Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư
ĐẶC ĐIỂM VÀ TIỀM NĂNG KINH TẾ – XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN
1. Về kinh tế:
Nền kinh tế vượt qua nhiều thách thức, khó khăn, đạt tốc độ tăng trưởng khá và phát triển tương đối toàn diện. Tổng sản phẩm quốc nội của tỉnh (GDP) tăng khá, bình quân 5 năm 2006-2010 đạt 12,8%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2010 tỷ trọng nhóm ngành nông lâm thủy sản giảm còn 20,5%, công nghiệp – xây dựng tăng lên 35,7%, thương mại – dịch vụ tăng lên 44,6%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.090 USD, gấp 2,57 lần so với năm 2005. Một số chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
1.1. Sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng nâng dần chất lượng, hiệu quả
Nét nổi bật là các công trình thủy lợi được tập trung đầu tư và nâng cấp, nhờ đó diện tích tưới chủ động tiếp tục được mở rộng, tạo điều kiện thâm canh, tăng vụ, hệ số sử dụng đất được nâng lên. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp được mở rộng, cơ giới hóa các khâu làm đất gần 80%; các mô hình luân canh, xen canh được áp dụng khá phổ biến, hạn chế được các loại dịch bệnh; cơ cấu cây trồng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, diện tích trồng lúa giảm và giữ ổn định khoảng 40.000 ha; cao su, thanh long và các loại cây có giá trị kinh tế cao tăng nhanh, hình thành khá rõ các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp. Thu nhập trên một đơn vị diện tích tăng từ 17 triệu đồng/ha (năm 2005) lên 34 triệu đồng/ha (năm 2009). Năm 2010, diện tích trồng thanh long đạt 13.000 ha, tăng 30%; cao su đạt 33.400 ha, tăng 67% so với kế hoạch. Đến năm 2010, năng suất lúa đạt 48,5 tạ/ha, ngô đạt 56,7 tạ/ha. Công tác lâm nghiệp chuyển mạnh theo hướng xã hội hóa, nâng dộ che phủ của rừng từ 36,7% (năm 2005) lên 38,4% (năm 2010). Trong 5 năm, diện tích rừng trồng mới đạt 29.456 ha, nâng tổng diện tích có rừng 300.123 ha; nếu tính cả 84.000 ha cây dài ngày thì độ che phủ đạt 49,5%. Kinh tế thủy sản tiếp tục phát triển theo hướng coi trọng chất lượng. Nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển, mang lại hiệu quả cao. Năm 2010, sản lượng khai thác đạt 170.000 tấn, tăng 22.537 tấn so với năm 2005.
1.2. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển khá
Đã cơ bản hoàn thành quy hoạch các khu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, đang triển khai đầu tư hạ tầng và thu hút đầu tư. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16,4%/năm; các doanh nghiệp đã quan tâm đến việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm lợi thế. Các sản phẩm công nghiệp chủ lực như: nước mắm, nước khoảng Vĩnh Hảo, tảo,.. tăng khá; có thêm một số sản phẩm mới như phong điện, nhựa composite, đồ gỗ trang trí nội thất, tole mạ màu. Trong đó, khu vực nhà nước tăng 20,2%; khu vực dân doanh tăng 14,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 26,6%.
1.3. Các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển tương đối mạnh
Thị trường được mở rộng, lưu thông hàng hóa giữa các vùng, địa bàn thông suốt, thuận lợi. Kết cấu hạ tầng thương mại từng bước được đầu tư. Công tác quản lý thị trường được tăng cường. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội tăng, bình quân 19,5%/năm. Khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng bình quân 10,2%/năm; luân chuyển hàng hóa tăng bình quân 10,2%/năm; luân chuyển hành khách tăng bình quân 5,8%/năm.
Du lịch tiếp tục tăng trưởng khá; qua hàng năm, lượng du khác tăng thêm, thời gian lưu trú dài hơn, doanh thu khá hơn, cơ sở nghĩ dưỡng và các dịch vụ du lịch tăng, chất lượng được chú trọng hơn. Tổng lượng khác đến tỉnh du lịch, nghỉ dưỡng năm 2010 đạt 2.500.000 lượt người, tăng bình quân 14,85%/năm; trong đó khách quốc tế năm 2010 đạt 250.000 lượt người, tăng bình quân 14,23%; chiếm 10% tổng lượng du khách, thời gian lưu trú bình quân của du khách quốc tế từ 1,96 ngày/khách (năm 2005) tăng lên 3,4 ngày/khách (năm 2009) và 3,8 ngày/khách (năm 2010). Doanh thu năm 2010 đạt 2.500 tỷ đồng, tăng bình quân 32,5%/năm trong giai đoạn 2006-2010.
Hoạt động kinh tế đối ngoại tiếp tục có chuyển biến. Toàn tỉnh có 74 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 1.081 triệu USD, trong đó có 34 dự án đã hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổng giá trị thực hiện các dự án viện trợ nước ngoài đạt 40 triệu USD, trong đó 34 triệu USD vốn ODA, 6 triệu USD vốn NGO, giá trị giải ngân đạt 34 triệu USD.
1.4. Công tác tài chính, tín dụng có tiến bộ, thu ngân sách tăng khá, cá nguồn lực được huy động cho đầu tư phát triển nhiều hơn
Thu ngân sách nhà nước trong 5 năm 2006-2010 đạt 22.523 tỷ đồng, tăng bình quân 14,4%/năm; trong đó thu nội địa 9.327 tỷ đồng, tăng 18,4%/năm góp phần tạo nguồn lực cho đầu tư phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Điều hành chi ngân sách có nhiều cố gắng, ước tổng chi ngân sách nhà nước trong 5 năm là 14.331 tỷ đồng, cơ bản đáp ứng những nhu cầu thiết yếu; trong đó chi đầu tư phát triển 5.126 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 35,7% trên tổng chi ngân sách.
Các nguồn vốn xã hội huy động cho đầu tư tăng nhanh, 5 năm đã huy động 44.500 tỷ đồng, chiếm 53% GDP; trong đó vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước 32.000 tỷ đồng, chiếm 71,9% tổng số vốn huy động. Đầu tư từ ngân sách nhà nước được bố trí có trọng tâm, trọng điểm, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả sử dụng vốn được nâng lên. Bước đầu đã thu hút được một số dự án đầu tư theo hình thức BTO, BOT trong một số lĩnh vực.
2. Về xã hội:
2.1. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ tiếp tục chuyển biến tiến bộ
Quy mô các ngành học, bậc học tiếp tục phát triển; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học được quan tâm đầu tư theo hướng chuẩn hóa. Toàn tỉnh hiện có 100% xã, phường, thị trấn giữ vững chuẩn quốc gia về phổ cập giái dục tiểu học – chống mù chữ, tỉ lệ người biết chữ trong độ tuổi năm 2010 đạt 99%, tăng so với năm 2005 là 4,12%.
2.2. Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện khá tốt, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện; các hoạt động văn hóa xã hội chuyển biến tích cực.
Đã triển khai nhiều giải pháp tích cực để giải quyết việc làm. Trong 5 năm 2006-2010 đã giải quyết việc lầm cho 115.980 người, bình quân hàng năm tạo việc làm cho trên 23 ngàn người, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị đến năm 2010 xuống còn 4,33%, số người đi làm việc ở nước ngoài giai đoạn 2006-2010 là 1.447 người, tăng 6,49 lần so với giai đoạn 2001-2005.
Đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng được chăm lo ngày càng tốt hơn. Đã hoàn thành mục tiêu cơ bản xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo và cận nghèo trong toàn tỉnh./.