châu Phi lại tăng thất vọng có thể thu hút được luồng FDI tương xứng với tiềm năng của họ thông qua các chính sách và biện pháp trên.
• Tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong thu hút đầu tư nước ngoài
Nhiều nước đã ký hiệp ước đầu tư song phương (BIT) và Hiệp định đầu tư đa phương (MAI) nhấn mạnh không phân biệt đối xử quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và xây dựng các cơ chế và nguyên tắc để giải quyết tranh chấp.
Các Hiệp ước đầu tư song phương (BITs) trước tiên được ký giữa các nước phát triển và đang phát triển nhằm thúc đẩy đầu tư giữa các đối tác ký kết hiệp định. Trong năm 2008, mạng lưới hiệp định đầu tư quốc tế có xu hướng tự do hóa: 59 hiệp ước đầu tư song phương mới được kí kết nâng tổng số hiệp ước lên 2.676.
Bên cạnh đó số lượng hiệp ước về chống đánh thuế hai lần (DTT) tăng lên 2.805 hiệp ước vào năm 2008 và số lượng các thỏa thuận quốc tế khác có điều khoản về đầu tư (chủ yếu là thỏa thuận tự do hóa thương mại) đạt con số 273 bản vào cuối năm 2008. Ở cấp khu vực và đa quốc gia đã diễn ra nhiều diễn đàn trao đổi và thương lượng về việc xây dựng các nguyên tắc đầu tư.
2.2. TNCs và đầu tư trực tiếp nước ngoài
• Cơ cấu và các hình thức FDI chủ yếu của TNCs
Việc gia tăng tổng tích lũy FDI và mở rộng hoạt động của các công ty chi nhánh ở nước ngoài cho thấy vai trò của TNCs trong nền kinh tế thế giới không ngừng tăng lên. Tuy nhiên thực tế cho thấy FDI không thể hiện hết giá trị vốn đầu tư thực của TNCs vì các công ty chi nhánh của chúng còn tạo nguồn vốn ở nước sở tại hoặc từ thị trường quốc tế.
Luồng FDI của TNCs cấu thành từ ba nguồn: Vốn góp (equity capital), các khoản vay trong nội bộ TNCs (intra-company loans) và lợi nhuận để tái đầu tư (reinvested earnings). Giai đoạn 1995-2004 trong tổng FDI vào các nước trên toàn thế giới vốn cổ phần chiếm tỷ trọng lớn nhất biến động trong khoảng 58% và 71% và là nguồn quan trọng nhất vào các nước đang phát triển, vay nợ nội bộ TNCs trung bình chiếm khoảng 23%, còn tái đầu tư chiếm khoảng 12%. Hai nguồn sau thường ít ổn định, vay trong nội bộ công ty giảm liên tục và đáng kể.
• GI và M&A – Sự lựa chọn của TNC và các nước chủ nhà
TNCs có thể đầu tư trực tiếp vào một nước khác thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới (GI), hoặc sáp nhập và mua lại (M&A) doanh nghiệp của nước sở tại. Tính tới năm 2004 đã có 9.800 dự án đầu tư mới (GI), tăng hơn 500 so với năm 2003 với giá trị cũng tăng mạnh. Ba phần năm tổng số dự án đầu tư mới trên thế giới là trong lĩnh vực dịch vụ. Các nước đang phát triển có xu hướng nhận nhiều FDI dưới hình thức đầu tư mới hơn hình thức M&A. Đối với hình thức M&A, Trung Quốc và Ấn Độ thu hút số lượng đáng kể dự án FDI, chiếm hơn nửa tổng số dự án vào các nước đang phát triển.
Cuối những năm 1980, nhiều TNCs thấy rằng để tạo chỗ đứng ở nước ngoài thì mua lại doanh nghiệp nước sở tại sẽ rẻ và nhanh hơn so với xây dựng các cơ sở sản xuất mới (GI). Phần lớn FDI của Mỹ và Tây Âu là theo hình thức mua lại. Theo rất nhiều đánh giá thì M&A đang là hình thức hợp tác được các công ty ưa thích hiện này và là một xu thế phổ biến trong nền kinh tế thế giới.
Trong quá trình toàn cầu hóa, M&A xuyên quốc gia dễ xảy ra trong các trường hợp liên quan tới những công ty lớn, những khoản tiền khổng lồ và hoạt động cải tổ cơ bản. Hình thức này không chỉ chiếm tỷ trọng lớn trong FDI của các nước phát triển mà còn là hình thức đầu tư hiệu quả để thâm nhập vào các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đồi. Nhìn chung, trong tiến trình toàn cầu hóa ngày càng sâu, ảnh hưởng của M&A xuyên quốc gia đối với sự phát triển như con dao hai lưỡi và không đồng đều. M&A xuyên quốc gia giúp các công ty lớn mở rộng thị trường, tăng quyền sở hữu nhưng lại đặt ra cho các nước nhận đầu tư vấn đề là phải cân nhắc giữa giá phải trả và lợi được hưởng.
Trên thực tế M&A có thể dẫn tới khả năng độc quyền cũng như sự lũng loạn thị trường của cả nước nhận đầu tư nói riêng và trên thị trường thế giới nói chung. Bên cạnh đó sự tồn tại của M&A xuyên quốc gia cũng đe dọa đến tình hình chính trị, văn hóa và xã hội ở nước sở tại. Việc chuyển sở hữu một số công ty quan trọng trong nước vào tay nhà đầu tư nước ngoài có thể bị coi là dấu hiệu cho việc là phương hại chủ quyền dân tộc. Từ đó có ý kiến cho rằng, sự hình thành các công ty siêu quốc gia lớn mới có thể đưa đến sự lũng đoạn trên nhiều mặt: kinh tế,chính trị, thương mại… làm cho một số công ty lớn có khả năng thao túng các hoạt động trên phạm vi toàn cầu, làm lu mờ vai trò của nhà nước ở các nước đang phát triển hoặc bóp nghẹt các nền kinh tế phát triển sau.
Về mặt lý thuyết, M&A xuyên quốc gia tăng mạnh hơn so với GI là do những lý do sau: tốc độ thâm nhập nhanh, nhanh tiếp cận dược những nguồn lực khó xấy dựng như: công nghệ, mạng lưới marketing và quản lý, có ngay vị thế cạnh tranh ở nước nhận đầu tư và tận dụng được sự nới lỏng về chính sách của chính phủ nước nhận đầu tư. Chính vì thế nên TNCs có hứng thú hơn với việc M&A vì mang lại nguồn lợi lớn, giúp cho nhà đầu tư nhanh chóng thâm nhập thị trường và giảm thiểu nhiều rủi ro.
Các nước thường cho rằng GI giá trị hơn cho phát triển kinh tế do GI bổ sung thêm vốn, tăng việc làm, góp phần chuyển giao công nghệ còn M&A làm tăng quan tâm về chính sách cạnh tranh. Do vậy chính phủ đã hạn chế M&A hơn GI.
Dưới đây là bảng trị giá các vụ M&A xuyên quốc gia của TNCs giai đoạn 1990-2004
Bên cạnh đó cũng diễn ra xu hướng M&A giữa những TNCs lớn trên thế giới nhằm tạo ra nhiều TNCs lớn hơn nữa và thúc đẩy TNCs khác tiến hành hoạt động M&A tương tự. Trên toàn cầu đã diễn ra một làn sóng doanh nghiệp tiến hành cải cách, cơ cấu lại thông qua M&A như các ngành dược phẩm, sản xuất ô tô, bưu chính viễn thông và tài chính.
2.3. Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài của TNCs
Hiện nay khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng rất lớn tới kế hoạch đầu tư của TNCs. Tuy nhiên triển vọng tươi sang của nền kinh tế vẫn tạo điều kiện cho FDI nên trong năm 2010 tổng vốn FDI của kinh tế vẫn tăng nhẹ so với năm 2009 và được hi vọng sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai gần theo nhịp độ phục hồi của nền kinh tế thế giới.
Theo khảo sát của UNCTAD thời điểm năm 2005 thì các TNCs sẽ tăng luồng vốn FDI trong ngắn và trung hạn. Trong ngắn hạn, khu vực thu hút được nhiều FDI nhất là châu Á, và Trung, Đông Âu nhưng có xu hướng giảm xuống ở Tây Âu và châu Phi. Trong trung hạn luồng vốn FDI dự tính sẽ tăng ở tất cả các khu vực trừ khu vực châu Mỹ La tinh.
Về hình thức đầu tư thì theo Tổ chức Xúc tiến đầu tư (IPA) thì GI sẽ được ưa chuộng hơn trong thời gian tới. nhưng theo TNCs và các chuyên gia đầu tư quốc tế thì M&A và GI sẽ có tốc độ ngang nhau.
Đầu tư ra nước ngoài của các TNCs ở các nước đang phát triển ngày càng tăng mạnh hơn. Giống như TNCs của các nước phát triển, TNCs của các nước đang phát triển cũng có mục tiêu là tìm kiếm thị trường, nguồn lực và công nghệ – tương tự những nhân tố chủ yếu quyết định FDI vào các ngưới đang phát triển.
Theo như UNCTAD thì những nước phát triển vẫn đang phải đối mặt với hệ quả của cuộc khủng hoảng, nhiều TNCs ở những nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi có xu hướng đầu tư vào những thị trường mới nổi, mà có sức phục hồi mạnh mẽ và triển vọng kinh tế đẹp hơn. UNCTAD cũng cho hay trong năm 2010 70% đầu tư của các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển là hướng trực tiếp tới những nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển khác so với các nước phát triển với tỉ trọng của khu vực kinh tế này chỉ là 50%.
3. Vai trò của TNCs đối với chuyển giao và phát triển công nghệ
TNCs là những chủ thể quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động chuyển giao và phát triển công nghệ. TNCs kiểm soát tới 80% công nghệ cao của toàn thế giới. Công nghệ là yếu tố tạo nên “giá trị cốt lõi” trong chuỗi giá trị của TNCs, do đó TNCs thường giữ bí mật công nghệ và thực hiện các hoạt động chuyển giao công nghệ theo phương thức thích hợp để bảo vệ và phát triển các giá trị cốt lõi đó.
3.1. Một số vấn đề về công nghệ và chuyển giao công nghệ
Công nghệ là hệ thống quy trình chế biến vật chất và thông tin để chuyển các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra. Công nghệ có 4 phần cơ bản liên hệ mật thiết với nhau, bao gồm: kỹ thuật, tổ chức, thông tin và con người. Đặc trưng rất nổi bật của công nghệ là giá trị kiến thức “phần mềm” chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị của công nghệ và người bán công nghệ không bị mất giá trị đã chuyển sang người mua và nếu người mua không thanh toán tiền thì người bán cũng không thể lấy lại kiến thức. Do đó, công nghệ không thể thực hiện theo kênh mua bán hàng hóa thông thường được mà phải thực hiện theo kiểu chuyển giao.
Công nghệ có trong tất cả các lĩnh vực như công nghệ sản xuất – chế tạo, công nghệ lắp ráp, công nghệ chế biến, công nghệ thu hoạch,…Chuyển giao công nghệ có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như cấp giấy phép, chuyển giao trọn gói hoặc từng phần, chuyển giao kiểu “chìa khóa trao tay”, chi nhánh nước ngoài sở hữu hoàn toàn, chi nhánh nước ngoài sở hữu tối thiểu, liên doanh, nhượng quyền, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, hợp đồng quản lý, hợp đồng thầu phụ quốc tế. Mỗi hình thức đều có những đặc trưng riêng và có những ưu diểm và hạn chế nhất định. Vấn đề là các chủ thể cần lựa chọn hình thức thích hợp để chuyển giao.
Mô hình 3.1: Các kênh chuyển giao công nghệ của TNCs
TNCs rất đề cao vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo vệ sở hữu trí tuệ liên quan đến hai vấn đề cơ bản là bảo vệ bản quyền các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật và vấn đề giữ được bí mật công nghệ. Việc đánh mất bí mật công nghệ đồng nghĩa với việc đánh mất giá trị cốt lõi trong chuỗi giá trị tạo nên năng lực cạnh tranh của TNCs. Có rất nhiều văn kiện pháp lý liên quan đến bảo vệ sở hữu trí tuệ như Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Hiệp định Lisbon về bảo hộ đối với tên gọi xuất xứ và đăng ký quốc tế về xuất xứ,…Đối với các nước đã phê chuẩn các văn kiện pháp lý này và tuân thủ nghiêm minh các cam kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho TNCs chuyển giao và phát triển công nghệ.
3.2. TNCs thực hiện chuyển giao công nghệ
TNCs thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ trên toàn thế giới ở hầu hết các lĩnh vực của khoa học – công nghệ và quản lý. TNCs từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức,…thường đi đầu trong hoạt động chuyển giao công nghệ và các nước công nghiệp phát triển cũng là các nước đi đầu trong việc tiếp nhận các công nghệ chuyển giao này.
Bảng 3.1: Các khoản tiền thu từ việc cấp sáng chế, phí cấp giấy phép và tiền trả cho các hoạt động chuyển giao công nghệ của TNCs Hoa Kỳ, Nhật Bản và Đức
Cơ cấu sản phẩm công nghệ chuyển giao thường bao gồm công nghệ thiết kế và xây dựng, công nghệ kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing và các công nghệ khác. Các loại công nghệ này sẽ được chuyển giao cho từng nước hoặc từng nhóm nước khi có nhu cầu và phụ thuộc vào chiến lược chuyển giao của TNCs và thường được diễn ra trong nội bộ từng công ty chi nhánh hoặc giữa các công ty chi nhánh nhằm bảo vệ bí mật công nghệ, tránh sự ăn cắp, sao chép hoặc cải tiến.
Trong số các hạng mục được chuyển giao, các chi nhánh của TNCs ở các nước đang phát triển nhận được khoảng 95% các hạng mục công nghệ từ các công ty mẹ của chúng.
Bảng 3.2: Chuyển giao công nghệ của TNCs sang các nước đang phát triển (*)
3.3. Các hoạt động phát triển công nghệ (R&D) của TNCs:
TNCs là các chủ thể và tác nhân phát triển công nghệ chủ yếu trong nền kinh tế thế giới. Các hoạt động phát triển công nghệ được thực hiện thông qua việc thành lập các cơ sở nghiên cứu trong nước, khai thác các tác động ngoại ứng tích cực, hoạt động đào tạo và phổ biến công nghệ. Hoạt động này còn được thực hiện ở hình thức chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào.
TNCs có khả năng to lớn trong việc tổ chức các hoạt động R&D và các chủ thể chiếm tỷ trọng lớn trong việc đưa ra các sáng chế và phát minh về công nghệ. Đồng thời TNCs còn là tác nhân đóng vai trò lớn trong việc cung cấp các dịch vụ về đào tạo và cung cấp công nghệ.
– Xét về khả năng R&D, TNCs có tiềm năng lớn trong hoạt động này do lượng vốn đầu tư lớn, đội ngũ các nhà khoa học hùng hậu, các cơ sở nghiên cứu đạt trình độ hàng đầu thế giới và khả năng cạnh tranh cao trong các hoạt động R&D.
– Xét về tỷ trọng sáng chế của TNCs/tổng công nghệ mới thế giới, TNCs chiếm tới 80% tổng công nghệ mới toàn thế giới và quyết định đến chiến lược phát triển công nghệ của toàn thế giới.
– Xét về hoạt động đào tạo và phổ biến công nghệ, TNCs là những tác nhân đi đầu trong hoạt động này thông qua việc tổ chức các khóa huấn luyện và đào tạo các cán bộ về công nghệ. Đây là kênh phổ biến công nghệ có hiệu quả của TNCs làm cho công nghệ nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi.
Bảng 3.3: Số các công ty chi nhánh TNCs tổ chức các khóa đào tạo ở các nước đang phát triển
Ngoài ra, TNCs còn là tác nhân thúc đẩy quá trình phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển. Hoạt động phát triển công nghệ của TNCs thường được thực hiện theo ba hình thức cơ bản là phát triển công nghệ trong từng chi nhánh của TNCs, phát triển công nghệ trong TNCs có liên hệ với các công ty bản địa và tác động của TNCs đến bộ phận phát triển công nghệ của các công ty có liên quan theo cơ chế lan truyền.
3.4. Các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
• Công nghệ của TNCs ở các nước đang phát triển
Việc tiếp nhận công nghệ của các TNCs là một trong những vấn đề được các nước đang phát triển quan tâm vì đây là một trong những nguồn lực có khả năng làm thay đổi cơ bản cơ cấu và trình độ phát triển của nền kinh tế của các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên rất cần công nghệ hiện đại của nước ngoài. Tuy nhiên, các nước này lại thiếu các cơ sở công nghệ có khả năng phát huy được năng lực nội sinh của công nghệ và đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành. Đồng thời các nước này lại phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do đó, nếu các nước này tiếp nhận công nghệ hiện đại có thể dẫn đến nguy cơ làm tăng khả năng thất nghiệp và những vấn đề về kinh tế – xã hội nảy sinh khác khó giải quyết. Ngược lại, nếu các nước này tiếp nhận công nghệ quá lạc hậu mặc dù công nghệ cho phép sử dụng nhiều lao động và nguồn lực tại chỗ nhưng hậu quả có thể gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường và sản phẩm sản xuất ra trở nên khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, quy định của chính phủ các nước có TNCs thường cấm TNCs chuyển giao công nghệ nguồn vì sợ mất vị trí độc quyền và tạo đối thủ cạnh tranh mới.
Để giải quyết những vấn đề nan giải này, các nước đã lựa chọn quan điểm công nghệ chuyển giao thích hợp dựa vào những căn cứ thích hợp. Công nghệ này, một mặt phải giải quyết được công ăn việc làm, khai thác được tài nguyên, bảo vệ được môi trường, tạo năng lực nội sinh để phát triển tiếp theo; mặt khác công nghệ phải đạt trình độ tiên tiến ở mức độ nhất định, tạo được khả năng cạnh tranh cho sản phẩm và dịch vụ và không quá tụt hậu so với xu hướng phát triển công nghệ chung của thế giới.
• Công nghệ TNC và vấn đề hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường
TNCs hạn chế chuyển giao công nghệ nguồn vào nước tiếp nhận do lo lắng mất bí mật công nghệ hoặc tạo đối thủ cạnh tranh mới. Thông thường công nghệ chuyển giao là công nghệ trung gian và công nghệ lạc hậu để tiết kiệm chi phí đầu tư vào hoạt động bảo vệ môi trường và không tạo đối thủ cạnh tranh mới. Nhu cầu về công nghệ khiến các nước đang phát triển phải chấp nhận thua thiệt nhất định để có được công nghệ cần thiết. Do đó, nhiều công nghệ trung gian có khả năng gây ô nhiễm môi trường được TNCs chuyển giao sang các nước đang phát triển với điều kiện khá ưu đãi. Các công nghệ lạc hậu, thiết bị đã qua sử dụng,…được chuyển giao từ TNCs tạo ra nguy cơ biến các nước đang phát triển thành các bãi rác công nghệ, gây chi phí xử lý lớn trong tương lai. Tình trạng đó đòi hỏi các nước đang phát triển tăng cường các hoạt động thẩm định công nghệ để hạn chế chuyển giao công nghệ gây ô nhiễm môi trường.
• Sở hữu trí tuệ và tình trạng vi phạm bản quyền
TNCs vì lợi ích sống còn của mình thường coi trọng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đặc biệt là các công nghệ nguồn. Tình trạng vi phạm bản quyền về sở hữu trí tuệ đặc biệt là tình trạng vi phạm quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp diễn ra khá nghiêm trọng ở các nước đang phát triển như việc sao chép các phần mềm máy tính bất hợp pháp, tình trạng ăn cắp nhãn hiệu hàng hóa, nạn hàng giả, hàng nhái, việc thực hiện thiếu nghiêm túc các cam kết về bảo hộ bí mật và bí quyết công nghệ,…Đây là những yếu tố cản trở rất lớn hoạt động chuyển giao công nghệ giữa TNCs vào các nước đang phát triển. Do đó chính phủ có TNCs thường bắt buộc các nước đang phát triển phải ký kết và thực hiệm nghiêm túc các cam kết về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư nhằm tạo điều kiện để TNCs được bảo hộ thích hợp về quyền lợi của họ ở các nước đang phát triển.
• Sự phụ thuộc công nghệ nước ngoài của các nước đang phát triển
Do thiếu công nghệ nguồn trong chế tạo các sản phẩm và cung cấp các dịch vụ nên các nước đang phát triển dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc công nghệ nước ngoài. Khi công nghệ mới được phát minh, các công nghệ đã được chuyển giao trở nên lỗi thời và lạc hậu, các sản phẩm sản xuất trên công nghệ đó trở nên kém cạnh tranh, thị phần thu hẹp và thậm chí doanh nghiệp bị phá sản. Để có công nghệ mới, các nước đang phát triển lại phải tiến hành đàm phán, thương thảo để tiếp nhận công nghệ mới. Tuy nhiên, trong điều kiện công nghệ thay đổi nhanh chóng, vòng đời công nghệ rút ngắn, quá trình đổi mới công nghệ đòi hỏi diễn ra trong thời gian ngắn và do đó, sự phụ thuộc của các nước đang phát triển vào công nghệ nước ngoài càng gia tăng. Nếu không phát huy được năng lực nội sinh của công nghệ thì sự phụ thuộc ngày càng lớn, sự tụt hậu ngày càng xa và kèm theo đó là sự tiềm ẩn những rủi ro trong quá trình tiếp nhận công nghệ.
• Giá cả công nghệ của TNCs đối với các nước đang phát triển
Do phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài và với nhu cầu cao về công nghệ của các doanh nghiệp trong nước nên các nước đang phát triển thường phải nhập khẩu công nghệ với giá cả cao. Hơn nữa, các nước đang phát triển thường thiếu thông tin đầy đủ về thị trường công nghệ, thiếu những chuyên gia giỏi về công nghệ và thiếu ngân sách để thuê chuyên gia công nghệ nước ngoài nên TNCs thường chuyển giao công nghệ lạc hậu với giá cả cao vào trong nước. Việc áp dụng hình thức chuyển giá nội bộ TNCs cũng như việc khai khống chi phí đào tạo cán bộ kỹ thuật cũng là cách thức mà TNCs áp dụng trong quá trình chuyển giao công nghệ. Do đó, các nước đang phát triển thường phải đối mặt với tình trạng này và tùy từng điều kiện cụ thể để có giải pháp thích hợp.
4. Vai trò của TNCs trong tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực
4.1. TNCs đối với tạo cơ hội việc làm
• Tạo việc làm trực tiếp và gián tiếp
TNCs là lực lượng cơ bản, có vị trí quan trọng trong tạo việc làm trực tiếp và gián tiếp. Đây là một tất yếu phổ biến của TNCs bởi vì tranh thủ lao động giá rẻ là một trong những mục tiêu của TNCs. Theo UNCTAD ước tính TNCs đã tạo ra ở nước chủ nhà và chính quốc được khoảng 45 triệu lao động vào giữa những năm 1970. Con số trên đến năm 1998 đã là 86 triệu lao động.
Nhìn chung TNCs thường tạo việc làm ở các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp chiếm khoảng 4/5 tổng số lao động được TNCs tạo ra. Nhiều việc làm còn được tạo ra một cách gián tiếp thông qua các hoạt động liên kết kinh tế, cung cấp dịch vụ cho các công ty nội địa.
Tầm quan trọng của TNCs đối với việc làm luôn gắn với động thái dòng FDI trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp của TNCs tạo ra những công ty, nhà máy, cơ sở sản xuất mới, tăng thêm cơ hội việc làm cho người lao động. Đối với TNCs, một trong những động cơ chủ yếu khi tiến hành đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát riển là tìm kiếm nguồn lao động rẻ, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa do công ty sản xuất ra.
• Cải thiện điều kiện lao động
Vai trò của TNCs trong cải thiện điều kiện lao động ở một số khía cạnh như: thu nhập từ lợi nhuận, điều kiện làm việc, cơ hội phát triển nghề nghiệp.
Sự hoạt động rộng khắp của TNCs đã mang lại nhiều lợi ích cho các nền kinh tế trên thế giới trong việc cải thiện điều kiện lao động. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, thông qua hoạt động của TNCs mà thu nhập của người lao động được nâng lên. Bên cạnh đó quyền lợi của người lao động cũng được đảm bảo, đặc biệt là an toàn lao động.
Đầu tư trực tiếp của TNCs tạo ra nhiều công ty, nhà máy mới, tăng thêm cơ hội việc làm cho người dân địa phương và đó cũng chính là cơ hội để người lao động phát triển nghề nghiệp. Khi các dự án đầu tư được thực hiện thì cũng là lúc các doanh nghiệp FDI đưa các thiết bị kỹ thuật, dây chuyền và máy móc công nghệ vào đất nước để sản xuất kinh doanh. Như vậy khi TNCs vào hoạt động thì nước nhận đầu tư được lợi không chỉ từ việc mở rộng sản xuất và cải thiện các cơ hội việc làm, mà còn từ việc tiếp cận các phương tiện lao động.
4.2. TNCs đối với phát triển nguồn nhân lực
• Sức khỏe và dinh dưỡng
TNCs thông qua FDI đã thực hiện sản xuất và phân phối một khối lượng lớn các loại dược phẩm, thiết bị y tế và chế biến thực phẩm với chất lượng cao ở nước chủ nhà. Chúng ta có thể thấy rõ vai trò của đầu tư nước ngoài đối với tăng cường sức khỏe và dinh dưỡng thông qua ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.
Thực tế cho thấy, TNCs cắm nhánh vào khu vực Đông Nam Á chủ yếu trong lĩnh vực điện tử dân dụng, dệt và thực phẩm. Những ngành này họ có ít lợi thế cạnh tranh nhưng lại đang là ngành công nghiệp mũi nhọn có lợi thế so sánh về lao động rẻ và dồi dào của các quốc gia đang phát triển. Do vậy nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nghiên cứu tìm ra các loại sản phẩm y dược, thực phẩm mới, đào tạo và phổ biến kiến thức về sức khỏe, dinh dưỡng cho nước chủ nhà.
• Giáo dục và đào tạo
TNCs đã giúp nước chủ nhà cải cách và đầu tư cho nền giáo dục bằng nhiều hình thức khác nhau như các khoản trợ giúp tài chính, mở lớp đào tạo dạy nghề.
Thực tế cho thấy một hình thức giáo dục có hiệu quả mà TNCs thường áp dụng là cung cấp hệ thống giáo dục qua Internet. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và sự áp dụng công nghệ vào tất cả các lĩnh vực hoạt động thì việc đào tạo cán bộ trở thành tất yếu không thể thiếu trong chiến lược hoạt động của các công ty, xí nghiệp và chính sách của Nhà nước, nó là yếu tố quan trọng nhất tạo khả năng cạnh tranh. Thông qua đầu tư của TNCs, bổ sung nguồn vốn quan trọng vào các quỹ phát triển giáo dục. đồng thời các nhà đầu tư ngước ngoài trực tiếp đóng góp vào việc cung cấp trang thiết bị phục vụ cho sự ngiệp giáo dục.
TNCs ở các nước phát triển đặc biệt là trong ngành thông tin liên lạc đang nhanh chóng thực hiện khai thác thị trường giáo dục, nhất là các dịch vụ giáo dục quản trị kinh doanh trong đó có việc đào tạo cán bộ hoàn toàn được đưa vào hệ thống quản lý.
Bên cạnh đó TNCs là lực lượng chủ yếu trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Trong TNCs con người được đào tạo, tôi luyện kỹ càng để trưởng thành phù hợp với yêu cầu của công việc. TNCs có những hình thức đào tạo nhân lực để chuyển giao công nghệ cho dự án đầu tư. Thông qua FDI để góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đội ngũ lao động tri thức quyết định sự phồn vinh đất nước.
TNCs lớn thường có các hệ thống riêng của mình về đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ nghề nghiệp cho họ, thành lập các trường đại học riêng để đào tạo cán bộ theo các quy định và nguyên tắc thống nhất.
• Năng lực quản lý
TNCs là lực lượng chuyển giao kỹ thuật và kỹ năng quản lý. Thông qua hoạt động của hệ thống các công ty chi nhánh ở nước chủ nhà, với bề dày về kỹ năng và kinh nghiệm quản lý, các nhà quản lý ở các công ty chi nhánh có thể tiếp cận được kho thông tin khổng lồ và kỹ năng quản lý tiên tiến của công ty mẹ.
Thông qua hoạt động của TNCs, người lao động được tiếp thu kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Khi thực hiện các dự án đầu tư thì cũng là cơ hội cho những lao động nước chủ nhà tiếp cận và học tập kỹ năng quản lý bởi thường TNCs sẽ có những nhà quản lý ở nước chủ nhà.
TNCs thông qua các khóa học chính quy, không chính quy, đào tạo dài hạn, ngắn hạn và thông qua việc làm thực tiễn đào tạo kiến thức, kỹ năng cho người lao động, đặc biệt là cán bộ quản lý được đặt lên vị trí hàng đầu, nhất là cnas bộ quản lý cấp chiến lược.
Tóm lại vai trò của TNCs trong phát triển nguồn nhân lực là không thể phủ nhận nhưng cũng còn những tồn tại như:
• Quyền lợi của người lao động bị xâm hại (đặc biệt là đối với lao động phụ nữ và trẻ em)
• Nạn chảy máu chất xám
• Bất bình đẳng trong thu nhập cá nhân
• Ô nhiễm môi trường
Phần 3: ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM
Như đã nêu ở trên, các đánh giá khoa học và thực tiễn về vai trò của TNC trong hoạt dộng đầu tư quốc tế đều thống nhất đi đến kết luận: TNC là động lực chính của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
– Khó xác định chính xác thời điểm TNC xuất hiện tại Việt Nam, tuy nhiên do bản chất của các hoạt động xuất khẩu và đầu tư cắm nhánh ở nước ngoài là phương thức tồn tại và phát triển chủ yếu của TNC, nên có thể nói các TNC có mặt ở Việt Nam kể từ khi nước ta có quan hệ ngoại thương, tiếp nhận đầu tư công nghệ…từ các nền kinh tế công nghiệp phát triển và đang phát triển khác.
– Thực tế, hoạt động của TNC chỉ bắt đầu rộ lên từ khi Nhà nước ta ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (tháng 12 năm 1987)
I. Đặc điểm của các TNCs ở Việt Nam
1. Các TNC ởViệt Nam có nguồn gốc từ nhiều nước,phổ biến là từ Châu Á
Căn cứ vào những số liệu trong những năm gần đây, chúng ta có thể thấy một cách đây đủ nguồn gốc của các TNC ở Việt Nam. Từ năm 1988-1997, phần đầu tư của các TNC Đông Á (trừ Nhật Bản, còn lại chủ yếu là các nước công nghiệp mới hoặc đang phát triển) đã chiếm tới 64,8% trong số 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Riêng năm 1998, các nền kinh tế Đông Á còn lâm vào khủng hoảng tài chính- tiền tệ, mức này vẫn chiếm tới 44,9% và năm 1999, sau sự phục hồi kinh tế của các nước Đông Á mức này đã tăng trở lại là 60,4%. Trong số nhiều công ty nước ngoài có dự án đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư ASEAN chiếm 24,56%; các nước Đông Bắc Á chiếm 42,9%;Châu Âu chiếm khoảng 21,05%; Mỹ chiếm 3.61%. Xét về số lượng TNCs, tính đến hết năm 2004 ở Việt Nam có khoảng 415 TNCs, trong đó các TNCs đến từ Châu Á là 242 công ty, chiếm 58,3%, Châu Âu có 104 TNCs chiếm 25%. Như vậy vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu là các nền kinh tế Châu Á.
Do đầu tư vào Việt Nam được thực hiện chủ yếu từ các TNCs Châu Á hầu hết đều chịu sự tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, dẫn đến việc thu hẹp các khoản đầu tư mới cũng như sự trì trệ trong việc thực hiện số vốn đầu tư đã cam kết.
12 nước và cùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam giai đoạn 1988-2005
Tính tới ngày 31/12/2005, chỉ tính các dự án còn hiệu lực
STT Tên nước và vùng lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đàu tư (tỷ USD) Vốn đầu tư thực hiện
1 Đài Loan 1.422 7,77 2,83
2 Singapore 403 7.61 3.62
3 Nhật Bản 600 6,29 4,67
4 Hàn Quốc 1.064 5,34 2,59
5 Hồng Kong 360 3,73 1,99
6 British Virgin Islands 251 2,69 1,24
7 Pháp 164 2,17 1,19
8 Hà Lân 62 1,99 1,92
9 Malaysia 184 1,57 0,84
10 Thái Lan 130 1,46 0,8
11 Mỹ 265 1,46 0,75
12 Vương Quốc Anh 68 1,25 0,64
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài-Bộ kế hoạch đầu tư
Sở dĩ các TNCs vào Việt Nam chủ yếu đến từ Châu Á, một phần cũng là do chiến lược của các TNCs này. Mặc dù quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ nhưng thực tế, môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố toàn cầu hóa, nên đó là cơ hội để các TNCs cỡ trung bình có thể đầu tư chiếm lĩnh thị trường, tận dụng các lợi thế so sánh của Việt Nam trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, do cùng nằm trong khu vực nên giữa các nhà đầu tư châu Á và Việt Nam có rất nhiều mối tương đồng như về văn hóa, phong tục, trình độ,…Điều đó tạo điều kiện để nhà đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư dễ hiểu nhau hơn trong công việc, qua đó việc hợp tác cũng như sản xuất cũng sẽ hiểu qủa hơn. Và cũng chính vì các TNCs đền từ châu Á – vốn là những TNCs mới chỉ được phát triển trong khoảng 20 năm trở lại đây nên những đặc điểm tiếp theo là hệ quả tất yếu của đặc điểm trên
Các TNC đầu tư vào Việt Nam phần lớn là không xuất phát từ công ty mẹ mà là từ các công ty thuộc thế hệ thú hai, nghĩa là từ các công ty chi nhánh ở nước thứ hai đầu tư vào nước thứ ba nên vấn đề cần quan tâm là năng lực tài chính yếu và công nghệ kỹ thuật của các TNC này. Do quy mô không lớn và trình độ công nghệ không cao, những công ty này xâm nhập vào Việt Nam do công ty mẹ điều chỉnh. Các TNC Châu Á luôn coi thị trường Đông Nam Á nói chung trong đó có Việt Nam là thị trường truyền thống của họ. Vì vậy, ưu tiên đầu tư vào thị trường này để tăng cường ảnh hưởng về kinh tế thương mại luôn được các TNC có nguồn gốc Châu Á theo đuổi.
2. Các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đều thuộc các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam có quy mô vốn lớn, trình độ công nghệ cao còn quá ít. Trong số 500 tập đoàn lớn nhất mà tạp chí Fortune (Mỹ) bình chọn hằng năm, ở Việt Nam, cho đến nay, mới chỉ có trên 21% số đó có dự án đầu tư và thiết lập các quan hệ giao thương hàng hóa-dịch vụ và công nghệ. Trong khi đó ở Trung Quốc, đã có tới 80% số này thực hiện đầu tư, tức là 400 tập đoàn (theo báo cáo phát triển Việt Nam 2006).
Phần đầu tư cắm nhánh của các TNC ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu bởi các công ty vừa và nhỏ. Bình quân mỗi dự án đầu tư vào Việt Nam thường chỉ đạt dưới 20 triệu USD. Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các ngành điện tử, dệt may, nông lâm hải sản chế biến, dịch vụ du lịch…Điều đó có nhiều nguyên nhân mà lớn nhất lợi thế so sánh của Việt Nam hiện tại là lao động đông, giá nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào, thị trường rộng lớn. Những ngành tận dụng được các lợi thế này chủ yếu là những ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên nhưng công nghệ chuyển giao thường không cao, vốn không nhiều.
Phần đầu tư và chu chuyển thương mại ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu bởi các TNC Châu Á nhìn chung quy mô tài chính, công nghệ, tổ chức điều hành còn thấp và đặc biệt do đặc điểm của các nền kinh tế Châu Á với sự phổ biến của kết cấu kinh tế hai tầng, phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn. Một phần còn là vì cơ sở hạ tầng lạc hậu của Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các TNC lớn trên thế giới.
3. Các TNCs đang có sự chuyển đổi rõ rệt về hình thức đầu tư.
Ở Việt Nam, giai đoại đầu hợp tác đầu tư với nước ngài có một thực tế là: SỰ THIẾU HỤT THÔNG TIN VỀ THÔNG TIN. Số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế còn rất ít, trong đó chủ yếu lại là doanh nghiệp nhà nước. Để hạn chế rủi ro các công ty nước ngoài thường chọn đối tác Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước hợp tác liên doanh. Vì vậy trong thời gian đầu, hình thức này đã trở thành hình thức chủ yếu thu hút các TNCs. Trong 10 năm (1988-1998), hình thức liên doanh này chiếm 60% số dự án và 70% tổng số vốn cam kết đầu tư. Trong các liên doanh này, tỷ lệ vốn pháp định do phía Việt Nam đóng góp thường không quá 30%, chủ yếu là tiền sử dụng đất và nhà xưởng sẵn có. Phía nước ngoài đóng góp bằng tiền mặt và trang thiết bị nhập khẩu. Do vậy, trong thời kì xây dựng cơ bản, gần như liên doanh đã phụ thuộc toàn bộ vào tiến độ góp vốn của TNCs và cũng tương tự như vậy, trên thực tế gần như công việc điều hành quá trình xây dựng công trình cho dự án và thực hiện dự án sau này do nước ngoài quyết định.
– Hiện tượng này, ngoài các lý do về vốn, công nghệ, thị trường đầu ra do phía nước ngoài nắm, còn bị quyết định đáng kể bởi 3 lý do: (1) phía Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng quyền sử dụng đất, chỉ chiếm 10% vốn đầu tư. Do đó, vai trò của các doanh nghiệp Việt Ban trong các liên doanh đã nhỏ, lại có xu hướng càng bị giảm thiểu hơn. (2) Năng lực của đội ngũ cán bộ của Việt Nam tham gia vào quản lý, điều hành kinh doanh còn quá yếu. (3) việc liên doanh giữa TNCs với đối tác Việt Nam lại chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước thường xuyên có sự bất đồng về phương thức và mục tieu kinh doanh đã dẫn đến những xung đột thương xuyên trong tổ chức và điều hành giữa chúng.
Do đó, trong thời gian gần đây, các công ty liên doanh hiện có hoặc các đầu tư mới của TNCs chuyển sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đang trở nên phổ biến và có xu hướng gia tăng. Năm 1996: tỷ trọng vốn đầu tư của các dự án 100% vốn nước ngoài là 18,6%; năm 1997 tăng lên 26,9%; năm 1998 còn 18% và đặc biệt năm 1999 chiếm tới 48%.
II. Tác động của các TNC đối với nền kinh tế quốc dân Việt Nam
1. Tác đông tích cực
Các TNC ngày càng có tác động tích cực đối với sự nghiệp cải cách và đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện vốn tích lũy trong nước còn thấp, do đó phải tìm mọi biện pháp để khai thác nguồn vốn nước ngoài như thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vay nợ, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), các khoản viện trợ… Sự hiện diện của các TNCs đồng nghĩa với việc cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa của đất nước. Hơn thế, sự đầu tư của các công ty nước ngoài không chỉ giải quyết cho Việt Nam những vấn đề về vốn mà cả công nghệ, trang thiết bị, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý…lâu nay còn yếu kém.
Yêu cầu của công nghiệp hóa là phát triển tỷ trọng sản xuất công nghiệp, đặc biệt là ngành dịch vụ trong GDP, tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa để hội nhập. Các TNC, nhất là các TNC lớn đã hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đó. Các TNC đã góp phần tích cực trong việc thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Vấn đề Việt Nam quan tâm hiện nay là tạo việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nguồn lao động. Trong những năm gần đây số lượng công nhân làm việc trong các khu công nghiêp, khu chế xuất, các công ty liên doanh với nước ngoài ngày càng tăng: Từ năm 1995 đến năm 2000, trung bình mỗi năm lao động trong khu vực FDI tăng lên khoảng 47.8 nghìn người; Đến cuối năm 2005 khu vực FDI đã thu hút được hơn 800 nghìn lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp. TNCs không chỉ mang đến cơ hội việc làm cho người lao động mà còn tạo điều kiện cho lao động Việt Nam tiếp cận kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, giúp lao động trong nước có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Như vậy có thể nói sự đầu tư của các TNC vào Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa để hội nhập quốc tế của Việt Nam.
2. Một số tác động tiêu cực
Các TNC đầu tư vào bất kỳ một nước nào đều với mục tiêu khai thác những thế mạnh của nước đó để thu được lợi nhuận. Vì vậy sự có mặt của TNC tạo ra một số bât cập như ô nhiễm môi trường sinh thái, nền kinh tế tăng trưởng không đều… Ở Việt Nam cũng vậy, cái lợi trước mắt là kinh tế phát triển nhưng đằng sau nó còn tồn tại một số vấn đề cần bàn. Các TNC chú trọng đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao như điện tử, dầu khí, dệt may…làm cho các lĩnh vực khác yêu cầu đầu tư dài hạn, chuyển vốn chậm, lãi xuất ít không thu hút được nhiều dự án sẽ chậm đổi mới công nghệ, tạo khoảng cách khá xa so với các ngành khác. Một số TNC dựa vào ưu thế về vốn lớn, kỹ thuật để thao túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh thâm chí còn gây sức ép với các cơ quan Nhà nước. Các TNC thuê lao động, mua nguyên liệu với giá rẻ, buộc Chính phủ Việt Nam phải chấp nhận điều kiện có lợi cho phía TNC. Cũng còn không ít tình trạng lao động Việt Nam làm việc trong các công ty của nước ngoài phải chịu áp lực lớn, cường độ lao động cao, không đảm bảo sức khỏe.
Vì vậy đứng trước thực trạng trên, Việt Nam cần phải làm tốt công tác hoạch định chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phải có sự thống nhất trong toàn xã hội về quan điểm đối với các các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia. Nền kinh tế đang trong thời kỳ hội nhập nên chúng ta phải mở rộng cửa để đón các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bằng các ưu đãi trong chính sách nhưng đồng thời phải có những điều kiện ràng buộc với các công ty về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, người lao động Việt Nam cũng phải không ngừng nâng cao tay nghề để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc. Đó là một trong những thách thức to lớn đối với Việt Nam trước thềm thế kỷ mới trên con đường công nghiệp hóa, mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế.
III. MỘT SỐ GỢI Ý VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TNCs TẠI VIỆT NAM
Đối với Việt Nam, việc thu hút vốn đầu tư của các TNC đã góp phần quan trọng trong việc giúp chúng ta xây dựng những cơ sở vật chất – kỹ thuật ban đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên quá trình này cũng đang đặt Việt Nam trước những cơ hội và thách thức lớn. Cơ hội – đó là khả năng có them nguồn vốn bổ sung quan trọng để giúp chúng ta có thể khai thác được mọi nguồn lực sẵn có và những lợi thế tự nhiên của nước ta so với các nước trong khu vực để phục vụ cho phát triển. Thách thức – đó là sự yếu kém về trình độ của một nước nông nghiệp lạc hậu, mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế, môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn, trong khi cạnh tranh thị trường và đặc biệt cạnh tranh thu hút FDI giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng quyết liệt vì nhiều lí do, trong đó chủ yếu là thiếu vốn để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tái công nghiệp hóa. Việc định hướng cho sự hình thành và phát triển của các TNC ở Việt Nam cần dựa trên cơ sở xác định rõ con đường và có những bước đi phù hợp để tránh phải trả những giá khá đắt như trong quá trình phát triển của các nước trong khu vực.
1. Tạo lập đối tác đầu tư trong nước có năng lực và biết làm ăn với nước ngoài là một nhân tố hấp dẫn đối với các TNC.
Vì khi đầu tư vào một nước, các TNC thường gặp một số khó khăn khách quan như: phonh tục tập quán, luật pháp, các mối quan hệ với các chính quyền sở tại, thị trường… Mặt khác, các TNC đều muốn hạn chế rủi ro kinh doanh trong thời gian bỏ vốn. Cho nên, các TNC thường tìm kiếm đối tác là công dân nước chủ nhà để giảm bớt khó khăn và chia sẻ rủi ro nếu có.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, trong các liên doanh nước ngoài, nếu đối tác phía Việt Nam có năng lực, có vốn góp thì thường thu hút them được vốn mở rộng dự án đầu tư, ngược lại thì bị thu hẹp quy mô, phải chuyển hình thức đầu tư, hoặc bị rút giấy phép. Vì thế, chúng ta cần phải tiếp tục củng cố, phát triển và xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh, khuyến khích đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế. Trong đó việc xây dựng và phát triển các doanh nghiệp mạnh vừa có ý nghĩa trong việc thu hút, tiếp nhận đầu tư từ các TNC, vừa là cách tốt nhất để thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
2. Hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà Nước
Đây là nhân tố giữ vai trò quyết định trong việc tạo lập môi trường thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.
Bởi mọi hoạt động thu hút và triển khai các dự án đầu tư đều có liên quan trực tiếp tới cơ chế điều hành và quản lý của nước chủ nhà. Nếu cơ chế quản lý tốt sẽ tạo được sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư của nước ta. Ngược lại, nếu cơ chế quản lý chậm được hoàn thiện và không phát huy được đầy đủ vai trò quản lý của nó sẽ là trở lực lớn đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là các TNC tầm cỡ thế giới. Vì công ty xuyên quốc gia là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, hoạt động thị trường theo những quy tắc, thong lệ và thể chế quốc tế, nên khi đầu tư vào bất cứ nước nào, chúng rất cần một môi trường đầu tư đồng dạng để hoạt động. Do vậy, muốn thu hút được vốn đầu tư từ các TNC loại này thì cần phải chú trọng đến xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành của bộ máy quản lý Nhà Nước, để vừa tăng sức hấp dẫn đầu tư, vừa thực hiện hiệu quả việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài.
Trong nhiều năm qua, Nhà Nước ta đã có những tiến bộ trong công tác điều hành quản lý đất nước nói chúng và trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng. Cơ chế quản lý ngày càng thông thoáng hơn. Tuy nhiên, sự cải tiên đổi mới này chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực quản lý đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều ách tắc cản trở. Vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao năng lực quản lý của Nhà Nước là những vấn đề cấp thiết hiện nay.
Đổi mới cơ chế quản lý là tạo ra sân chơi hấp dẫn các TNC. Nền kinh tế thị trường nước ta vẫn hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước trong những năm qua đã tạo động lực cho sự phát triển, khơi dậy được tính năng động của nền kinh tế. Chúng ta đang chuyển dần từ nền kinh tế sơ khai lên nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, điều cần thiết là phải hoàn thiện hơn nữa cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước. Đó là việc tạo điều kiện phát huy hiệu quả điều tiết của cơ chế thị trường, phát triển thị trường đồng bộ, đảm bảo cho sự vận động một cách trôi chảy các yếu tố vốn, kỹ thuật công nghệ, lao động của thị trường. Đối với thị trường đầu tư có tính đặc thù phải vừa đảm bảo được thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các TNC, vừa phải quản lý được hoạt động của họ nên phải có sự mềm dẻo trong điều tiết. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta có một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, cơ chế quản lý thích hợp và bộ máy quản lý có năng lực.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể coi là luật đầu tư thông thoáng, tuy nhiên còn nhiều văn bản dưới luật có sự chồng chéo, mâu thuẫn. Vì vậy, cần nhanh chóng rà soát, loại bỏ cũng như bổ sung, sửa đổi luật, các quy định, thể chế pháp luật được thực thi có hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, cần thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường giám sát, xử lý nghiêm khắc và kịp thời các vi phạm pháp luật ; việc kiện toàn và nâng cao năng lực quản lý của bộ máy Nhà Nước, nhất là bộ máy quản lý Nhà Nước về đầu tư đang là những vấn đề đòi hỏi bức bách hiện nay.
Bộ máy quản lý đầu tư của nước ta trong những năm qua đã từng bước được cải tiến, song còn nhiều hạn chế, sơ hở trong quá trình tiếp nhận, thẩm định, xét duyệt, cấp giấy phép đăng ký, thủ tục sau giấy phép và cả việc quản lý hoạt động đầu tư. Trong thời gian tới, việc xây dựng bộ máy quản lý đầu tư cần được cải thiện theo hướng tinh giản, gọn nhẹ nhưng đảm bảo nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy này. Thực hiện nguyên tắc một cửa, một đầu mối cho toàn bộ quá trình từ tiếp nhận đến việc cấp giấy phép đầu tư. Tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ đầu tư để kịp thời hỗ trợ điều chỉnh hoạt động đầu tư khi cần thiết. Việc phân cấp, cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư là cần thiết song cần có cơ chế điều phối, kiểm soát kế hoạch từ một trung tâm là Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư để đảm bảo quản lý thống nhất, hạn chế những tiêu cực và cạnh tranh không lành mạnh. Tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, cập nhật thông tin, nắm chắc tình hình hoạt động của TNCs để có những quyết định quản lý kịp thời, thống nhất. Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất của đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài cũng như đội ngũ cán bộ làm việc trực tiếp với TNCS.
3. Phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế – kĩ thuật
Trong điều kiện phát triển của sản xuất và thị trường hiện nay, kết cấu hạ tầng kinh tế – kĩ thuật được coi là một hệ thống “xương cốt” của nền kinh tế để tiếp nhận, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư của các TNC nói riêng. Một kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và hiện đại sẽ đảm bảo cho các TNC thực hiện di chuyển vốn nhanh, ứng phó kịp thời với những biến động nhanh chóng, khó lường của các yếu tố thị trường, tránh được những thiệt hại về chi phí trực tiếp do kết cấu hạ tầng kém gây ra.
Một trong những mâu thuẫn của nước ta hiện nay là, trong khi kết cấu hạ tầng kỹ thuật chưa phát triển, nhưng điều kiện kinh tế lại chưa cho phép chi những khoản đầu tư lớn vào lĩnh vực này. Kinh nghiệm các nước ASEAN và thực tiễn đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở nước ta thời gian qua cho thấy, giải pháp thích hợp hiện nay là:
– Cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế quốc tế để có được những khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư vào các đề án xây dựng hà tầng kỹ thuật.
– Xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế bao gồm: khu chế xuất, khu thương mại tự do, khu công nghệ cao với quy mô thích hợp để tiếp cận các nguồn vốn và kỹ thuật cao của nước ngoài và nó cũng phù hợp hơn với điều kiện hạn hẹp về nguồn vốn của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
– Có kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các nguồn lực của toàn xã hội cho xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật.
4. Phát triển nguồn nhân lực
Đây vừa là nhiệm vụ cấp thiết để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, vừa đảm bảo tính tăng trưởng kinh tế bền vững, đồng thời cũng là điều kiện để tăng tính hấp dẫn trong việc đầu tư của các TNC.
Một quốc gia muốn có sức cạnh tranh cao thì phải dựa trên cơ sở chất lượng lao động và công nghệ cao, chứ không đơn thuần là cạnh tranh trên cơ sở tài nguyên hay giá lao động thấp. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao là việc làm có ý nghĩa to lớn cho cả trước mắt và lâu dài. Đây không chỉ là yếu cầu đặt ra với các nước đang phát triển như Việt Nam, mà đối với cả các nước công nghiệp phát triển. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang chuyển mình sang gia đoạn phát triển kinh tế tri thức, lấy sự hiểu biết và khả năng sáng tạo của nguồn lực con người làm yếu tố đầu vào quan trọng nhất thay vì chỉ chủ yếu dựa vốn, đất đai, tài nguyên, sức lao động cơ bắp như trước đây trong việc tạo ra của cải vật chất. Do vậy, nước nào đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhiều nhất thì nước đó có sự cạnh tranh cao nhất. Ví dụ Xingapo, hàng năm dành từ 15-20% ngân sách cho giáo dục và đào tạo, kết quả là từ năm 1996 đến 2003, quốc đảo này luôn được xếp là quốc gia có sức cạnh tranh hàng đầu thế giới và số một châu Á.
Đối với Việt Nam, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta cần quan tâm đến một số khía cạnh và giải pháp sau:
– Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động kỹ thuật hiện nay, cũng như phổ cập nghề cho lực lượng lao động phổ thông. Gắn đào tạo và dạy nghề với nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, đảm bảo lao động được đào tạo thích ứng với yêu cầu của thị trường, đặc biệt là ngoại ngữ và tin học.
– Điều chỉnh cơ cấu đào tạo hợp lý giữa việc đào tạo đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật và lao động có tay nghề cao với đội ngũ cán bộ quản lý giữa các ngành nghề theo yêu cầu phát triển của đất nước, trong đó cần đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng công nhân kỹ thuật bậc cao, các doanh nghiệp và quản lý giỏi.
– Mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề, phối hợp với các nhà đầu tư nước ngoài đào tạo nghề người lao động ngay tại xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn của họ.
– Đa dạng hóa các hình thức giáo dục và đào tạo: huy động các doanh nghiệp tham gia vào công tác đào tạo nghề, tự đào tạo và nâng cao tay nghề cho đội ngũ lao động của họ; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhất là việc đào tạo đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp, các chuyên gia bậc cao, những chuyên viên kỹ thuật giỏi có trình độ quốc tế.
Share this:
Like this:
Like
Loading…
Related