Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trang chủKinh tế địa phương và
vùng lãnh thổ
63 tỉnh, thành phố
Tỉnh Bắc Giang

  • Điều kiện tự nhiên
  • Danh lam thắng cảnh
  • Đơn vị hành chính
  • Kinh tế – Xã hội

Vị trí địa lý:

Bắc Giang nằm ở tọa độ địa lý từ 21007’ đến 21037’ vĩ độ bắc; từ 105053’ đến 107002’ kinh độ đông;

Bắc Giang là tỉnh miền núi, nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị 110 km về phía Nam, cách cảng Hải Phòng hơn 100 km về phía Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp Hà Nội, Thái Nguyên, phía Nam và Đông Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dư­ơng và Quảng Ninh. Đến nay tỉnh Bắc Giang có 9 huyện và 1 thành phố. Trong đó có 6 huyện miền núi và 1 huyện vùng cao (Sơn Động); 230 xã, phường, thị trấn.

Khí hậu:

Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng Đông Bắc. Một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh, mùa hè nóng ẩm, mùa xuân, thu khí hậu ôn hòa. Nhiệt độ trung bình 22 – 230C, độ ẩm dao động lớn, từ 73 – 87%.

Lư­ợng mư­a hàng năm đủ đáp ứng nhu cầu n­ước cho sản xuất và đời sống.

Nắng trung bình hàng năm từ 1.500 – 1.700 giờ, thuận lợi cho phát triển các cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới.

Đặc điểm địa hình:

Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng miền núi và trung du có đồng bằng xem kẽ. Vùng trung du bao gồm 2 huyện Hiệp Hòa, Việt Yên và thành phố Bắc Giang. Vùng miền núi bao gồm 7 huyện: Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang. Trong đó 1 phần các huyện Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và Sơn Động là vùng núi cao.

Đặc điểm chủ yếu của địa hình miền núi (chiếm 72% diện tích toàn tỉnh) là chia cắt mạnh, phức tạp chênh lệch về độ cao lớn. Nhiều vùng đất đai còn tốt, đặc biệt ở khu vực còn rừng tự nhiên. Vùng đồi núi thấp có thể trồng được nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp nh­ư vải thiều, cam, chanh, na, hồng, đậu tư­ơng, chè…; chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, thuỷ sản.

Đặc điểm chủ yếu của địa hình miền trung du (chiếm 28% diện tích toàn tỉnh) là đất gò, đồi xen lẫn đồng bằng rộng, hẹp tùy theo từng khu vực. Vùng trung du có khả năng trồng nhiều loại cây l­ương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, cá và nhiều loại thuỷ sản khác.

Dân số:

Bắc Giang là tỉnh đông dân nhất vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, dân số năm 2008 là 1.631.600 người (trong đó dân tộc thiểu số là 207.876 người, có 90,8% dân số sống ở khu vực nông thôn; 9,2% sống ở thành thị và có 27 dân tộc anh em, chiếm 12,9% dân số toàn tỉnh).

Tài nguyên thiên nhiên:

a. Tài nguyên đất

Bắc Giang có 382.200 ha đất tự nhiên, bao gồm 123 nghìn ha đất nông nghiệp, 110 nghìn ha đất lâm nghiệp, 66,5 nghìn ha đất đô thị, đất chuyên dùng và đất ở, còn lại là các loại đất khác. Nhìn chung, tỉnh Bắc Giang có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Quốc lộ 1A mới hoàn thành tạo ra quỹ đất lớn có nhiều lợi thế cho phát triển công nghiệp – dịch vụ. Đất nông nghiệp của tỉnh, ngoài thâm canh lúa còn thích hợp để phát triển rau, củ, quả cung cấp cho Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận. Tỉnh đã có kế hoạch chuyển hàng chục nghìn ha trồng lúa sang phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao. Hơn 20 nghìn ha đất đồi núi ch­ưa sử dụng là một tiềm năng lớn cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư doanh, liên kết trồng rừng, chế biến lâm sản và nuôi trồng thuỷ sản.

b. Tài nguyên rừng

Bắc Giang có 129.164 ha đất lâm nghiệp đã có rừng, và gần 30.000 ha đất núi đồi có thể phát triển lâm nghiệp. Trữ lư­ợng gỗ có khoảng 3,5 triệu m3, tre nứa khoảng gần 500 triệu cây. Ngoài tác dụng tàn che, cung cấp gỗ, củi, dư­ợc liệu, nguồn sinh thuỷ, rừng Bắc Giang còn có nhiều sông, suối, hồ đập, cây rừng nguyên sinh phong phú… tạo cảnh quan, môi sinh đẹp và hấp dẫn.

c. Tài nguyên khoáng sản

Bắc Giang đã phát hiện và đăng ký được 63 mỏ với 15 loại khoáng sản khác nhau bao gồm: than, kim loại, khoáng chất công nghiệp, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Phần lớn các khoáng sản này đã được đánh giá trữ lượng hoặc xác định tiềm năng dự báo.

Tuy không có nhiều mỏ khoáng sản lớn nh­ưng lại có một số loại là nguồn nguyên liệu quan trọng để phát triển công nghiệp của tỉnh như­ mỏ than đá ở Yên Thế, Lục Ngạn, Sơn Động có trữ lư­ợng khoảng hơn 114 triệu tấn, gồm các loại than: antraxit, than gầy, than bùn. Trong đó mỏ than Đồng Rì có trữ lượng lớn (107,3 triệu tấn) phục vụ phát triển quy mô công nghiệp trung ương. Quặng sắt ước khoảng 0,5 triệu ­tấn ở Yên Thế. Ngoài ra gần 100 nghìn tấn quặng đồng ở Lục Ngạn, Sơn Động; 3 triệu tấn cao lanh ở Yên Dũng. Khoáng sản sét cũng có tiềm năng lớn, sử dụng làm gạch ngói, với 16 mỏ và điểm mỏ, tổng trữ lượng khoảng 360 triệu m3, chủ yếu ở các huyện: Việt Yên, Lạng Giang, Lục Nam, Yên Thế, Hiệp Hoà. Trong đó có 100 m3 sét làm gạch chịu lửa ở Tân Yên, Việt Yên; sỏi, cuội kết ở Hiệp Hoà, Lục Nam.

d. Tài nguyên nước

Trên lãnh thổ Bắc Giang có 3 con sông lớn chảy qua, với tổng chiều dài 347 km, lưu lượng lớn và có nước quanh năm. Ngoài ra còn có hệ thống ao, hồ, đầm, mạch nước ngầm. Lượng nước mặt, nước mưa, nước ngầm đủ khả năng cung cấp nước cho các ngành kinh tế và sinh hoạt.

 

Danh lam thắng cảnh:

– Về du lịch văn hóa – lịch sử

Bắc Giang có tới trên 2.000 di tích và hàng ngàn lễ hội truyền thống trải khắp trên địa bàn toàn tỉnh, tiêu biểu là một số di tích như:

+ Di tích thành cổ Xương Giang:

Trong cuộc đấu tranh chống giặc phương bắc ở thể kỷ 15, trận đánh Cần Trạm – Xương Giang đã tiêu diệt 10 vạn quân Minh, chôn vùi mộng xâm lăng của các đạo quân xâm lược đã mãi mãi đi vào lịch sử chống ngoại xâm, mở ra kỷ nguyên thái bình cho dân tộc. Nhưng do thời gian và chiến tranh phá hủy nên dấu tích của Thành cổ Xương Giang trên bề nổi không còn nữa, chỉ còn lại bốn tấm bia được dựng tại bốn khu vực cổng thành năm xưa. Di tích nằm ngay tại trung tâm thành phố Bắc Giang. Hiện nay Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang tích cực sớm hoàn chỉnh hồ sơ gửi Cục Di sản văn hóa thẩm định trình Bộ trưởng quyết định xếp hạng di tích thành cổ Xương Giang là di tích cấp quốc gia. Tương lai đây sẽ là điểm du lịch thu hút nhiều khách thăm quan bởi tính chất lịch sử và vị trí thuận lợi của di tích.

+ Khu Di tích lịch sử khởi nghĩa nông dân Yên Thế:

Cách thành phố Bắc Giang khoảng 30 km về phía Đông Bắc, khu di tích nằm tại địa phận của Thị trấn Cầu Gồ, là nơi dấy binh khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám đã lãnh đạo nông dân khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp trong suốt 30 năm. Đến nay khởi nghĩa nông dân Yên Thế còn lưu giữ lại nhiều hiện vật quý hiếm tại nhà Trưng bày Hoàng Hoa Thám. Uỷ ban nhân dân huyện Yên Thế đã lập dự án đầu tư khu du lịch Hoàng Hoa Thám, dự án được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt bổ sung năm 2006 với mức vốn đầu tư trên 27 tỷ đồng. Dự án đang được khởi công xây dựng. Đây là khu di tích lịch sử thường đưa các đoàn học sinh trong và ngoài tỉnh đến tham quan thực tế để bổ sung kiến thức cho các bài học lịch sử. Hàng năm cứ đến ngày 16.3 dương lịch là nhân dân ở khắp các vùng miền trong và ngoài tỉnh nô nức đến với lễ hội Yên Thế. Có thể nói lễ hội Yên Thế Là một trong những lễ hội lớn nhất của tỉnh Bắc Giang. Theo ý kiến kết luận của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Anh Tuấn tại buổi làm việc với Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ngày 13/12/2008. Bắc Giang đang tích cực cùng với Cục Di sản văn hóa lập hồ sơ đè nghị Thủ tướng Chính phủ xếp hạng khu di tích lịch sử khởi nghĩa Yên Thế thành di tích cấp quốc gia đặc biệt.

+ Các đình chùa

Cổng trước chùa Mĩ Độ

Biểu tượng nghìn đời của làng quê cổ là lũy tre làng với ngôi chùa, ngôi đình và các đền, miếu, văn chỉ. Đó chính là những thiết chế gắn liền với tín ngưỡng thờ thành hoàng là cơ sở tạo nên truyền thống, phong tục, tập quán, lễ hội, đình đám và nội dung văn hoá của làng. Bắc Giang có nhiều ngôi đình không những mang giá trị lịch sử, văn hoá tiêu biểu mà còn trở thành biểu trưng văn hoá của làng xã Việt Nam như đình Lỗ Hạnh (Đồng Lỗ – Hiệp Hoà ), xây năm 1576; đình Thổ Hà (Vân Hà – Việt Yên) xây dựng năm 1686; đình Phù Lão (Đào Mỹ – Lạng Giang) xây dựng thế kỷ XVII; đình Hả (Tân Trung – Tân Yên); đình Đông (Bích Động – Việt Yên); đình Dĩnh Thép (xã Tam Hiệp – Yên Thế). Không chỉ có đình mà nhiều ngôi chùa ở bắc Giang cũng đã được ghi nhận trong lịch sử Phật giáo Việt Nam như: chùa Đức La (hay còn gọi là chùa Vĩnh Nghiêm, ở xã Trí Yên – Yên Dũng); chùa Bổ Đà (xã Tiên Sơn – Việt Yên); chùa Kem (xã Nham Sơn – Yên Dũng), chùa Mĩ Độ (phường Mĩ Độ, thành phố Bắc Giang) …Ngoài những đình, chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá, hầu hết các làng ở Bắc Giang đều có đình là nơi thờ cúng thành hoàng làng.

– Về du lịch sinh thái:

 Bắc Giang có diện tích đồi rừng chiếm 89,5% tổng số diện tích tự nhiên của tỉnh, những năm gần đây do thực hiện cơ chế giao khoán đồi rừng nên rừng được trồng và bảo vệ phát triển tốt, đồi trọc được phủ xanh bằng những trang trại trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, góp phần xoá đói giảm nghèo cho nhân dân, đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho địa phương và tạo ra hệ sinh thái phong phú là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái. Địa hình chia cắt mạnh, tạo ra cho Bắc Giang một số thắng cảnh khá hấp dẫn như:

Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ:

Suối Mỡ, Lục Nam, Bắc Giang

Thuộc địa phận xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, cách thành phố Bắc Giang 40 km, cách thủ đô Hà Nội 90 km. Suối Mỡ là tên một con suối bắt nguồn từ khu vực Đá Vách và Hồ Chuối chảy xuôi dòng len lỏi theo núi Huyền Đinh – Yên Tử tạo ra nhiều thác và những bồn tắm thiên nhiên kỳ thú. Dọc theo ven suối, cây cối rủ bóng la đà, soi hình xuống khe suối trong vắt. Dọc theo suối có đền Thượng, đền Trung, đền Hạ được xây dựng từ thời nhà Lê (thế kỷ 15 – 16). Đây là nơi phụng thờ công chúa Quế Mỵ Nương, con gái vua Hùng Định Vương, thế kỷ 18. Bà được phong là Thượng Ngàn Thánh Mẫu vì có công khai khẩn vùng đất này. Hàng năm, để tưởng nhớ công ơn bà, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Suối Mỡ vào những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 âm lịch. Lễ hội thu hút rất đông du khách trong và ngoài tỉnh đến thăm quan, dâng hương và dự lễ hội. Quần thể du lịch Suối Mỡ còn có thác Thùm Thùm, Đấu Đong Quân, chùa Hòn Trứng, chùa Hồ Bắc, khu Ba Dinh Bẩy Nền, đền Trần, bãi Quần Ngựa, đình Xoan, đền Cổng Xanh và đền Trò… Phong cảnh hữu tình, lại có những dấu xưa tích cũ hàng ngàn năm lịch sử, là thế mạnh để Suối Mỡ trở thành khu du lịch sinh thái đầu tiên của tỉnh được đầu tư xây dựng hạ tầng du lịch. Đến nay, dự án xây dựng giai đoạn 1 đã cơ bản hoàn thành, đưa vào khai thác. Khi được đầu tư hạ tầng du lịch, lượng du khách đến thăm quan ngày càng đông. Trong tương lai gần, đây sẽ trở thành khu du lịch trọng tâm, là điểm nhấn để thúc đẩy các khu, điểm du lịch khác của tỉnh cùng phát triển.

Khu du lịch hồ Khuôn Thần:

Hồ Khuôn Thần (Lục Ngạn)

Từ thành phố Bắc Giang đi ngược lên vùng Đông Bắc khoảng 40 km, rẽ trái 9 km là tới khu du lịch Khuôn Thần, (Lục Ngạn). Hồ Khuôn Thần có diện tích 140 ha, có 5 đảo được trồng thông từ năm 1997. Xung quanh hồ là vùng núi có diện tích 2.283 ha, có khoảng 800 ha rừng( trong đó rừng tự nhiên 300 ha, rừng trồng, rừng tái sinh và đồng Cỏ 500ha). Khuôn Thần nổi tiếng bởi vẻ đẹp của hồ và những trang trại vườn đồi ngút ngàn tầm mắt; là vùng đất lưu giữ nhiều nét đẹp văn hoá của dân tộc thiểu số như Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng, Tày với những điệu hát soong hao, si, lượn…nơi đây còn có đền Từ Mã, thờ danh tướng đời Trần đã được nhà nước xếp hạng di tích văn hoá. Cùng với khu du lịch Khuôn Thần thì du lịch sinh thái vườn đồi Lục Ngạn sẽ tạo thêm sự thích thú cho du khách bởi những trái ngọt và mầu xanh của vườn đồi. Những năm qua, Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nên vườn đồi của Lục Ngạn đã và đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ với nhiều loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như vải thiều, hồng không hạt, dứa, xoài, na…vv. Nhất là vải thiều Lục Ngạn đã trở thành đặc sản mà du khách cả nước biết đến và đã xuất khẩu sang một số nước bạn trên thế giới. Khuôn Thần rất thích hợp với nhiều loại hình du lịch như: nghỉ dưỡng, chữa bệnh, đặc biệt là du lịch thể thao như chèo thuyền, lướt ván…

Rừng nguyên sinh Khe Rỗ:

Nằm trên địa phận xã An Lạc huyện Sơn Động có diện tích 7.153 ha, trong đó rừng tự nhiên là 5.092 ha và rừng trồng là 111 ha. Đây là khu rừng nguyên sinh tiêu biểu nhất không chỉ của Bắc Giang mà còn điển hình cho cả vùng Đông Bắc Việt Nam. Khu bảo tồn thiên nhiên Khe Rỗ nằm gọn trong lưu vực 2 con suối Khe Rỗ và Khe Đin; phía Bắc và Tây là đất của xã An Lạc, phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Đình Lập – Lạng Sơn, phía Nam và Đông Nam giáp với huyện Ba Chẽ – Quảng Ninh. Nơi đây có hệ động thực vật phong phú, đã phát hiện giám định và lập danh mục 786 loài thực vật thuộc 176 họ, 501 chi, 5 ngành trong đó có 43 loài quý hiếm ghi trong Sách đỏ, chiếm 13% số loài quý hiếm của cả nước. Có 236 loài gỗ, phân bố từ 500 đến 800 cây/ha và 225 loài dược liệu như sa nhân, ba kích, hoàng tinh, mực hoa trắng….Ngoài ra ở đây còn có một lượng tài nguyên động vật khá đa dạng với 51 loài thú thuộc 20 họ, 8 bộ; 102 loài chim thuộc 41 họ, 13 bộ. Sống rải rác quanh khu vực bảo tồn có 2 bản người Dao. Khu vực hồi sinh thái có 10 bản người dân tộc Tày, Kinh , Cao Lan, Sán Chỉ, Dao. Việc đi lại trong khu bảo tồn này không dễ dàng, phải đi theo đường mòn vắt qua các sườn núi, hoặc đi bộ qua các khe suối. Vì vậy nó thực sự là một điểm du lịch hấp dẫn với những du khách thích mạo hiểm và muốn khám phá sự kỳ thú của thiên nhiên hoang dã.

Khu du lịch sinh thái Tây Yên Tử

:

Có diện tích 16.466 ha, chủ yếu rừng nguyên sinh của vùng Đông Bắc Việt Nam có hệ động thực vật rừng nhiệt đới rất phong phú và đa dạng. Nhiều loài nằm trong sách đỏ Việt Nam đang có nguy cơ tuyệt chủng, nhiều loại thực vật quý hiếm như: thông, tre, pơ mu, trầm hương, ba kích, sa nhân, đinh, lim, lát hoa… Về động vật: cu li voọc đen, gà tiền, chó sói, rùa vàng, khỉ vàng, cá cóc sần Mẫu Sơn và rắn hổ mang chúa. Với độ cao trung bình 300 – 1.000 m so với mực nước biển, nhiệt độ trung bình năm là 220C độ ẩm không khí là 85%, khu du lịch được ưu đãi thừa hưởng vùng khí hậu bốn mùa mát mẻ cùng những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, hoang dã do thiên nhiên ban tặng. Nằm ẩn mình bên sườn Tây của dãy núi vòng cung Yên Tử quanh năm với mây – ngàn – non – nước – sương giăng. Đến với du lịch sinh thái Tây Yên Tử vào mỗi kỳ nghỉ, bạn sẽ được chiêm ngưỡng ngắm cảnh đẹp và hòa mình vào thiên nhiên hoang dã giữa rừng đại ngàn như: Thác Giót, Suối nước Vàng, bãi đá Rạn, cây Trò nâu vợ chồng( Lục Sơn – Lục Nam)… dẫu chỉ một lần thôi những chắc hẳn bạn sẽ khó quên được một miền đất còn hoang sơ, huyền bí đầy mộng mơ này.

Lễ hội truyền thống:

Tỉnh Bắc Giang ngày nay, xưa nằm trong vùng  Kinh Bắc. Nơi đây không chỉ nổi tiếng về truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất chống giặc ngoại xâm, nổi tiếng về truyền thống hiếu học, khoa bảng, về những di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh mà Bắc Giang còn nổi tiếng về lễ hội dân gian truyền thống, có ở cả 10 huyện, thành phố.

Lễ hội Yên Thế

 Thành phố Bắc Giang: Lễ hội Xương Giang, Lễ hội làng Thành, Lễ hội tiết thanh minh ở nơi thờ Lều tướng công, Lễ hội Dĩnh Kế

, Lễ hội làng Vẽ, 

 Lễ hội làng Vĩnh Ninh.

– Huyện Hiệp Hoà: Hội đả cầu Lương Phong, Lễ hội Y Sơn, Hội làng Trâu Lỗ.

– Huyện Lạng Giang: Hội Liên Xương

, Hội làng Đại Phú, Hội làng Kép, Hội làng Mãn Triều, Hội Phù Lão, Hội làng Phú Độ, Hội làng Quất Lâm, Hội Thái Đào.

– Huyện Lục Nam: Lễ hội Suối Mỡ, Hội làng Bảo Lộc

, Hội làng Hà Mỹ, Hội làng Mẫu Sơn.

– Huyện Lục Ngạn: Hội hát dân ca các dân tộc

, Hội chùa Am Vãi.

– Huyện Yên Dũng: 

Lễ hội chùa La (chùa Vĩnh Nghiêm),

 Hội làng Tiên La, Hội làng Ảm, 

Hội vùng Gián.

– Huyện Yên Thế: Hội Hoàng Hoa Thám,

 Lễ hội Yên Thế.

– Huyện Sơn Động: Lễ hội làng Chẽ.

– Huyện Tân Yên: Lễ hội Đình Vồng, Lễ hội đình Cả xã Cao Thượng, Lễ hội đình Hả,  

Hội chùa Thú.

– Huyện Việt Yên: Hội Bổ Đà, 

Lễ hội Thổ Hà.

Đặc sản – Sản phẩm nổi tiếng:

– Vải thiều – Đặc sản Lục Ngạn

Vải thiều Lục Ngạn

Vải là một loại loại quả có nhiều chất dinh dưỡng, ăn rất ngon, vỏ mỏng, đỏ, vị ngọt đậm đà và hương thơm thì đặc biệt khó quên. Ai đã một lần đến với Lục Ngạn – Bắc Giang thì sẽ thấy được sức hút ghê gớm của vùng đất trung du miền núi phía bắc này.

Bắc Giang là một trong những tỉnh có diện tích cây ăn trái lớn của nước ta và đặc biệt là có diện tích cây vải lớn nhất toàn quốc. Theo ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Giang, hiện nay thì cây vải thiều có diện tích trên 40.000 ha, chiếm hơn 80% tổng diện tích cây ăn quả của tỉnh. Cây ăn quả được phát triển ở hầu khắp các địa phương trong tỉnh, nhưng tập trung nhiều ở các huyện Lục Ngạn 21.980 ha, Lục Nam 9.330 ha, Yên Thế 7.209 ha, Tân Yên 3.142 ha…

Vải thiều được trồng phổ biến trên đất Bắc Giang nhưng tập trung và chất lượng nổi bật là vải thiều của huyện Lục Ngạn. Quả to, vỏ đỏ, hạt nhỏ, cùi dày là những đặc trưng riêng của vải thiều Lục Ngạn.

Hàng năm tỉnh cung cấp cho thị trường sản lượng vải lên đến hàng trăm tấn. Vải xuất khẩu chủ yếu vẫn là sang thị trường Trung Quốc qua đường tiểu ngạch và chủ yếu do các tư thương thực hiện. Ngoài lượng vải tươi tiêu thụ ngay chiếm khoảng 50% tổng sản lượng, số vải còn lại được chế biến sấy khô là chủ yếu.

– Mỳ Chũ – Nam Dương, Lục Ngạn

Đặc sản mỳ Chũ Bắc Giang

Xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang bao đời nay nổi tiếng với mỳ Chũ.

Điều đặc biệt để mỳ Chũ ngon hơn các loại mỳ thông thường là mỳ được làm từ thứ gạo đồi của vùng Chũ có tên là bông hồng, gạo bông hồng khi được trồng ở đất đồi có cái vị đậm đà, dẻo dai vượt xa gạo bông hồng của vùng đồng bằng. Một điều quan trọng khác là do cách làm mỳ thủ công, cầu kỳ của người Nam Dương. Người Nam Dương có thể “biến hóa” mỳ theo sở thích của người ăn. Mỳ Chũ có vị dai dai, vị ngọt bùi của gạo ngon khó quên, rất thích hợp cho những người sành ăn lẩu, thích món mỳ xào hay bát mỳ nấu đơn giản … 

– Bánh đa Kế – Dĩnh Kế

 

Bánh đa Kế

Nhắc đến Bắc Giang là nhiều người nghĩ ngay đến món đặc sản bánh đa Kế, xã Dĩnh Kế – nơi đây có làng nghề làm bánh đa ngon nổi tiếng đất Bắc. Có nhiều nơi trên đất nước Việt Nam cũng làm bánh đa, bánh tráng, nhưng bánh đa Kế vẫn luôn luôn tạo ra được một nét riêng, không thể lẫn vào đâu. Nó trở thành một thứ đặc sản đậm chất đồng quê Bắc Bộ. Bánh đa Kế từ trăm năm qua được xem như một sản phẩm mang lại nguồn lợi kinh tế. Không những thế, nó đã trở thành một nét đẹp văn hoá, một thú vui ẩm thực, một món quà đồng quê có ý nghĩa của tỉnh Bắc Giang.

Bản đồ hành chính:

Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Giang

 

Các đơn vị hành chính:

Tỉnh Bắc Giang chính thức đ­ược thành lập và hoạt động theo đơn vị hành chính mới từ ngày 01- 01-1997, với 10 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Bắc Giang là trung tâm và 9 huyện là: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Lạng Giang, Yên Dũng, Việt Yên, Tân Yên và Hiệp Hoà.

Thông tin đang được cập nhật