Chương 4: Phương pháp giáo dục – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.61 KB, 64 trang )

Thuyết phục là phương pháp thu phục nhân tâm giúp con người nhận ra cái chân thiện

mỹ để sống và hành động theo lẽ phải. Nhóm phương pháp thuyết phục thực hiện hai

chức năng :

– Đưa lý luận vào trong ý thức người học sinh, làm cho học sinh hiểu đầy đủ, sâu sắc

nội dung các khái niệm, phạm trù, chuẩn mực đạo đức,

– Giúp học sinh so sánh, đối chiếu những kinh nghiệm trong thực tế cụôc sống của họ

với những chuẩn mực, những giá trị của xã hội từ đó hình thành niềm tin, tình cảm đạo

đức cho họ.

Có các phương pháp thuyết phục sau :

a. Phương pháp diễn giảng đạo đức

Diễn giảng là phương pháp nhà giáo dục trình bày một cách có hệ thống, tương đối

hoàn chỉnh bản chất của một vấn đề giáo dục, nhằm trang bị cho học sinh một hệ

thống tri thức đạo đức (các khái niệm, phạm trù, chuẩn mục đạo đức) để làm cho học

sinh từ chỗ chưa biết đến biết và biết một cách rõ ràng, sâu sắc hơn.

Phương pháp diễn giảng đạo dức thường sự dụng khi dạy một khái niệm, một phạm

trù, một chuản mực mới, chẳng hạn dạy môn giáo dục công dân ở bậc tiểu học, phổ

thông cơ sở…Diễn giảng đạo đức từ trước đến nay vốn đã là một vấn đề rất khô khan

thì ngày nay, khi mà xã hội ngày một phát triển, sự hội nhập mở rộng, các phương tiện

kỹ thuật, thông tin đại chúng đa dạng phong phú, học sinh có vốn hiểu biết khá rộng,

song kiến thức chuyên môn còn có chỗ chưa đầy đủ, chưa chính xác, nhất là các vấn

đề về nhân sinh quan, về đạo đức thì phương pháp diễn giảng đạo đức lại càng khó

khăn hơn nhiều.

Vì vậy để phương pháp diễn giảng đạo đức đạt hiệu quả thì cần đảm bảo các yêu cầu

sau :

– Giáo viên phải chuẩn bị trước nội dung diễn giảng thật cận thận, chu đáo, lượng

thông tin phải cô đọng, súc tích, cấu trúc nội dung phải chặt chẽ, có hệ thống, các luận

cứ, ví dụ đưa ra phải chính xác, hấp dẫn, có tính thuyết phục cao.

– Giáo viên phải biểu lộ tình cảm chân thành, thái độ rõ rệt khi diễn giảng để lan

truyền cảm xúc cho người nghe. Phải tạo được sự đồng cảm về tâm hồn với học sinh

– Phải dựa vào trình độ, kinh nghiệm thực tế của học sinh khi diễn giảng

b. Phương pháp khuyên giải

Khuyên giải là phương pháp gặp gỡ, trò chuyện, tâm tình riêng giữa nhà GD với đối

tượng cần GD để khuyên răn những điều hay lẻ phải, làm rõ những khái niệm đạo đức,

nội dung, nguyên tắc, chuẩn mực XH… giúp họ nhận thức đúng, từ đó mà hành động

đúng.

Để phương pháp đạt hiểu quả thì cần đảm bảo các yêu cầu sau :

– Sự khuyên giải phải xuất phát từ tình cảm chân thành, bằng mối quan hệ tốt đẹp giữa

thầy cô giáo với học sinh, giữa cha mẹ với con cái để cảm hoá họ, giúp họ nhận thức

đúng những gía trị đạo đức, điều chỉnh lại những nhận thức sai lầm, sữa chữa những

hành vi lệch lạc, từ đó hành động theo lẽ phải .

– Nhà GD phải hiểu rõ đặc điểm, tâm tư tình cảm của đối tượng GD, biết cách tiếp cận

đối tượng, phải tế nhị dẫn dắt câu chuyện theo mục đích.

– Nhà GD phải gương mẫu và tạo được uy tín với đối tượng GD

c. Phương pháp tranh luận

Là phương pháp nhà GD tổ chức cho học sinh đối thoại, cọ xát các ý kiến, quan

điểm khác nhau để tìm ra lời giải đáp cho một tình huống, một sự kiện, một vấn đề

trong đời sống thực tiễn để từ đó mà khẳng định, hình thành một quan điểm, hoặc xoá

đi một nhận thức sai lầm đã ăn sâu vào tiềm thức con người.

Trong tranh luận các bên đều cởi mở, cùng nêu ra quan điểm, những vướng mắc để

cùng nhau phân tích đi đến lẽ phải. Tranh luận là phương pháp phù hợp với đặc điểm

lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi đã có những cơ sở lý luận cần thiết về thế giới quan, nhân

sinh quan. Trong khi tranh luận học sinh phải huy động toàn bộ những tri thức của

mình không chỉ về vấn đề đó mà cả những vấn đề liên quan đến nó để bảo vệ những

quan điểm, chính kiến của mình bằng những lập luận chặt chẽ, chứng cứ rõ ràng, đồng

thời cũng phải phát hiện ra những điểm yếu trong những phán đoán, kết luận của đối

phương.

Để phương pháp có hiệu quả cần đảm bảo các yêu cầu sau :

-Vấn đề tranh luận phải có ý nghĩa thiết yếu đối với cuộc sống, có ý nghĩa xã hội, thực

sự làm cho các em băn khoăn suy nghĩ, có nhu cầ muốn tìm ra chân lý

– Giáo viên và cả học sinh phải có sự chuẩn bị trước về vấn đề tranh luận để khỏi đi lạc

hướng

– Khi tranh luận phải phát huy được tính chất tự do thoã mãn để học sinh nêu lên quan

điểm, tư tưởng, tình cảm của mình. Giáo viên phải tôn trọng, không can thiệp thô bạo,

vội vã phê phán quy kết những sai lầm của học sinh, không quyết đoán bắt học sinh

phải chấp nhận những quan điểm của mình làm cho học sinh mất hào hứng

– Giáo viên phái biết dẫn dắt khéo léo để định hướng vấn đề vào trọng tâm và bổ sung

khi cần thiết, phải có thái độ chia sẽ, đồng cảm hoặc nghiêm khắc phê bình trong khi

tranh luận

– Kết thúc tranh luận, giáo viên phải tổng kết nêu rõ những quan điểm, giải pháp, đưa

ra những kết luận đúng đắn để định hướng hành động cho học sinh

d . Phương pháp nêu gương

Thuyết phục học sinh có thể bằng lời nói, bằng tình cảm, nhưng cũng có thể bằng

những tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, gương mẫu mực của chính người giáo

viên.

Phương pháp nêu gương là phương pháp dùng những tấm gương mẫu mực, tiêu biểu,

cụ thể, sống động để kích thích học sinh bắt chước, noi theo .

Cơ chế tâm lý của phương pháp này là sự bắt chước. Học sinh đang ở giai đoạn phát

triển tâm lý đặc biệt, rất quan tâm đến những người xung quanh, theo dõi những hành

động của họ trong cuộc sống, trước hết là của người lớn, của các nhà giáo dục, các

thầy cô giáo. Tuổi trẻ thường suy tôn những nhân vật dũng cảm, tài trí, những hình ảnh

đẹp trong cuộc sống, coi đó là những tấm gương lý tưởng và sẵn sàng noi theo. Trước

hết bản thân nhà giáo dục phải là tấm gương sáng thể hiện trong nhận thức, trong cuộc

sống, tình cảm, trong hành vi ứng xử, trong mối quan hệ gia đình, tập thể và xã hội

cho học sinh noi theo. Sự gương mẫu của nhà giáo dục tạo nên sự kính trọng, dẫn đến

sự bắt chước của học sinh.

Phải cho học sinh tiếp cận nhiều với những tấm gương sáng trong lao động sản xuất,

trong học tập, trong tự tu dưỡng, trong các hoạt động xã hội bằng những con người

thực, việc thực để tạo cho các em những xúc cảm, rung động, tạo nên những tình cảm

tốt đẹp, từ đó các em sẽ bắt chước noi theo.

2.2. Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn

a. Phương pháp tạo dư luận xã hội

Là PP dùng những lời bàn tán, khen chê trực tiếp hay gián tiếp, phản ánh những yêu

cầu, đòi hỏi của tập thể đối với hành vi hành động của cá nhân buộc họ phải điều chỉnh

cho phù hợp với các chuẩn mực XH.

Hình thức biểu thị dư luận xã hội có thể trực tiếp qua các lời phát biểu, góp ý xây dựng

trong các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt tập thể hoặc gián tiếp thông qua các quyết định

khen thưởng hay kỷ luật đã được tập thể nhất trí, hoặc thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng.

Sức mạnh của dư luận xã hội (theo nghĩa rộng) của tập thể (theo nghĩa hẹp) phụ thuộc

rất nhiều vào tính nguyên tắc, tính công bằng, tính chính xác (có luận cứ) tính thống

nhất của các phán đoán của tập thể, tính sắc sảo, rõ ràng, chân thực (không bôi đen, tô

hồng) của những lời phát biểu thì mới có ý nghĩa tích cực làm cho cá nhân nhận thức

đúng mà điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội.

Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :

– Tổ chức thường xuyên và lôi cuốn học sinh tham gia vào các buổi sinh hoạt tập thể

để thảo luận, đánh giá về các sự kiện, các hiện tượng tiêu biểu xẩy ra ở trong lớp,

trong trường.

– Tránh hiện tượng bao che dung túng, chia bè cánh tạo dư luận không chính đáng làm

ảnh hưởng xấu đến cá nhân

– Cần xây dựng một tập thể lớp vững mạnh, củng cố tổ chức đoàn, đội, chi hội để phát

huy vai trò to lớn của dư luận tập thể

b. Phương pháp giao công việc

Là phương pháp tổ chức, lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động đa dạng và

giao cho họ những nhiệm vụ, những công việc và yêu cầu họ phải thực hiện hoàn

thành, qua đó mà bồi dưỡng năng lực chung và năng lực riêng biệt cho cá nhân, đồng

thời giúp họ tích luỹ được những kinh nghiệm trong quan hệ ứng xử giữa người với

người theo những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội.

Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :

– Trước khi giao công việc phải làm cho học sinh ý thức được ý nghĩa xã hội của công

việc được giao để họ có thái độ tích cực, có nghĩa vụ hoàn thành công việc đó

– Nên giao những công việc phù hợp với khuynh hướng và hứng thú của học sinh để

tạo điều kiện cho học sinh phát huy năng lực, sở trường của mình. Đồng thời cũng nên

giao những công việc mà học sinh không ham thích nếu đó là công việc có ích cho

bản thân, tập thể và xã hội.

– Giao công việc phải vừa sức học sinh, đòi hỏi sự nổ lực cố gắng nhất định của bản

thân cá nhân, không giao công việc quá khả năng của các em.

– Mọi công việc khi giao phải nêu rõ mục đích, yêu cầu phải đạt được với học sinh

– Cần phải đánh giá kết quả công việc. Khi đánh giá thì dựa vào kết quả đạt được là

chủ yếu nhưng cũng cần phải xem xét đến ý thức, trách nhiệm, tinh thần cố gắng trong

điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để động viên các em.

c. Phương pháp tạo tình huống giáo dục

Là phương pháp giáo viên tạo ra các tình huống có mục đích giáo dục định trước

nhằm làm cho học sinh bộc lộ ra những quan điểm, tình cảm, động cơ, hành vi của

mình, từ đó nhà giáo dục phát hiện ra những thiếu sót, lệch lạc cần uốn nắn hoặc

những mặt tích cực cần khích lệ các em

Thực hiện quá trình giáo dục thực chất là giải quyết các tình huống trong đời sống

hiện thực của học sinh. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày đều chứa

đựng những mâu thuẫn đơn giản hay phức tạp. Sự đấu tranh thống nhất mâu thuẫn là

quy luật phát triển của cá nhân. Mâu thuẫn chứa đựng trong tình huống vô cùng đa

dạng, phong phú có thể biểu hiện giữa lợi ích cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với tập

thể nhóm, tập thể lớp, giữa nhu cầu, hứng thú với năng lực của cá nhân…

Khi tạo tình huống giáo dục, nhà giáo dục đã đặt học sinh vào hoàn cảnh có vấn đề,

buộc họ phải suy nghĩ, đấu tranh động cơ, lựa chọn các hành vi, hành động của mình

phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức để hoàn thành nhiệm vụ, từ đó nhà

giáo dục hiểu được bản chất của đối tượng giáo dục mà lựa chọn các phương pháp

giáo dục cho phù hợp

Các tình huống giáo dục có thể tạo ra trong bất cứ loại hình hoạt động nào của học

sinh: vui chơi, học tập, lao động, công tác xã hội…theo mục đích định trước của giáo

viên

Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :

– Tình huống giáo dục phải thật tự nhiên để học sinh không biết được đó là sự bố trí,

sắp xếp của giáo viên, từ đó họ mới bộc lộ ra những quan điểm, tình cảm, động cơ,

hành vi của mình

– Khi tạo tình huống GD thì kết quả có thể xẩy ra theo hai hướng: hướng tích cực và

hướng tiêu cực. Với hướng tiêu cực giáo viên phải dự kíên trước các giải pháp để tránh

hậu quả đáng tiếc có thể xẩy ra

d. Phương pháp tập thói quen đạo đức

Trong cuộc sống của con người có những hành động được lặp đi lặp lại trở thành thói

quen của người đó. Chặng hạn thói quen rửa tay trước lúc ăn, đánh răng trước lúc đi

ngủ, ngủ dậy xếp chăn màn, thói quen nói dối…Như vậy có những thói quen tốt và có

những thói quen xấu. Trong những điều kiện nhất định thói quen có thể trở thành

những thuộc tính bền vững hoặc phẩm chất của nhân cách.

Phương pháp tập thói quen đạo đức là phương pháp tổ chức cho người được GD thực

hiện một cách đều đặn, thường xuyên và có kế hoạch để lặp đi lặp lại các hành động,

hành vi đạo đức nhất định, nhằm biến những hành động, hành vi đó thành thói quen

đạo đức cần thiết trong cuộc sống

Phương pháp tập thói quen đạo đức đặc biệt quan trọng và có hiệu quả nhất trong thời

kỳ đầu của quá trình giáo dục và phát triển của trẻ em. Tuỳ theo lứa tuổi khác nhau,

hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục khác nhau, việc tập thói quen được tiến hành

dưới các hình thức khác nhau.

Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :

– Cần hình thành nhu cầu ham thích luyện tập các hành vi đạo đức để trở thành thói

quen đạo đức cho học sinh

– Cho người được GD nắm được quy tắc, hình dung rõ hành vi cần được thực hiện

như thế nào. Trong trường hợp cần thiết có thể làm mẫu cho người được GD về những

hành vi cần luyện tập

– Mọi hành vi lúc đầu phải được tập chính xác, nếu không khi đã trở thành thói quen

như là một thuộc tính bền vững thì rất khó sữa chữa.

– Việc luyện tập thói quen cần phải có thời gian, bền bỉ, liên tục không nóng vội

– Tiến hành kiểm tra uốn nắn thường xuyên, đồng thời khuyến khích học sinh tự kiểm

tra.

– Để luyện tập thói quen, một biện pháp rất có hiệu quả đó là xây dựng và thực hiện

một chế độ sinh hoạt, hoạt động của học sinh ỏ gia đình và nhà trường một cách rõ

ràng, chặt chẽ, hợp lý

e. Phương pháp rèn luyện thói quen đạo đức

Là phương pháp tổ chức cho học sinh lặp đi lặp lại các hành vi đạo đức trong môi

trường thực tiễn cuộc sống để trở thành thói quen đạo đức.

Nhiệm vụ cơ bản của rèn luyện thói quen là giúp học sinh hình thành những năng

lực, thu lượm những kinh nghiệm thực tiễn tạo nên yếu tố tâm lý cần thiết trong quá

trình phát triển của cá nhân. Cơ sở của rèn luyện thói quen là hoàn cảnh sống hiện thực

mà nhà giáo dục có thể tổ chức đưa học sinh thực sự tham gia vào các hoạt động lao

động đa dạng của XH, phù hợp với khả năng và hứng thú của các em qua đó để thử

nghiệm, củng cố những thái độ, ý thức và hành vi của học sinh. Trong các hoạt động

đó học sinh phải đấu tranh động cơ thống nhất giữa cái “vì mình” với cái “vì những

người xung quanh”, giữa cái chủ quan và khách quan theo yêu cầu của xã hội. Như

vậy phương pháp rèn luyện còn giúp học sinh rèn luyện được cả động cơ, ý chí và nghị

lực. Chặng hạn, muốn giáo dục tinh thần trách nhiệm cho học sinh, giáo viên phải đặt

học sinh vào hoàn cảnh sống và hoạt động lao động, học tập, nhằm giúp các em thể

hiện thường xuyên, liên tục ý thức, thói quen hoàn thành trách nhiệm để trở thành một

thuộc tính bền vững của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày.

Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu:

– Tạo cơ hội cho người được GD thâm nhập vào những tình huống đa dạng từ đơn

giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, để từ đó họ tiến hành đấu tranh, tự xác định động cơ

đúng đắn, lựa chọn và thực hiện những hành động đúng chuẩn mực và quy tắc ứng xử

– Tạo cơ hội cho người được GD dựa vào kết quả đã luyện tập để rèn luyện trở thành

thói quen bền vững

2.3. Các phương pháp khuyến khích hành vi

Là nhóm các phương pháp tác động vào mặt tình cảm của các đối tượng GD nhằm

tạo ra những phấn chấn, thúc đẩy tính tích cực hoạt động

a. Phương pháp thi đua

Là phương pháp kích thích khuynh hướng tự khẳng định ở mỗi học sinh, thúc đẩy họ

đua tài, gắng sức hăng hái vươn lên hàng đầu, lôi cuốn người khác cùng tiến lên để

giành những thành tích cao nhất cho cá nhân hoặc cho tập thể

Nội dung thi đua có thể chỉ một mặt nào đó rất thiết thực, cấp bách thực hiện trong

tời gian ngắn, hoặc nhiều mặt thực hiện trong thời gian dài. Đối với học sinh dù thực

hiện thi đua dưới hình thức nào cũng phải có mục đích rõ ràng làm cho các em nhận

thức được ý nghĩa cá nhân và xã hội của vấn đề đó để động viên họ hăng hái tham gia

với động cơ chính trị – xã hội đúng đắn

Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu

– Mọi phong trào thi đua đều phải có mục đích, không phải là phong trào thi đua theo

chủ nghĩa hình thức, do dó phải có nội dung thi đua rõ ràng, có phát động thi đua, có

sự theo dõi, sơ kết, đúc rút kinh nghiệm, điều chỉnh cho đúng với mục đích của phong

trào

– Việc tổng kết thi đua cần phải công khai, công bằng, chính xác, đánh giá những cá

nhân và tập thể có thành tích cao mà những người khác phải công nhận, khâm phục và

học tập thì kết quả thi đua, phong trào thi đua mới có ý nghĩa xã hội tích cực

– Cần tránh bệnh thành tích trong các phong trào thi đua

b. Phương pháp khen thưởng

Khen thưởng là hình thức biểu thị sự đánh giá tốt đẹp, tích cực của xã hội, của tập thể

đối với hành vi ứng xử và hành động của cá nhân hoặc tập thể học sinh

Tác dụng của khen thưởng là làm cho cá nhân hài lòng, phấn khởi, tin tưởng và tự hào

về sức lực và khả năng của mình và nỗ lực phấn đấu nhằm củng cố và phát huy những

thành tựu đã đạt được

Để nâng cao giá trị khen thưởng cần lưu ý:

– Khen thưởng phải khách quan, công bằng, hợp lý, đúng người, đúng việc, phải được

đông đảo các thành viên trong TT thừa nhận. Nếu

khen thưởng không đúng

mức(không đáng khen, thiếu khách quan, quá đề cao…) thì khen thưởng không những

sẽ mất tác dụng mà còn trở thành sự đối lập, dễ làm cho tập thể xa lánh, làm cho thói

tự mãn, chủ quan, kiêu ngạo, hư danh xuất hiện

– Khi khen thưởng không những đánh giá kết quả đạt được mà còn phải chú ý đến cả

động cơ, và phương thức hoạt động của học sinh

c. Phương pháp kỷ luật (Chê trách, trừng phạt )

Chê trách, trừng phạt là các mức độ giáo dục tác động đến nhân cách học sinh, biểu

thị thái độ không tán thành, lên án, phủ định của giáo viên, của tập thể, của XH đối với

hành vi, hành động của cá nhân hay tập thể học sinh trái với các quy tắc, chuẩn mực

XH, làm tổn hại đến xã hội, đến tập thể và bắt buộc họ phải từ bỏ, điều chỉnh lại cách

ứng xử cho phù hợp với các chuẩn mực chung

Tác dụng của chê trách, trừng phạt là gây cho người sai phạm có tâm trạng biết hỗ

thẹn, ray rứt, giúp họ có thêm ý chí, nghị lực ức chế những hành động tương tự hoặc

chống trả lại những cám dỗ dẫn đến lầm lỗi, và mong muốn thay đổi cách ứng xử của

mình với tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng, danh dự cá nhân.

Các hình thức trách phạt: Biểu lộ cử chỉ hay lời nói không tán thành, gặp gỡ riêng

nhắc nhở phê bình, mời phụ huynh tới trường, chuyển sang lớp khác, cảnh cáo, ghi

học bạ, đuổi học, khai trừ khỏi tổ chức, đoàn thể

Khi tiến hành trách phạt nhà GD cần tuân theo các yêu cầu:

– Trách phạt cần cân nhắc các vấn đề: Nguyên nhân, hoàn cảnh gây ra sai lầm, đặc

điểm diễn biến và tính nghiêm trọng của sai lầm, quá khứ và đặc điểm tâm lý, tính

cách của người phạm khuyết điểm

– Đảm bảo khách quan, công bằng, chính xác và có thiện ý (mong muốn học sinh tiến

bộ)

– Đảm bảo cho người bị trách phạt thấy rõ sai lầm và chấp nhận hình thức, mức độ

trách phạt đối với mình.

– Phải tôn trọng nhân cách người học sinh, không được thành kiến, trù dập, trả thù học

sinh

Chương 5: Lao động sư phạm của người giáo viên và công tác GVCN ở trường

PT

1.

Lao

động

phạm

của

người

giáo

viên

trong

nhà

trường

1.1. Nhiệm vụ của người GV trong nhà trường:

– Giáo dục và giảng dạy

– Học tập và bồi dưỡng

– Tham gia công tác XH

– Luyện tập quân sự

1.2. Đặc điểm lao động sư phạm (LĐSP) của GV

a) Mục đích của LĐSP:

Là mục đích của QTGD tổng thể: GD thế hệ trẻ một cách toàn diện và hài hòa, chuẩn

bị cho họ những phẩm chất và năng lực cần thiết để bước vào đời theo yêu cầu của

XH.

b) Đối tượng của LĐSP

Từ mục đích trên, LĐSP có đối tượng quan hệ là con người, là thế hệ trẻ đang trưởng

thành.

Để đạt được hiệu quả GD cao, người GV phải nghiên cứu và nắm chắc đối tượng GD

của mình, phải biết thiết kế và thực hiện những tác động sư phạm hợp quy luật và hợp

lý, phải tôn trọng và phát huy vai trò chủ thể của GV và HS trên cơ sở nắm vững vai

trò chủ đạo của mình.

c) Công cụ của LĐSP

Bao gồm tri thức, những dạng hoạt động mà GV thu hút HS tham gia một cách tích

cực, đặc biệt công cụ đó còn là chính nhân cách người GV.

d) Sản phẩm của LĐSP

Chính là nhân cách của người HS đã được chuẩn bị một cách toàn diện để đi vào cuộc

sống, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của XH.

đ) Thời gian và không gian của LLĐSP

* Thời gian thực hiện của LĐSP được chia thành 2 bộ phận:

– Bộ phận theo quy chế

– Bộ phận theo quy chế

* Không gian: Được tiến hành trong 2 phạm vi không gian cơ bản:

– Ở trường học

– Ở nhà.

1.3. Những yêu cầu đối với người giáo viên

1.3.1. Thế giới quan của GV

GD có chức năng tư tưởng, chính trị, sản phẩm của GD và người tạo ra sản phẩm GD

phải

phục

vụ

đường

lối,

quan

điểm

của

Nhà

nước.

Đối

với

nước ta, thể chế chính trị rất rõ ràng: Xây dựng đất nước Việt Nam thành một nước

XHCN theo học thuyết Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, nền GD Việt

Nam phải được định hướng phát triển treo chủ trương, chính sách cảu Đảng và pháp

luật của Nhà nước. Vì vậy, người GV phải có phẩm chất chính trị và thế giới quan chủ

nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo niềm tin và định hướng GD của Đảng và

Nhà nước.

1.3.2. Lòng yêu nghề, yêu trẻ

– Lòng yêu nghề: Người thầy phải thấy được tính có ích của nghề nghiệp, nhận thấy

được nét hay nét đẹp của nó; đó chính là việc người thầy được tiếp xúc với HS- những

con người trẻ trung, tràn đầy nhựa sống và ngày một trưởng thành, trở thành người

công dân có ích cho XH.