Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam

NDO –

Xuất hiện trong phong trào cách mạng năm 1940 ở Nam Kỳ, cờ đỏ sao vàng năm cánh gắn liền với lịch sử đấu tranh giành, giữ vững nền độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu của nhân dân Việt Nam. Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam ảnh 1

Cờ đỏ sao vàng xuất hiện khi nào?

Cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện trong phong trào cách mạng năm 1940 ở Nam Kỳ.

Cờ đỏ sao vàng được ấn định là Quốc kỳ Việt Nam khi nào?

Năm 1941, trong chương trình Việt Minh xác định “sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”(1).

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, ngày 5/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 5-SL về việc bãi bỏ cờ quẻ ly và ấn định Quốc kỳ Việt Nam.

Sắc lệnh do Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký nêu rõ: Chiểu theo bản tuyên cáo của Hoàng đế Bảo Đại thoái vị ngày 24/8/1945 và bản Tuyên cáo ngày 28/8/1945 về việc thành lập Chính phủ lâm thời dân chủ cộng hoà, sau khi Hội đồng các Bộ trưởng đã đồng ý, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh:

Khoản I: Cờ Quẻ Ly nay bãi bỏ.

Khoản II: Quốc kỳ Việt Nam ấn định như sau này:

a) Hình chữ nhật, bề ngang hai phần ba bề dài;

b) Nền mầu đỏ tươi, ở giữa có sao năm cánh mầu vàng tươi;

Kích thước và hình thể đã ấn định trong bản phụ đính theo sắc lệnh này.

Bản phụ Sắc lệnh ấn định Quốc kỳ Việt Nam:

Kích thước:

Nền cờ: Bề dài = a, bề ngang = 2/3a.

Sao: Từ trung tâm đến hết I góc lồi = 1/5a, từ trung tâm đến I góc lõm = 1/10a.

Mầu sắc: Nền mầu đỏ tươi, Sao vàng tươi.

Cách đặt sao: Ngôi sao vàng có 5 góc lồi và 5 góc lõm, trung tâm sao đặt đúng trung tâm nền cờ, một góc lồi quay thẳng lên phía trên theo đường AB.

Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam ảnh 2

Ý nghĩa của Quốc kỳ Việt Nam

Nền cờ màu đỏ tượng trưng dòng máu đỏ, màu của nhiệt huyết, ý chí, niềm tin, “tinh thần hy sinh chiến đấu cách mạng của nhân dân Việt Nam”(2), ngôi sao màu vàng tượng trưng “ánh sáng của vai trò lãnh đạo cách mạng” (3), nó còn là màu da vàng và năm cánh sao tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội Khóa I, ngày 31/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, khẳng định tầm vóc của cờ đỏ sao vàng: “Lá cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sĩ Việt Nam ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu cũng được chào kính cẩn, bây giờ trừ khi cả 25 triệu đồng bào còn ra không ai có quyền gì mà đòi thay đổi nó” (4).

Quốc kỳ Việt Nam nền đỏ sao vàng đã được Quốc hội Việt Nam chính thức công nhận trong bản Hiến pháp nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 9/11/1946: “Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh”.

Với việc Chính phủ ban hành Sắc lệnh ấn định Quốc kỳ và được Quốc hội thông qua thể hiện tính thống nhất về mặt pháp lý đối với việc sử dụng Quốc kỳ, quy định cũng như xác nhận đối với nhân dân và quốc tế về biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Cờ đỏ sao vàng năm cánh được sử dụng trang trọng trong tất cả các nghi lễ, các sự kiện quan trọng của nhà nước, trở thành biểu tượng thiêng liêng, đại diện cho sức mạnh tinh thần của dân tộc, thành niềm tự hào của nhân dân Việt Nam.

Trải qua quá trình phát triển của dân tộc, của đất nước, mỗi giai đoạn, lá cờ có thể được chỉnh sửa về hình thức để đẹp hơn và những quy định về sử dụng cũng có những điều chỉnh.

So với Quốc kỳ năm 1945, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng theo mẫu năm 1956 có một chút điều chỉnh: “những cánh sao vàng từ nay không làm theo đường cong như trước mà làm theo đường thẳng”. Mặc dù vậy, hồn cốt của lá cờ và nội dung ý nghĩa không hề thay đổi, và trở thành một biểu tượng đẹp, ấn tượng, mang đậm nét dân tộc Việt.

Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam ảnh 3

Hướng dẫn về việc sử dụng Quốc kỳ

Năm 1956, cùng với việc ban hành mẫu Quốc kỳ, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã ban hành Điều lệ số 974-TTg ngày 21/7/1956 về việc dùng Quốc kỳ.

Ngày 2/10/2012, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã ban hành Hướng dẫn số 3420 /HD-BVHTTDL về việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm thống nhất việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca. Hướng dẫn này được đưa ra căn cứ theo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trong đó có Điều lệ số 974-TTg ngày 21/7/1956 của Thủ tướng Chính phủ về việc dùng Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Theo hướng dẫn mới này, về hình Quốc kỳ: “…Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh…”

“…Điểm giữa ngôi sao vàng đặt đúng điểm giữa (điểm giao nhau của hai đường chéo) Quốc kỳ.

Khoảng cách từ điểm giữa ngôi sao đến đầu cánh sao bằng một phần năm chiều dài của Quốc kỳ.

Một cánh sao có trục vuông góc với cạnh dài Quốc kỳ và hướng thẳng lên phía trên theo đầu cột treo Quốc kỳ.

Tạo hình ngôi sao: từ đầu cánh sao này đến đầu cánh sao đối diện là đường thẳng, không phình ở giữa, cánh sao không bầu.

Hai mặt của Quốc kỳ đều có ngôi sao vàng trùng khít nhau.

Nền Quốc kỳ màu đỏ tươi, ngôi sao màu vàng tươi…”

Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam ảnh 4

Về cách treo, “…Khi treo Quốc kỳ chú ý đừng để ngược ngôi sao. Treo ảnh, chân dung lãnh tụ cùng với Quốc kỳ thì ảnh phải thấp hơn Quốc kỳ hoặc để ảnh trên nền Quốc kỳ dưới ngôi sao…”

Thời gian treo: “…Quốc kỳ được treo trong các phòng họp, hội trường của các cấp chính quyền, cơ quan nhà nước và các đoàn thể khi họp những buổi họp long trọng.

Quốc kỳ được treo ngoài trời vào dịp các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị, tết cổ truyền của dân tộc và theo thông báo của Trung ương và chính quyền địa phương.

Quốc kỳ được treo hoặc mang đi ở những nơi tổ chức mít-tinh, diễu hành, động viên quần chúng, phát động thi đua sản xuất, thực hiện các phong trào cách mạng.

Các cơ quan Nhà nước, các nhà trường (kể cả học viện), các đơn vị vũ trang, các cửa khẩu biên giới, các cảng quốc tế phải có cột cờ và treo Quốc kỳ trước công sở, hoặc nơi trang trọng trước cửa cơ quan, Quốc kỳ phải đúng tiêu chuẩn về kích thước, màu sắc đã được Hiến pháp quy định.

Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam ảnh 5

Trụ sở Phủ Chủ tịch, trụ sở Quốc hội, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trụ sở Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán Việt Nam tại các nước, Cột cờ Hà Nội, trụ sở Ủy ban nhân dân các cấp (trừ Ủy ban nhân dân phường ở thành phố, thị xã), các cửa khẩu và cảng quốc tế treo Quốc kỳ 24/24 giờ hằng ngày.

Trụ sở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các đơn vị vũ trang, nhà trường treo Quốc kỳ từ 6 giờ đến 18 giờ hằng ngày.

Tất cả các cơ quan và đơn vị nói trên, đặc biệt là các cơ quan đối ngoại, khi có khách nước ngoài từ cấp Bộ trưởng trở lên đến thăm chính thức phải treo cờ quốc gia của khách cùng với Quốc kỳ…”

Dùng Quốc kỳ về việc tang:

“…Khi có quốc tang thì đính vào phía trên Quốc kỳ một dải vải đen, dài bằng chiều dài Quốc kỳ, rộng bằng 1 phần 10 chiều rộng Quốc kỳ.

Quốc kỳ để phủ lên linh cữu những người chết được Chính phủ quyết định làm lễ quốc tang. Những trường hợp khác được phủ Quốc kỳ lên linh cữu những người chết sẽ được quy định riêng…”

Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam ảnh 6

Ngoài ra, hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng quy định rõ việc sử dụng Quốc kỳ trong các trường hợp khác như: Treo Quốc kỳ Việt Nam với cờ các nước khác, treo cờ đối với tàu thuyền, Quốc kỳ trong trang trí buổi lễ, treo Quốc kỳ trong buổi lễ mừng thọ, treo Quốc kỳ trong khu vực lễ hội.

Hơn 70 năm trôi qua, trong chặng đường vẻ vang của dân tộc luôn có sự hiện diện của lá cờ đỏ sao vàng năm cánh như một biểu tượng thiêng liêng, trở thành niềm tin, thành ý chí, thành nguồn động lực có sức mạnh vô biên đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn để giành thắng lợi và trở thành niềm tự hào của dân tộc sánh vai cùng bạn bè quốc tế.

Ngày 7/5/1954, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm của tướng Đờ Cát xác nhận sự toàn thắng của quân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Vào 11 giờ 30 ngày 30/4/1975, lá cờ ấy lại phấp phới tung bay trên nóc Dinh Độc Lập khẳng định sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền nam.

Ngày 2/7/1976, Quốc hội Việt Nam thống nhất đã thông qua Nghị quyết, “Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”.

Ngày nay, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong những ngày lễ trọng đại của dân tộc, trong những sự kiện quan trọng của đất nước, trên các đường phố, nhà nhà trong mỗi dịp lễ, Tết,… Lá cờ đỏ sao vàng mãi tung bay thể hiện cho sự tự do, độc lập, toàn vẹn của đất nước cũng như sự đoàn kết một nhà của toàn thể dân tộc ta.

Cờ đỏ sao vàng – biểu tượng thiêng liêng đặc biệt của dân tộc Việt Nam ảnh 7

Chú thích:

1. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXBCTQG, H, 2000, tr150.

2. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 2, Hồ sơ 15, tờ 62.

3. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, Mục lục 2, Hồ sơ 15, tờ 62.

4. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Quốc hội, Hồ sơ 04, tờ 25.

* Nguồn tư liệu bài viết: “CỜ ĐỎ SAO VÀNG – Biểu tượng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam” – Trung tâm Lưu trữ quốc gia III; Hướng dẫn số 3420 /HD-BVHTTDL ngày 2/10/2012 về việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành.