Chuyên đề 2023 về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước
Chuyên đề 2023 về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước”
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam, Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách vô cùng quý giá; là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Hệ thống các quan điểm về văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh những giá trị văn hóa đông, tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế; là nhân cách, bản lĩnh văn hóa của một nhà văn hóa kiệt xuất; là sự vận dụng sáng tạo những lý luận về văn hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin. Người luôn coi văn hoá, con người là điều kiện đầu tiên để xã hội tồn tại và phát triển, sức mạnh vô hạn để hoàn thành mọi nhiệm vụ, khắc phục mọi khó khăn, đánh thắng mọi kẻ thù. Văn hoá và con người vừa là mục tiêu, động lực quan trọng nhất trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện Kế hoạch số 75-KH/TU, ngày 17/9/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Kế hoạch số 183-KH/TU, ngày 30/01/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về triển khai thực hiện chuyên đề năm 2023; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên soạn và phát hành tài liệu chuyên đề năm 2023: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước. Tài liệu cung cấp những nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về xây dựng văn hoá, con người; một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về xây dựng văn hóa, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước giúp cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và Nhân dân nhận thức rõ hơn, từ đó vận dụng vào thực tiễn quá trình công tác, lao động, sản xuất, học tập… ngày càng tốt hơn. Nội dung chuyên đề gồm 03 phần: Phần thứ nhất: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hoá, con người. Phần thứ hai: Quan điểm của Đảng ta về xây dựng văn hoá, con người trong giai đoạn hiện nay. Phần thứ ba: Vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng văn hóa, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Page Content
Phần thứ nhất
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và yêu cầu xây dựng nền văn hoá mới
1. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa
Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa lâu đời với lịch sử hàng nghìn năm văn hiến; là nơi sinh ra nhiều danh nhân văn hóa. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà văn hóa vĩ đại nhất của Việt Nam trong thời đại ngày nay. Người là danh nhân văn hóa thế giới, có tầm ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với sự phát triển của văn hóa dân tộc, mà còn đối với sự phát triển của nền văn hóa thế giới, văn hóa nhân loại. Trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm về văn hóa, con người là viên ngọc sáng lấp lánh, có vị trí quan trọng, hàm chứa những giá trị to lớn đối với sự phát triển và nâng tầm của nền văn hóa Việt Nam.
Với những cống hiến xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ thế giới; năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết 24C/18.6.5 về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Người với tư cách là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam” vào năm 1990.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra khái niệm văn hóa, quan điểm xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người đúc kết nội hàm khái niệm văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Khái niệm văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu, đã khái quát nội dung về văn hóa, bao hàm các hoạt động vật chất và tinh thần của con người; đồng thời, chỉ ra nhu cầu của con người với tư cách chủ thể của đời sống xã hội chính là nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa.
Văn hóa là mục tiêu của cách mạng. Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Như vậy, văn hóa là một mục tiêu của cách mạng. Đó là quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của Nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Là một xã hội: dân là chủ và dân làm chủ, công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân luôn được quan tâm, nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Văn hóa là động lực của cách mạng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh động lực phát triển đất nước, bao gồm: động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể nhận thức ở nhiều phương diện, như:
Văn hóa chính trị là động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư duy biện chứng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên là một động lực lớn dẫn đến tư tưởng và hành động cách mạng có chất lượng khoa học và cách mạng.
Văn hóa, văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi của cách mạng.
Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật phát triển của xã hội. Với sứ mệnh trồng người, văn hóa giáo dục đào tạo con người mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
Văn hóa đạo đức, pháp luật nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ; bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
Văn hóa là một mặt trận. Văn hóa là một trong bốn nội dung chính của đời sống kinh tế – xã hội, quan trọng ngang các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Nói mặt trận văn hóa là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa.
Mặt trận văn hóa là đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống… của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặc biệt là định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật.
Văn hóa phục vụ quần chúng Nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh là vì Nhân dân; tư tưởng văn hóa của Người phản ánh khát vọng hạnh phúc của Nhân dân, phục vụ Nhân dân. Theo Người, hoạt động văn hóa phải trở về với cuộc sống của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng của quần chúng.
2. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác
Về vị trí, vai trò của văn hóa. Theo Bác, văn hóa đứng ngang hàng với các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Người chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác: Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm trong văn hóa. Đời sống xã hội được xây dựng, kết cấu từ bốn lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lĩnh vực văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong chính trị; chỉ khi chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng; chính trị mở đường cho văn hóa phát triển, để văn hóa phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy… dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị tức là tham gia vào các hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cách mạng trên lĩnh vực văn hóa là một nhiệm vụ rất quan trọng. Phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay Nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa. Mặt trận văn hóa, văn nghệ còn đấu tranh chống giặc nội xâm, chủ nghĩa cá nhân với những biểu hiện như tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, lười biếng, quan liêu,… Vì thế, mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thể hiện càng sâu sắc hơn, hai lĩnh vực phải được tiến hành cùng lúc, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Đối với quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, Người chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”. Theo Bác kinh tế là cơ sở hạ tầng của văn hóa; kinh tế phải đi trước một bước, phải chú trọng xây dựng kinh tế, để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa.
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, vì thế phải dựa trên sự phát triển của cơ sở hạ tầng của xã hội thì mới có đủ điều kiện để phát triển văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trình độ văn hóa của Nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của Nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Quan điểm này của Người khẳng định rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là động lực của kinh tế và chính trị, vì thế văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại: Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là thành quả của quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam. Về nội dung, bản sắc văn hóa Việt Nam là lòng yêu nước, thương nòi; tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc. Về hình thức, là cốt cách văn hóa dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống, cách cảm và nghĩ,… Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
3. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Người đã khẳng định: Văn hóa là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi; đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ,… Văn hóa tạo sức mạnh vật chất, tinh thần thắng ngoại xâm theo tinh thần văn minh thắng bạo tàn. Nếu kinh tế nâng cao đời sống vật chất, thì văn hóa có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân.
Người đưa ra quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới với 5 điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“(1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
(2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
(3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của Nhân dân trong xã hội.
(4) Xây dựng chính trị: dân quyền.
(5) Xây dựng kinh tế”.
Theo Người, để xóa bỏ văn hóa nô dịch của chủ nghĩa thực dân, thì phải xây dựng một nền văn hóa mới cách mạng. Nền văn hóa mới đó phát triển với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng và được xây dựng trên một số lĩnh vực cụ thể, đó là:
Một là, về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, việc xây dựng nền giáo dục mới phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài, có tác dụng “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Do đó, điều quan trọng trước tiên ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập là phải mở ngay chiến dịch chống giặc dốt. Người xác định mục tiêu của giáo dục là thực hiện ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục: dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp… Đây chính là định hướng cho việc xây dựng nền giáo dục mới phát triển đúng đắn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, về văn hóa – văn nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm, định hướng cho việc xây dựng nền văn nghệ cách mạng: “Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, người hoạt động văn hóa, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng”; “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân… Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết”. Đây là sự khẳng định của Người về vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng.
Ba là, về đạo đức, lối sống, nếp sống mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, để xây dựng đời sống mới, phải xây dựng đạo đức mới, xây dựng nếp sống mới, văn minh. Trước hết cần “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần Nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính” vì “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”. Xây dựng nếp sống mới là quá trình làm cho lối sống mới dần trở thành thói quen; có sự kế thừa, phát triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời cải tạo những phong tục, tập quán cũ, lạc hậu và bổ sung những cái mới, tiến bộ,…
Về giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Người đặt ra vấn đề quan trọng hàng đầu là: Dân ta phải biết sử ta “Lịch sử nước ta” (năm 1942). Những ngày đầu mới lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23/11/1945 về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam (bao gồm tất cả các di tích đình chùa, đền miếu, cung điện, thành quách, lăng mộ, bia ký, đồ vật, văn bằng, sách vở,…). Theo Người, việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam.
Năm 1946, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất ở Hà Nội (ngày 24/11/1946), Người nói: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại… Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ” và “Phát triển hết cái hay, cái đẹp của dân tộc, tức là ta cùng đi tới chỗ nhân loại”.
Theo Người, việc kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; hai quá trình này cùng diễn ra, làm cho nền văn hóa mới ở Việt Nam vừa mang những đặc trưng phản ánh cốt cách, bản sắc và truyền thống văn hóa Việt Nam, vừa phù hợp với trình độ văn minh tiên tiến, hiện đại của nhân loại. Hơn nữa, cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc khi được phát triển, phát huy hết mức sẽ đạt đến tầm cao nhân loại, trở thành giá trị chung của nhân loại.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc có chọn lọc của Hồ Chí Minh. Phát huy, phát triển văn hóa dân tộc phải dựa trên cơ sở giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định quan điểm: gốc của văn hóa là dân tộc; không có cái gốc ấy thì không thể tiếp thu được tinh hoa của các nước mà cũng không đóng góp được gì cho văn hóa nhân loại. Ngày 19/9/1954, trên đường từ Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội, tới Phong Châu kính viếng các Vua Hùng, nói chuyện với đồng bào, chiến sĩ tại đền Giếng, Người căn dặn: Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Câu nói bất hủ của Người khái quát hai phạm trù dựng nước và giữ nước thành một cặp phạm trù tất yếu của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Đối với vấn đề lễ hội ở các di tích. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ý kiến chỉ đạo có ý nghĩa phương pháp luận: “Nói là khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt, cái gì không tốt thì loại dần ra… Cái gì tốt, thì ta nên khôi phục và phát triển, còn cái xấu thì ta phải bỏ đi”. Quan điểm này của Người cho thấy tính khoa học, trân trọng tinh hoa thuần phong mỹ tục đối với lễ hội, không phục cổ mà nâng lên cho phù hợp nếp sống mới, văn hóa mới…
Những quan điểm, tư tưởng của Người về văn hóa và phát triển nâng tầm văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, mà còn có giá trị sâu sắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng của Người là cơ sở, nền tảng cho Đảng ta xây dựng đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay, với các định hướng cơ bản như: xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người trong thời kỳ mới.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và yêu cầu xây dựng con người
1. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Tất cả toát lên tình yêu vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin tuyệt đối vào con người. Trong bản Di chúc, Bác đã căn dặn Đảng ta: Ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi thì đầu tiên là công việc đối với con người. Mục tiêu phấn đấu của cuộc cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, vì vậy muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa vừa là sản phẩm của quá trình xây dựng xã hội mới, vừa là kết quả của hoạt động tích cực, chủ động của hàng triệu người trong xã hội.
Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc điểm con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử, những cấu trúc kinh tế, xã hội cụ thể. Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt con người.
2. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng có nội dung rộng lớn, sâu sắc và luôn luôn mới, đầy sáng tạo. Tư tưởng ấy giúp chúng ta tìm thấy sức mạnh trong công việc của mình, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, nếu biết phát huy nhân tố con người thì nhất định sẽ thành công.
Một trong những điểm nổi bật là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Theo Người, sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh…, xét đến cùng, là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Song song với đó, con người là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội; họ là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Theo Bác, con người là vốn quý nhất, là động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng vì mọi việc đều do người làm ra, trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của Nhân dân, dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị – xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến Nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, là động lực cách mạng.
Bên cạnh đó Người còn chỉ rõ phải làm gì, làm như thế nào để phát huy được nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng; có thể khái quát ở mấy điểm chính sau:
Thứ nhất, muốn phát huy sức mạnh của con người, Đảng, chính quyền, mỗi cá nhân phải có lòng thương yêu vô hạn, sự cảm thông, sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên “trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của Nhân dân là vô cùng vô tận”. “Việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Người cũng nhấn mạnh: nếu không tin dân thì dân cũng không tin Đảng, Chính phủ. Nếu dân chúng không tin Đảng, Chính phủ thì biết, họ cũng không nói; nói, họ cũng không nói hết lời. Vì vậy, “đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên”.
Thứ hai, để phát huy sức mạnh của con người, Đảng, Chính phủ phải hoạch định, xác lập một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của quốc gia, dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
Thứ ba, muốn phát huy được sức mạnh của con người thì phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của con người, các quyền, lợi ích hợp pháp của con người phải được bảo vệ và ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật (Hiến pháp 1946 đã phản ánh và quy định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của con người).
Theo Người: Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó có quan hệ rất chặt với nhau; có dân chủ mới làm cho cán bộ, quần chúng đề ra sáng kiến; vì thế phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, tuyệt đối không được lên mặt quan cách mạng ra lệnh, ra oai với Nhân dân. Dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn; phát huy dân chủ phải kết hợp với tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước phải tiếp tục thể chế hóa bằng các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Thứ tư, Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Có thể thấy, vai trò của giáo dục, đào tạo rất quan trọng, là tiền đề cho việc phát huy sức mạnh của con người.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa có thể được hoàn thiện trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế – xã hội, nhưng phải có điều kiện. Một trong những điều kiện đó là thực hiện tốt công tác giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo người lao động trẻ có trình độ khoa học – kỹ thuật cao, có phẩm chất chính trị, văn hóa pháp luật, có ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, có phong cách và phương pháp làm việc khoa học…“Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất” .
Vấn đề phát huy nhân tố con người được Hồ Chí Minh đề cập với nội dung sâu sắc và toàn diện, đầy tính cách mạng và khoa học. Không chỉ đánh giá cao vị trí, vai trò của con người, thấy được tính tất yếu của vấn đề phát huy nhân tố con người, Hồ Chí Minh còn xây dựng được một hệ thống các giải pháp toàn diện, coi việc thực hiện đúng đắn các giải pháp đó là khâu then chốt, quyết định thành công.
3. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, là vấn đề chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Người khẳng định: Trồng người phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ trồng người phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc trồng người là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
Nội dung xây dựng con người toàn diện, vừa hồng vừa chuyên. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện bao gồm:
– Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình.
– Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
– Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
– Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ. Xây dựng con người phải bằng những phương pháp khoa học, cách mạng. Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến tu thân, chính tâm thì mới có thể trị quốc, bình thiên hạ; lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vai trò quan trọng trong xây dựng con người, Bác đã nhắc nhở hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên. Người rất chú trọng vai trò của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể; thông qua các phong trào cách mạng như Thi đua yêu nước, Người tốt việc tốt. Đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Phần thứ hai
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI
Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.
I. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc. Năm 1943, Đảng ta đã đề ra “Đề cương văn hóa Việt Nam”, trong đó chỉ rõ “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)”, và chủ trương phát triển văn hóa theo ba hướng: Dân tộc – Khoa học – Đại chúng. Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp Nhân dân phát huy vai trò của văn hóa, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á – năm 1945.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, văn hóa Việt Nam đã thực sự trở thành động lực tinh thần để huy động tất cả mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu – năm 1954.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cả nước tập trung vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất nước nhà; Đảng ta đã thường xuyên quan tâm đến công tác văn hóa, động viên và cổ vũ đội ngũ văn nghệ sĩ và những lực lượng làm công tác văn hóa phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới.
Trong suốt thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1975, Đảng ta lãnh đạo phát huy vai trò của văn hóa Việt Nam, góp phần thực hiện nhiệm vụ vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, huy động được các binh chủng, các lực lượng làm công tác văn hóa của toàn dân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giành Đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối. Lời kêu gọi thiết tha, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do !; Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi! đã trở thành lẽ sống thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là hồn cốt thiêng liêng của văn hóa Việt Nam.
Từ năm 1975 đến năm 1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, đất nước ta phải khắc phục hàng loạt những hậu quả của chiến tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh tế, văn hóa, giáo dục bị tàn phá; thống nhất về thể chế và thiết chế văn hóa trên phạm vi cả nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Riêng về lĩnh vực văn hóa, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị rất quan trọng để tập trung xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã đạt được về lĩnh vực văn hóa những năm đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã chọn 8 lĩnh vực để tập trung chỉ đạo, trong đó quan trọng nhất là vấn đề xây dựng con người với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng; trong đó nêu rõ: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Đến năm 2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nêu; đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số vấn đề mới, khẳng định mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ của văn hóa. Về mục tiêu chung, Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn hóa phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta nhấn mạnh, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; làm rõ đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; nhấn mạnh trọng tâm của việc xây dựng văn hóa là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp… Đồng thời, xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường văn hóa. Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Như vậy, chúng ta thấy rằng, cùng với việc làm tốt công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh thì thực hiện hiệu quả định hướng phát triển văn hóa của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển chung của đất nước. Theo đó, cần nhận thức một cách thống nhất rằng: Còn văn hóa là còn tất cả. Mất văn hóa là mất tất cả.
Ngày 24/11/2021, tại Thủ đô Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng, tiếp tục khẳng định, quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng về phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Tại Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu rất quan trọng, khẳng định những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới; chĩ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân; chỉ đạo tập trung thực hiện thật tốt, quyết liệt, đồng bộ 06 nhiệm vụ trọng tâm và 04 giải pháp quan trọng để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam từ nay cho đến năm 2045.
Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Văn hóa còn thì chế độ còn, văn hóa mất thì chế độ mất; không gì đáng sợ bằng văn hóa lâm nguy. Phát triển nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
II. Quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: Nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chú trọng đến quyền làm chủ của nhân dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”. Với quan điểm này, mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi dưỡng phát huy nhân tố con người.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, Nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Cương lĩnh chỉ rõ: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” .
Đại hội Đảng lần thứ VII đã xác định đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người – động lực trực tiếp của sự phát triển. Tại Hội nghị lần thứ 4 khoá VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta… Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và trong đời sống”. Những nội dung trong quan điểm này xét đến cùng là vì cuộc sống hạnh phúc của mỗi con người mà Đảng ta luôn quan tâm, là sự thể hiện tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong hiện thực cuộc sống.
Đại hội Đảng lần thứ VIII, tư tưởng chủ đạo của chiến lược con người là thực hiện: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” . Vấn đề con người và chiến lược con người được Đại hội cụ thể hoá thành các chính sách nhằm phát huy nguồn lực con người và thực hiện công bằng xã hội. Mục đích cao nhất nhằm phát triển trí tuệ của người Việt Nam, nguồn vốn quyết định nhất, quý giá nhất trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khi công cuộc đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu và phải giải quyết những nhiệm vụ hết sức phức tạp, Đảng ta chủ trương “Khơi dậy trong Nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công nghệ” . Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng là lấy việc phát huy nhân tố con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội Đảng lần thứ XI nêu rõ mục tiêu tổng quát là: Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh Việt Nam tích cực, chủ động tham gia hội nhập quốc tế, với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng quyết liệt và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức đòi hỏi nước ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người.
Đại hội Đảng lần thứ XII đã nhấn mạnh nhân tố con người gắn với xây dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đôi biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hoá. Đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam: Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng khẳng định “nguồn lực con người là quan trọng nhất” ; đồng thời chủ trương: “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa… bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… thúc đẩy đổi mới sáng tạo”; “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế… thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” [1]. Tiếp đó, phát huy nhân tố con người được xem là một trong những đột phá chiến lược, điều đó thể hiện: “Phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao… phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”.
Để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cần từng bước khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Phần thứ ba
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI NINH THUẬN PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước trong giai đoạn hiện nay
Trong những năm qua, xác định rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Thuận, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cả hệ thống chính trị trong tỉnh đã quan tâm đến việc xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển; từ đó lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, triển khai thực hiện kịp thời, khá toàn diện.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015-2020 xác định: “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội. Trọng tâm là xây dựng nền văn hóa phát triển toàn diện và có nét đặc sắc riêng, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo, trí tuệ con người Ninh Thuận. Thực hiện Chiến lược phát triển gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hóa, các loại hình nghệ thuật truyền thống, dân gian, thuần phong, mỹ tục tốt đẹp trong Nhân dân” .
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020-2025 tiếp tục xác định mục tiêu: “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá các dân tộc; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân”. Nhiệm vụ trọng tâm bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, nâng chất lượng hoạt động văn học, nghệ thuật: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật cho người dân, nhất là thanh, thiếu niên. Xây dựng con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, có đạo đức, nhân cách và lối sống đẹp; phát huy ý chí, khát vọng phát triển trong thời kỳ mới. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa lịch sử, truyền thống, các nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng, nhất là văn hoá Raglai, Chăm; phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan” .
Để hiện thực hoá các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động 282-CTHĐ/TU ngày 16/9/2014 về thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI). Mục tiêu là phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền văn hóa và con người Ninh Thuận phát triển toàn diện; khẳng định và phát huy các giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam. Chú trọng các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Raglai, Chăm. Gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, làm cho văn hóa thấm sâu đời sống xã hội, là nền tảng tinh thần vững chắc, trở thành sức mạnh nội sinh phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày 25/10/2022, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 34-CT/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; với mục tiêu nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; khơi dậy khát vọng phát triển quê hương phồn thịnh, tạo ra sức mạnh tổng hợp trong toàn Đảng bộ, toàn dân và toàn quân, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, tạo bứt phá để xây dựng Ninh Thuận sớm trở thành tỉnh phát triển khá của khu vực và cả nước.
Để góp phần phòng, chống âm mưu của các thế lực thù địch, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 39-CT/TU về việc tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh khi tham gia mạng xã hội gắn với công tác bảo vệ bí mật Nhà nước; tập trung chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII, XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngay trong từng địa phương, cơ quan, đơn vị và mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Quan tâm đầu tư phát triển văn hóa, ngay từ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, quy hoạch, đầu tư cơ sở vật chất, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy: Truyền dạy đánh nhạc cụ Mã la, Khèn bầu, chế tác đàn Chapy, nghệ thuật làm gốm, dệt…; đặc biệt là đầu tư cho công tác trùng tu, tu bổ, tôn tạo di tích luôn được quan tâm triển khai thực hiện; liên kết phát triển văn hóa với việc phát triển du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đẩy mạnh thực hiện giáo dục chủ nghĩa yêu nước, đạo đức, lối sống, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, dân số – gia đình, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao, công tác giảm nghèo bền vững, phòng chống các tệ nạn xã hội…
Nhằm triển khai có hiệu quả các nghị quyết, quyết định, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ và Chỉ thị, Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển văn hoá; Ủy ban nhân dân tỉnh đã triển khai Kế hoạch 7116/KH-UBND về thực hiện chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh, với mục tiêu: Cùng cả nước xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại, yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động to lớn của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng… Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn. Có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, huy động nguồn lực để phát triển văn hóa, con người. Đồng thời, triển khai kế hoạch thực hiện Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030; kế hoạch thực hiện Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Qua đó, nhằm quảng bá giá trị văn hóa, truyền thống lịch sử văn hóa của vùng đất, con người Ninh Thuận đến với bạn bè trong nước và quốc tế; bảo tồn, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc trong tỉnh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của Ninh Thuận; thúc đẩy thương mại, du lịch, phát triển công nghiệp văn hóa… góp phần phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Nhận thức trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về xây dựng và phát triển văn hóa, con người gắn với phát triển kinh tế – xã hội ngày được nâng lên. Hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được quan tâm quản lý, đầu tư bảo tồn, giữ gìn và phát huy. Tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch có quy mô lớn cấp quốc gia, quốc tế. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, các điểm vui chơi giải trí, tiện ích đô thị từ tỉnh đến cơ sở được từng bước đầu tư xây dựng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được triển khai đồng bộ, đạt nhiều kết quả. Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội có nhiều chuyển biến tích cực. Dấu ấn về bản sắc đặc trưng của văn hóa, con người Ninh Thuận từng bước được gìn giữ, dần khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội.
II. Một số nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời gian tới
1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của việc xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển
Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong việc đẩy mạnh công tác quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa, con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, xác định rõ việc xây dựng và phát triển văn hoá, con người Ninh Thuận là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Từ đó tạo chuyển biến mạnh mẽ trong các hoạt động thực tiễn; xây dựng văn hóa và con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, với những đặc trưng riêng có, thực sự trở thành nguồn lực quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng tỉnh Ninh Thuận phát triển bền vững.
Tăng cường nghiên cứu, phổ biến, tuyên truyền và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Kết luận số 76-KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị; Chương trình hành động số 282-CTHĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW; Chỉ thị số 34-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; Kế hoạch 7116/KH-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
2. Xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, phấn đấu xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị trở thành tấm gương đạo đức trong xã hội
Chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; xem đây là nhân tố quan trọng để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với triển khai thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Quy định số 25-QĐ/TU, ngày 04/11/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong tình hình mới.
Chú trọng xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, cần khắc phục tư tưởng chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm đến văn hóa; quán triệt nghiêm túc quan điểm của Đảng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức, vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa, con người vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị và thực tiễn đời sống xã hội.
3. Tập trung xây dựng con người Ninh Thuận
Tập trung xây dựng con người Ninh Thuận từng bước hoàn thiện về đức – trí – thể – mỹ. Tổ chức rà soát, nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định về giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức con người Ninh Thuận trên nền tảng giá trị văn hóa con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Xây dựng các tiêu chuẩn về nhân cách, đạo đức, lối sống: Có tinh thần yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, phấn đấu vì lợi ích chung; có lối sống lành mạnh, trọng nghĩa, trọng tình, cần cù, trung thực, đoàn kết, sáng tạo, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, tự trọng, tự chủ, hiểu biết sâu sắc, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa của quê hương, dân tộc; xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật, tôn trọng đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Tương thân tương ái”.
Khẳng định, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn; tăng cường thể lực, tầm vóc, thẩm mỹ, nâng cao dân trí, tích cực bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm; chấn chỉnh kịp thời việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để truyền bá tư tưởng duy tâm thần bí, thực hành mê tín dị đoan, gây mất an ninh trật tự. Đấu tranh đẩy lùi cái xấu, cái ác, sự lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của người Ninh Thuận; gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”
Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, tân gia, mừng thọ, lễ hội…
Thực hiện tốt cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đề cao vai trò, trách nhiệm và các giá trị văn hoá tốt đẹp của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi, cùng với nhà trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức trong sáng và kỹ năng ứng xử xã hội văn minh.
5. Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa.
Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của cộng đồng các dân tộc trong tỉnh; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa quê hương.
Tăng cường tổ chức, đăng cai các hoạt động, sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch với quy mô quốc gia và quốc tế; phát huy các di sản văn hóa đã được UNESCO, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận, vinh danh, góp phần quảng bá hình ảnh và con người Ninh Thuận đến với bạn bè trong nước và quốc tế.
Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ ở cơ sở, đảm bảo sự công bằng trong hưởng thụ văn hóa của mọi người dân; nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa nông thôn, văn hóa trong các cơ quan, đơn vị; quan tâm chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho đội ngũ công nhân, người lao động trong các khu, cụm công nghiệp.
6. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hoá
Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hoá nhằm tăng cường giới thiệu, tuyên truyền, quảng bá về những giá trị văn hoá truyền thống, về hình ảnh vùng đất, con người Ninh Thuận với bạn bè trong nước, quốc tế. Tăng cường đổi mới nội dung, hình thức quảng bá hình ảnh, các giá trị văn hoá, vùng đất, con người Ninh Thuận, tiềm năng phát triển du lịch, các giá trị di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh thông qua các chương trình, sự kiện, lễ hội văn hóa, biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động xúc tiến thương mại du lịch trong tỉnh, trong nước và quốc tế.
7. Quan tâm đầu tư phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị; phù hợp với phong tục tập quán các địa phương
Tăng cường đầu tư và huy động các nguồn lực để xây dựng các thiết chế văn hoá, thể thao mang tầm cỡ quốc gia, quốc tế; ưu tiên nguồn lực đầu tư các thiết chế theo quy hoạch được duyệt; có cơ chế khuyến khích huy động các nguồn lực của doanh nghiệp, cộng đồng xã hội tham gia giữ gìn, tôn tạo và phát huy giá trị của các thiết chế văn hoá, thể thao nhằm phục vụ Nhân dân và du khách.
Tập trung nguồn lực xây dựng các điểm du lịch có tài nguyên du lịch văn hoá hấp dẫn gắn với các di tích tiêu biểu của tỉnh. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông công cộng đến các điểm di tích, điểm du lịch; khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, các công trình vui chơi giải trí, các nhà nghỉ, khách sạn bảo đảm tiêu chuẩn tại các khu, điểm du lịch trọng điểm của tỉnh.
8. Thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng
Các cấp uỷ, tổ chức Đảng tăng cường chỉ đạo quán triệt, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đồng bộ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng ta về phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam nhằm khơi dậy khát vọng phát triển quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, Kết luận 01-KL/TW của Bộ Chính trị và các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển.
Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, báo chí và Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy định nêu gương; xử lý kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá sơ kết, tổng kết; kịp thời tuyên truyền, nhân rộng, biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong quá trình thực hiện công tác xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước.
Kết luận
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước là một nội dung quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và Nhân dân trong tỉnh; từ đó vận dụng vào quá trình công tác, làm việc, lao động, học tập; xây dựng văn hóa công sở tại các cơ quan, đơn vị; chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức, tạo niềm tin và lan tỏa mạnh mẽ trong Nhân dân.
Để thực hiện tốt chuyên đề năm 2023: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước; các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội từ tỉnh đến cơ sở cần phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện hiệu quả, thiết thực đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Gắn việc thực hiện chuyên đề với tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, các phong trào thi đua yêu nước, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị nhằm tạo sự chuyển biến tích cực và làm lan tỏa ý nghĩa, giá trị cao đẹp của việc học tập và làm theo Bác, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
Kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết, sáng tạo và ý chí khát vọng vươn lên; mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân cần phát huy cao độ ý thức trách nhiệm, đẩy mạnh học tập và làm theo Bác bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; góp phần tích cực xây dựng văn hoá, con người Ninh Thuận phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững quê hương, đất nước.