Công đoàn Bưu Điện Việt Nam
Định kỳ hàng năm và sau các Nghị quyết của Đảng, Công đoàn Bưu điện Việt Nam đã chủ động trình Ban cán sự Đảng TCBĐ ban hành chỉ thị về phong trào CNVC và hoạt động công đoàn; đồng thời xây dựng chương trình hành động, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm như tổ chức các đợt thi đua mừng Đảng, mừng xuân, chào mừng Đại hội Đảng, thi tìm hiểu về đường lối đổi mới của Đảng; tham gia thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bồi dưỡng và phát triển Đảng trong lực lượng công nhân ưu tú; góp phần tích cực vào việc xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh. Trong nhiệm kỳ đã giới thiệu cho Đảng gần 7.000 đoàn viên công đoàn ưu tú và được Đảng xem xét kết nạp trên 4.000 đảng viên mới.
Phối hợp cùng với chuyên môn phát động và triển khai thực hiện cuộc vận động: “Dạy tốt, học tốt, xây dựng môi trường đào tạo lành mạnh”; xây dựng và ban hành các quy chế cử người đi đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước, quy chế tuyển dụng lao động, quy chế khuyến khích tài năng trẻ; tổ chức phát động phong trào học tập nâng cao trình độ, động viên được đông đảo CBCNVC học tập văn hóa, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ với các chương trình đào tạo nâng cao, đào tạo lại, cập nhật kiến thức mới với tỷ lệ người tham gia học tập hàng năm đạt bình quân từ 40 – 50% so với tổng số CBCNVC. Đến cuối nhiệm kỳ, trình độ trên đại học đạt gần 1%, trình độ đại học và cao đẳng đạt 26,2% vượt so với chỉ tiêu là 25% mà đại hội XI đề ra. Kết quả của phong trào học tập, của công tác đào tạo đã góp phần tích cực vào việc nâng cao trình độ, tay nghề cho CBCNVC, đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Chủ động phối hợp cùng với chuyên môn tổ chức thành công Hội nghị nữ CNVC Bưu điện hướng tới thế kỷ 21, xây dựng và triển khai có hiệu quả các nội dung công tác của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ, tổ chức phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Tổ chức vận động CBCNVC đóng góp kinh phí để tặng sổ tiết kiệm cho con CBCNVC trong ngành bị dị tật do chất độc mầu da cam, ủng hộ quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam, chăm sóc trẻ thơ; đẩy mạnh các hoạt động về giới và gia đình, thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước, của ngành đối với nữ CBCNVC. Bằng kết quả hoạt động của phong trào lao động nữ đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của nữ CBCNVC Bưu điện trong công tác, gia đình và xã hội.
Công tác lịch sử truyền thống được triển khai với nhiều nội dung có tác dụng giáo dục sâu sắc, đã hoàn thành biên soạn và tái bản cuốn lịch sử Bưu điện Việt Nam tập I và tập II, lịch sử phân ban Nam bộ, Trung bộ, kỷ yếu liệt sĩ, giao bưu vận Nam bộ, sách lịch sử và tài liệu truyền thống của 44 đơn vị. Đã thực hiện nhiều công trình di tích như tượng đài giao bưu – thông tin, bia tưởng niệm, tôn tạo, nâng cấp các nghĩa trang liệt sĩ, 85% số đơn vị thành viên đã xây dựng phòng truyền thống cấp cơ sở. Các hoạt động kỷ niệm ngày truyền thống của ngành, ngày thành lập công đoàn đều được quan tâm tổ chức thiết thực, tiết kiệm có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Công đoàn đã tổ chức nhiều cuộc thi nâng cao nhận thức cho CBCNVC như: cuộc thi tìm hiểu truyền thống 10 chữ vàng, cuộc thi hiểu biết về pháp luật, cuộc thi xây dựng “Văn minh Bưu điện”, cuộc thi viết “Những kỷ niệm sâu sắc về ngành Bưu điện” v.v… Các cuộc thi đều thu hút sự quan tâm của CBCNVC trong ngành, số lượt người tham gia đều trên 50%, đông nhất là cuộc thi xây dựng “Văn minh Bưu điện” đã có trên 6 vạn CBCNVC tham gia. Công tác kế hoạch hoá gia đình; phòng chống các tệ nạn xã hội; chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm đều đạt hiệu quả thiết thực.
4 – Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động; tổ chức tốt công tác chuyên đề; phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh
Trong nhiệm kỳ qua Công đoàn Bưu điện Việt Nam đã chú trọng xây dựng tổ chức công đoàn cơ sở đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức quản lý của ngành; kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan và nghiên cứu đổi mới tổ chức của Công đoàn Bưu điện Việt Nam cho phù hợp với giai đoạn mới.
Tổ chức có hiệu quả hoạt động của cụm công đoàn, 17/18 cụm công đoàn thường xuyên duy trì nề nếp sinh hoạt, tập trung bàn các biện pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn, thực chất là: “Câu lạc bộ Giám đốc và Chủ tịch công đoàn”. Các cụm công đoàn đã tiến hành hội thảo “Làm thế nào để sản xuất kinh doanh có hiệu quả” và “Làm thế nào để hội nhập, cạnh tranh thắng lợi” đã đưa ra được nhiều giải pháp, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong sản xuất, trong công tác, và trong hoạt động công đoàn; nhiều kinh nghiệm được trao đổi nhất là về xây dựng quy chế phân phối thu nhập, xây dựng quy chế nội bộ của đơn vị, xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Hoạt động cụm công đoàn làm tăng thêm mối đoàn kết hiểu biết giúp đỡ các đơn vị trong cùng điều kiện thông qua các hoạt động văn hoá, hội diễn, hội thao mang tính quần chúng rộng rãi. Để tiếp tục củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm công đoàn đến nay đã tổ chức lại thành 20 cụm cho phù hợp với yêu cầu đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh sắp tới.
Chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở được nâng lên đáng kể, tỷ lệ công đoàn cơ sở đạt danh hiệu tiêu chuẩn vững mạnh hàng năm đều ở mức trên 90%, cao hơn nhiều so với chỉ tiêu đề ra. Hoạt động công đoàn trong khối liên doanh, trong các công ty cổ phần từng bước được kiện toàn tạo nên sự thống nhất về nội dung hoạt động của các cấp công đoàn. Công tác đào tạo bồi dưỡng lý luận nghiệp vụ cho cán bộ công đoàn được quan tâm đúng mức, trong nhiệm kỳ đã có 19.164 cán bộ công đoàn các cấp từ tổ trưởng trở lên được tham dự các lớp tập huấn. Có 63 tổ chức công đoàn cơ sở được thành lập, kết nạp được 17.442 đoàn viên công đoàn. Đến nay Công đoàn BĐVN có 117 đầu mối gồm 68 công đoàn cấp trên cơ sở, 49 công đoàn cơ sở trực thuộc, 945 công đoàn cơ sở với trên 76.000 cán bộ đoàn viên chiếm 80,4% tổng số lao động.
Công tác quy hoạch cán bộ công đoàn đã được quan tâm, trong nhiệm kỳ đã có 23 cán bộ trong diện quy hoạch được bầu làm Chủ tịch công đoàn cấp trên cơ sở, nhiều cán bộ chuyên trách được tín nhiệm bầu vào Ban chấp hành các cấp. Nhìn chung đội ngũ Ban chấp hành công đoàn các đơn vị nhiệm kỳ mới được trẻ hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ được nâng lên, tỷ lệ nữ trong Ban chấp hành các cấp tăng hơn so với trước đây. Trong 5 năm đã có 2.549 lượt cán bộ đoàn viên công đoàn từ cơ sở trở lên được Công đoàn Bưu điện Việt Nam khen thưởng, 119 lượt người được nhận bằng khen của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Bên cạnh đó đã xử lý kỷ luật cán bộ, đoàn viên công đoàn vi phạm nội quy lao động, đình chỉ sinh hoạt một uỷ viên Ban chấp hành Công đoàn Bưu điện Việt Nam, khiển trách một chủ tịch công đoàn cơ sở trực thuộc, cảnh cáo một chủ tịch công đoàn cấp trên cơ sở do vi phạm chính sách pháp luật của Nhà nước.
Hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra công đoàn các cấp đã tập trung xây dựng và triển khai tốt chương trình công tác hàng năm; giúp cho Ban thường vụ, Ban chấp hành tổ chức kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Công đoàn Việt Nam, kiểm tra việc thu chi tài chính, giải quyết và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của CNVC, trong nhiệm kỳ đã nhận, xem xét, giải quyết và chuyển đến các đơn vị có liên quan xem xét, giải quyết: 209/209 đơn khiếu tố, khiếu nại gửi đến tổ chức công đoàn, trong đó Công đoàn Bưu điện Việt Nam giải quyết trực tiếp 3 đơn, chuyển và theo dõi việc giải quyết 206 đơn, đến nay không có đơn tồn đọng. Quá trình giải quyết đơn thư khiếu tố, khiếu nại đều đúng theo luật định. Bên cạnh đó đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ, cung cấp tài liệu cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, thanh tra nhân dân. Qua chấm điểm xếp hạng hàng năm số Uỷ ban Kiểm tra công đoàn các cấp đạt loại xuất sắc và loại khá chiếm tỷ lệ cao.
Công tác tài chính công đoàn, được các cấp công đoàn quan tâm chỉ đạo, thực hiện tốt chế độ thu, nộp, thanh quyết toán từ cơ sở với Công đoàn Bưu điện Việt Nam, Liên đoàn lao động địa phương và với Tổng Liên đoàn. Qua kiểm tra định kì hàng năm đồng cấp và cấp dưới; qua kiểm toán của nhà nước và kiểm tra tài chính của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đã kết luận: Công tác tài chính công đoàn các cấp có nhiều tiến bộ đảm bảo nguyên tắc thu nộp tài chính, từng bước kiện toàn nghiệp vụ sổ sách chứng từ kế toán, thực hiện đầy đủ các kiến nghị của các đợt kiểm tra, bảo đảm chi đúng, chi đủ và tiết kiệm, không để xảy ra các trường hợp tiêu cực, tham nhũng vi phạm pháp luật. Trong nhiều năm qua, Công đoàn Bưu điện Việt Nam liên tục được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đánh giá cao và khen thưởng trong công tác quản lý tài chính công đoàn.
5 – Hoạt động đối ngoại của Công đoàn Bưu điện Việt Nam
Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước; được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Đoàn chủ tịch Tổng Liên đoàn, sự hỗ trợ có hiệu quả của Lãnh đạo ngành. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Công đoàn Bưu điện Việt Nam tiếp tục triển khai thực hiện công tác đối ngoại, đặt quan hệ song phương với công đoàn Bưu điện các nước Singapore, Nhật Bản, Pháp, úc, Hàn Quốc; tổ chức đón tiếp hàng chục đoàn đến, đi thăm quan học tập trao đổi về kinh nghiệm về phong trào CNVC và hoạt động công đoàn, dự các Đại hội và Hội nghị công đoàn trong khu vực, ký kết các chương trình hợp tác trao đổi và tổ chức thực hiện đầy đủ nội dung đề ra được công đoàn các nước đánh giá cao.
Thông qua công tác quan hệ hợp tác quốc tế, nhiều cán bộ công đoàn đã được chọn cử đi nước ngoài tham quan, học tập và tham gia các lớp tập huấn, hội thảo về lao động, về phát triển bưu chính, viễn thông thuộc dự án hợp tác đào tạo giữa Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam với Công đoàn Châu á – Thái Bình Dương (UNI – APRO). Kết quả đạt được trong quan hệ đối ngoại đã giúp cho cán bộ công đoàn nâng cao nhận thức trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tích cực vào hoạt động đối ngoại của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
6 – Công tác chỉ đạo của Ban thường vụ, Ban chấp hành Công đoàn các cấp trong ngành
Trong suốt nhiệm kỳ vừa qua, Ban thường vụ, Ban chấp hành Công đoàn Bưu điện Việt Nam đã bám sát Nghị quyết Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam, Nghị quyết Đại hội XI Công đoàn Bưu điện Việt Nam để cụ thể hóa thành các chương trình hành động nhằm đưa các nội dung Nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống. Tăng cường công tác kiểm tra, tổ chức tốt việc sơ, tổng kết định kỳ; đề ra được nhiều giải pháp, biện pháp để đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, có sự phối hợp chặt chẽ với chuyên môn trong mọi hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các cấp công đoàn. Thường xuyên sâu sát cơ sở, lấy cơ sở làm nền tảng cho việc tổ chức phong trào CNVC và hoạt động công đoàn.
Các cụm công đoàn, công đoàn cấp trên cơ sở, cơ sở trực thuộc và cụm công đoàn đã bám sát Nghị quyết, các chủ trương của ngành, của Công đoàn Bưu điện Việt Nam để xây dựng chương trình công tác phù hợp với ngành nghề, địa phương; đồng thời đã phối hợp chặt chẽ với chuyên môn đồng cấp trong việc tổ chức phong trào CNVC và hoạt động công đoàn. Ban thường vụ, Ban chấp hành công đoàn các cấp đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm được phân công, thực hiện cải cách lề lối làm việc, nội dung hội họp, kiện toàn công tác thông tin v.v… nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các cấp công đoàn, góp phần vào việc triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI Công đoàn Bưu điện Việt Nam.
II – khuyết đIểm, tồn tại và nguyên nhân
1 – Khuyết điểm, tồn tại
1. Công tác tuyên truyền về cạnh tranh và hội nhập được triển khai sớm nhưng sự chuyển đổi về nhận thức tư tưởng, về hành động trong CBCNVC nói chung chưa theo kịp với yêu cầu. “Năng suất – Chất lượng – Hiệu quả” còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm và chất lượng dịch vụ còn hạn chế. Tinh thần thái độ phong cách phục vụ của một bộ phận CBCNVC vẫn chưa được đổi mới, còn để dư luận kêu ca phê phán.
2. Quá trình triển khai thực hiện 5 cuộc vận động, các phong trào thi đua, các hội thi ngành nghề cũng còn những tồn tại đó là việc cập nhật thống kê số liệu, sơ, tổng kết ở các cấp cơ sở. Một số phong trào thi đua chuyên đề về cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; phòng chống các tệ nạn xã hội chưa sâu rộng, hiệu quả còn thấp. Công tác thi đua tại một số đơn vị trong khối hành chính, khối các công ty liên doanh, công ty cổ phần chưa rõ nét. Do chờ đợi quy chế thi đua khen thưởng của Tổng liên đoàn nên Công đoàn Bưu điện Việt Nam chậm ban hành quy chế thi đua khen thưởng theo hệ thống tổ chức công đoàn.
3. Trong những năm gần đây số lượng CNVC của ngành tăng nhanh; trong đó, số người làm hợp đồng lao động ngắn hạn chiếm tỷ lệ đáng kể. Nhưng việc ký kết hợp đồng với người lao động ở một số đơn vị chưa thực hiện đúng quy định của Bộ luật lao động. Chế độ tiền lương cấp bậc chức vụ của cán bộ các đơn vị trong ngành còn thấp so với mặt bằng chung; tiến độ và chất lượng triển khai thực hiện quy chế phân phối thu nhập còn chậm và chưa đạt được mục đích yêu cầu theo quy chế mẫu của ngành. Việc huy động CBCNVC đóng góp vào các nguồn quỹ hoạt động xã hội còn cao, còn nhiều đầu mối vận động, gây khó khăn cho cơ sở. Một số đơn vị chưa chấp hành đúng quy trình quy phạm về an toàn vệ sinh lao động, còn để xảy ra tai nạn lao động, tai nạn giao thông.
4. Chưa tổng kết được cuộc vận động “Dạy tốt, học tốt, xây dựng môi trường đào tạo lành mạnh”. Nhìn chung, chương trình và chất lượng đào tạo chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới công nghệ, hiện đại hoá mạng lưới và phát triển dịch vụ. Hiện nay, hoạt động công đoàn đối với công tác phòng chống tệ nạn xã hội nhất là ma tuý ở số ít cơ sở chưa mạnh mẽ, chưa kịp thời còn để xảy ra vi phạm, chủ yếu là nghiện hút trong CNVC.
5. Công tác nghiên cứu xây dựng quy định nội dung hoạt động của các cấp công đoàn còn chậm so với yêu cầu. Hoạt động của công đoàn cơ sở trong các khối các công ty liên doanh, một số công đoàn cơ sở cấp huyện, thị; công đoàn bộ phận còn yếu, chưa tương xứng với vai trò chức năng của tổ chức công đoàn. Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ cấp cơ sở còn nhiều mặt hạn chế. Công tác đào tạo dài hạn đối với cán bộ công đoàn còn ít, chất lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới nên nhìn chung năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ công đoàn chưa ngang tầm với nhiệm vụ của giai đoạn mới.
6. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của công đoàn một số nơi còn chưa sát cơ sở, hiệu quả thấp, nội dung hoạt động còn dàn trải, thiếu tập trung, chưa khai thác tốt tiềm năng và sáng tạo của công đoàn các cấp.
2 – Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan:
– Nhận thức của CNVC lao động và cán bộ công đoàn về vai trò, chức năng nhiệm vụ của công đoàn trong cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đầy đủ. Trình độ năng lực của một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ công đoàn cơ sở còn yếu, không theo kịp với sự đổi mới trong lĩnh vực quản lý nhà nước trong sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá cơ sở vật chất và điều hành mạng lưới, phát triển dịch vụ… Tính năng động, sáng tạo của cán bộ công đoàn chưa cao.
– Nội dung, phương thức hoạt đông công đoàn chậm đổi mới, phương pháp chỉ đạo còn nặng về văn bản hành chính. Trong quá trình tổ chức thực hiện công đoàn đã làm tốt vai trò người đồng hành với chuyên môn, song vai trò người phản biện, người bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp cho người lao động chưa được thực hiện đầy đủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ có nơi, có lúc chưa thực hiện nghiêm túc, còn nhiều vi phạm.
– Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chậm, một số lĩnh vực còn lúng túng nhất là về công tác xây dựng chiến lược nguồn nhân lực, đổi mới tổ chức công đoàn, xây dựng công đoàn cơ sở, công đoàn cổ phần, liên doanh.
Nguyên nhân khách quan:
– Mặt trái của kinh tế thị trường và những tiêu cực trong xã hội, những thay đổi về tổ chức, sự hiện đại hóa nhanh mạng lưới, dịch vụ… đã tác động đến tư tưởng của CBCNVC lao động và hoạt động của tổ chức công đoàn.
– Hệ thống pháp luật, chính sách còn chưa đồng bộ, một số được ban hành nhưng chưa phù hợp với chủ trương của Đảng và nguyện vọng, lợi ích của người lao động, có trường hợp còn chồng chéo, chưa nhất quán do đó khó khăn cho việc tổ chức thực hiện.
– Chưa có cơ chế chính sách đồng bộ để tạo điều kiện cho công đoàn thực hiện tốt vai trò của mình theo luật định. Một số chính sách, chế độ liên quan đến CNVC lao động, cán bộ công đoàn không còn phù hợp, nhưng chậm được bổ xung sửa đổi nên chưa tạo được động lực động viên và thu hút cán bộ làm công tác công đoàn.
III – Những bài học kinh nghiệm
1. Nắm vững quan điểm đường lối của Đảng, các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của ngành, các Nghị quyết của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; để chủ động đề ra các mục tiêu, nội dung, chương trình hành động của tổ chức công đoàn một cách sáng tạo, đón đầu, phù hợp với thực tiễn. Kịp thời đề xuất với Ban cán sự Đảng, cấp uỷ về nội dung tổ chức phong trào CNVC và hoạt động công đoàn, có chương trình phối hợp chặt chẽ với chuyên môn và các đoàn thể đồng cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong việc phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao.
2. Bám sát chức năng nhiệm vụ của tổ chức công đoàn và các quan điểm, các định hướng của Đại hội XI Công đoàn Bưu điện Việt Nam để tập trung chỉ đạo tổ chức phong trào CNVC và hoạt động công đoàn gắn chặt việc đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao “Năng suất – Chất lượng – Hiệu quả” trong sản xuất kinh doanh, xây dựng đội ngũ CNVC, đồng thời từ hiệu quả SXKD sẽ tạo ra lợi ích để chăm lo đời sống và thực hiện chính sách xã hội ngày một tốt hơn đối với CBCNVC. Tập trung chỉ đạo để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở, quan tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ công đoàn; đặc biệt phải tạo được sự thống nhất về nội dung hoạt động trong hệ thống tổ chức công đoàn.
3. Đi sâu đi sát với phong trào, với cơ sở, lắng nghe ý kiến và đề xuất kiến nghị của cơ sở; để phối hợp hoặc tham gia với chuyên môn tháo gỡ kịp thời những khó khăn bức xúc phát sinh trong thực tiễn của cơ sở. Trong từng thời gian phải chọn những khâu then chốt, những nhiệm vụ trọng tâm để chỉ đạo và tổ chức thực hiện, tạo ra hiệu quả thiết thực, chủ động và phối hợp chặt chẽ với chuyên môn triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ, coi trọng nhân tố con người; đây là công việc quan trọng, góp phần vào việc phát huy nội lực, giữ gìn sự ổn định, sự đoàn kết thống nhất chung.
4. Thực hiện tốt chế độ sơ, tổng kết công tác hàng năm và chuyên đề; động viên khen thưởng kịp thời, rút kinh nghiệm để điều chỉnh bổ xung những nội dung chưa phù hợp, đề ra các giải pháp, biện pháp tích cực trong chỉ đạo điều hành nhằm gắn kết chặt chẽ phong trào CNVC và hoạt động công đoàn với nhiệm vụ chính trị của đơn vị tạo được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ trong chỉ đạo của cấp uỷ, sự phối hợp của chuyên môn. Giữ mối quan hệ chặt chẽ và tranh thủ sự chỉ đạo của LĐLĐ địa phương, gắn kết mọi hoạt động với phong trào địa phương.
5. Cán bộ là nhân tố quyết định, kinh nghiệm cho thấy ở đâu tuyển chọn và bố trí cán bộ đúng thì phong trào phát triển tốt, uy tín của công đoàn được đề cao, đoàn viên và CNVC lao động tin tưởng, gắn bó với tổ chức công đoàn. Bởi vậy cần quan tâm công tác đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có phẩm chất, năng lực, nhiệt tình công tác, có phương pháp vận động quần chúng, có tác phong làm việc khoa học, luôn chủ động, linh hoạt sáng tạo trong hoạt động, khắc phục bệnh hành chính, quan liêu, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Tóm lại, qua 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội XI, Công đoàn Bưu điện Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội đề ra; góp phần quan trọng vào việc hoàn thành vượt mức các mục tiêu kinh tế – xã hội của ngành trong giai đoạn cuối của chiến lược tăng tốc độ phát triển bưu chính viễn thông và giai đoạn đầu của chiến lược Hội nhập – Phát triển. Vị thế của Công đoàn Bưu điện Việt Nam được nâng lên; quan hệ đối ngoại của Công đoàn Bưu điện Việt Nam từng bước được mở rộng.
Việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI Công đoàn Bưu điện Việt Nam là kết quả của trí tuệ, của tinh thần lao động tận tuỵ sáng tạo, của ý chí cách mạng tiến công, vượt lên mọi khó khăn thử thách của hơn 9 vạn cán bộ, đoàn viên CNVC lao động trong ngành. Đại hội xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện của Đoàn chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, của Ban Cán sự Đảng, của lãnh đạo Bộ Bưu chính Viễn thông, lãnh đạo Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Đảng uỷ và lãnh đạo chuyên môn các Công ty, Bưu điện tỉnh, thành phố; Xin cảm ơn các cơ quan, đoàn thể Trung ương và các địa phương đã tạo thuận lợi cho Công đoàn Bưu điện Việt Nam hoàn thành được nhiệm vụ mà Đại hội XI Công đoàn Bưu điện Việt Nam đề ra.
Đại hội nhiệt liệt biểu dương các cấp công đoàn, các thế hệ cán bộ, đoàn viên công đoàn và CNVC lao động đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tích to lớn trong nhiệm kỳ vừa qua.