Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu – Saigon Academy

1. Khái niệm bảo hiểm và chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập

chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩuchứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

Download bộ 3 Giấy chứng nhận bảo hiểm hàng hóa XNK

Bảo hiểm là cam kết bồi thường của người bảo hiểm cho người được bảo hiểm về những tổn thất, hư hỏng của đối tượng được bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa thuận gây ra, với điều kiện là người được bảo hiểm phải trả phí bảo hiểm cho người bảo hiểm.

Từ khái niệm trên, cần giải thích một số thuật ngữ:

– Người bảo hiểm (Insurer, Underwriter, Insurance Company): là người thu phí bảo hiểm, nhận trách nhiệm về rủi ro và phải bồi thường cho người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra trong phạm vi giá trị đã thỏa thuận. Trong thực tế, người bảo hiểm thường là các công ty bảo hiểm, ví dụ ở Anh có công ty Lloyd’s, ở Việt Nam có các công ty như Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo Long, PJICO, PV Insurance… Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.

– Người được bảo hiểm (Insured or Assured): là người trả phí bảo hiểm (nên còn gọi là người mua bảo hiểm), là người chịu tổn thất khi có rủi ro xảy ra và là người được người bảo hiểm bồi thường. Trong thương mại quốc tế, người được bảo hiểm thường là nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa.

– Đối tượng bảo hiểm (Subject matter insured): là tài sản hoặc lợi ích mang ra bảo hiểm. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, đối tượng được bảo hiểm là hàng hóa xuất nhập khẩu trong quá trình chuyên chở.

– Rủi ro được bảo hiểm (Risk insured against): là rủi ro đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Người bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do những rủi ro đã thỏa thuận gây ra. Thực tế, các rủi ro này không được thể hiện trực tiếp trên hợp đồng mà được thể hiện gián tiếp qua các điều khoản tham chiếu đến nguồn điều chỉnh. Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.

chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩuchứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

Ví dụ: tại Viện các nhà bảo hiểm London (Institute of London Underwriters), có ba điều khoản chính liên quan đến rủi ro trong vận tải là Điều kiện A, Điều kiện B và Điều kiện C. Điều kiện A bao gồm tất cả các rủi ro, ngoài trừ các rủi ro đặc biệt như chiến tranh, đình công… Điều kiện B ít rủi ro hơn, còn Điều kiện C ít rủi ro nhất. Thông thường những nhà xuất nhập khẩu luôn tham gia bảo hiểm với Điều kiện A, vì nó bảo hiểm rủi ro tốt hơn.

– Phí bảo hiểm (Insurance Premium): là khoản tiền người được bảo hiểm trả cho người bảo hiểm để có quyền lợi bảo hiểm. Đây là khoản tiền không truy đòi, nghĩa là cho dù tổn thất không xảy ra, thì người được bảo hiểm cũng không có quyền đòi lại khoản tiền này. Vì trong số những người tham gia mua bảo hiểm, chỉ có một số ít người gặp rủi ro và chịu tổn thất được người bảo hiểm bồi thường, do đó phí bảo hiểm thường là một số tiền rất nhỏ so với số tiền được bảo hiểm.

– Giá trị bảo hiểm (Insured value): là giá trị của đối tượng được bảo hiểm. Ví dụ, tổng giá trị lô hàng, tài sản…

– Số tiền bảo hiểm (Insured amount): là số tiền bảo hiểm. Trong trường hợp giá trị bảo hiểm lớn thì phí bảo hiểm có thể vượt quá khả năng tài chính của khách hàng. Do đó, khách hàng có thể quyết định số tiền bảo hiểm chỉ một phần của giá trị bảo hiểm.

2.2. Tại sao phải bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩuchứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

Trong quá trình vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu (chủ yếu bằng đường biển), người kinh doanh xuất nhập khẩu phải mua bảo hiểm cho hàng hóa vì các lý do sau đây:

– Hàng hóa vận chuyển bằng đường biển thường gặp rủi ro có thể gây ra tổn thất, hư hỏng, mất mát về hàng hóa như tàu bị mắc cạn, đắm, đâm va nhau, cháy, nổ, mất tích, không giao hàng…

– Theo tập quán vận tải quốc tế, trách nhiệm của người vận tải là rất hạn chế, hơn nữa việc khiếu nại đòi người vận tải bồi thường rất phức tạp, khó khăn và kéo dài.

– Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu là biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả, bảo vệ và tạo tâm lý an toàn đối với nhà kinh doanh.

Chính vì vậy, trong hợp đồng ngoại thương, một nội dung cần được quy định giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu là: “Ai là người chịu trách nhiệm mua bảo hiểm hàng hóa?” trong quá trình chuyên chở từ nơi nhà xuất khẩu đến nơi nhà nhập khẩu.

Trong thực tế, theo thỏa thuận nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu phải chịu trách nhiệm mua bảo hiểm hàng hóa cho toàn bộ hành trình chuyên chở. Ví dụ, nếu thỏa thuận điều kiện giao hàng là FOB hay CRF, thì nhà nhập khẩu phải chịu trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hóa kể từ thời điểm nhà xuất khẩu giao hàng lên tàu cho tới nơi đến cuối cùng của hàng hóa; hoặc nếu thỏa thuận điều kiện giao hàng là CIF, thì nhà xuất khẩu phải chịu trách nhiệm mua bảo hiểm hàng hóa từ khi giao hàng cho tới nơi đến cuối cùng của hàng hóa.

Tuy nhiên, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu cũng có thể thỏa thuận điều kiện giao hàng là CIP (Carriage and Insurance Paid), nghĩa là nhà xuất khẩu chỉ chịu chi phí vận chuyển và bảo hiểm hàng hóa đến một nơi nhất định theo thỏa thuận, trách nhiệm còn lại do nhà nhập khẩu chịu.

2.3. Các loại chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

Cho dù nhà xuất khẩu hay nhà nhập khẩu chịu trách nhiệm mua bảo hiểm, thì quy tắc và nội dung bảo hiểm là không thay đổi. Sau đây, ta xét trường hợp nhà xuất khẩu chịu trách nhiệm mua bảo hiểm là như thế nào?

Khi nhà xuất khẩu bán hàng một cách thường xuyên, anh ta thường ký một hợp đồng bảo hiểm bao (Open policy, floating policy, open cover) để bảo hiểm cho tất cả các lô hàng xuất khẩu tại bất cứ thời điểm nào trong một thời hạn nhất định (thường là một năm) theo các điều kiện và điều khoản như đã thỏa thuận trước.

Mỗi lần giao hàng, nhà xuất khẩu lập tờ khai về các chi tiết liên quan đến lô hàng và trả phí bảo hiểm. Trên cơ sở tờ khai, công ty bảo hiểm sẽ phát hành một Giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate) hoặc công ty bảo hiểm ký xác nhận vào tờ khai (Declaration under an open cover) và trao cho khách hàng.

Ưu điểm của hệ thống bảo hiểm bao là tránh được việc phải thỏa thuận lại các điều kiện về bảo hiểm đối với mỗi lần giao hàng, và tránh được việc phải phát hành một hợp đồng bảo hiểm riêng biệt cho từng chuyến hàng có chi phí rất cao.

Nếu nhà xuất khẩu bán hàng không thường xuyên, từng lần riêng biệt, thì mỗi lần giao hàng phải thỏa thuận với công ty bảo hiểm về các điều kiện bảo hiểm cho lô hàng đó để được công ty bảo hiểm phát hành một Bảo hiểm đơn (Insurance policy). Bảo hiểm đơn gồm hai mặt, mặt trước ghi những điều khoản cơ bản và thông tin về hàng hóa tham gia bảo hiểm, mặt sau ghi đầy đủ các điều kiện và điều khoản của một hợp đồng bảo hiểm, do đó, nếu có kiện tụng, tòa án chỉ cần căn cứ vào bảo hiểm đơn để xét xử chứ không cần đến hợp đồng bảo hiểm. Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.

Điều chú ý là, phiếu bảo hiểm (Cover Note) không phải là chứng từ bảo hiểm, vì nó không phải là hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát hành, mà chỉ đơn thuần là một tờ giấy xác nhận bảo hiểm do người môi giới bảo hiểm phát hành; do đó, không thể dùng phiếu bảo hiểm để khiếu nại đòi tiền bồi thường người bảo hiểm được.

2.4. Nội dung của chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

2.4.1. Giấy yêu cầu bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

Khi mua bảo hiểm, trước tiên người mua phải điền vào Giấy yêu cầu bảo hiểm hàng hóa với những nội dung được in sẵn.

Sau khi ký tên, đóng dấu vào Giấy yêu cầu bảo hiểm hàng hóa, người được bảo hiểm chuyển giấy này cho công ty bảo hiểm. Căn cứ giấy yêu cầu bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp một Bảo hiểm đơn hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Đơn bảo hiểm và Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết. Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.

2.4.2. Bảo hiểm đơn và giấy chứng nhận bảo hiểm

Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm hàng hóa, công ty bảo hiểm sẽ phát hành một chứng từ bảo hiểm, có thể là bảo hiểm đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Về hình thức, thường mỗi công ty bảo hiểm thiết kế riêng cho mình mẫu chứng từ bảo hiểm, với màu sắc, cách bố trí và thể hiện các nội dung theo cách riêng của mình.

chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩuchứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

2.5. Những lưu ý khi sử dụng chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

  1. Trong thương mại quốc tế, người mua bảo hiểm có thể là một người, còn người thụ hưởng bảo hiểm lại là người khác; để làm được điều này, chứng từ bảo hiểm phải yêu cầu được lập là chuyển nhượng được. Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.

Ví dụ, với điều kiện giao hàng là CIF hay CIP, nhà xuất khẩu là người chịu trách nhiệm mua bảo hiểm; để bảo đảm quyền đòi bồi thường tổn thất, nhà xuất khẩu sau khi mua bảo hiểm phải ký hậu chuyển nhượng chứng từ bảo hiểm cho người nhập khẩu. Từ thực tế này, trong hợp đồng thương mại và trong cả L/C, các bên phải có điều khoản quy định chuyển nhượng chứng từ bảo hiểm.

Với điều kiện giao hàng là CIF và CIP mà không quy định như vậy, người xuất khẩu mua bảo hiểm và được công ty bảo hiểm cấp cho một chứng từ bảo hiểm dạng không chuyển nhượng được, khi có tổn thất xảy ra người nhập khẩu không thể khiếu nại đòi bồi thường được, mà phải nhờ đến người xuất khẩu (là người được bảo hiểm) là người có quyền đòi bồi thường.

Nếu nhà xuất khẩu ở xa, khác nhau về ngôn ngữ, tập quán, việc chuyển tải các thông tin gặp khó khăn, đặc biệt là nếu nhà xuất khẩu không thiện chí thì khả năng nhà nhập khẩu đòi được bồi thường là rất khó khăn và tốn kém.

  1. Khi chứng từ bảo hiểm thuộc loại chuyển nhượng được thì người mua bảo hiểm nhất thiết phải ký hậu, có như vậy thì mới đủ cơ sở pháp lý để người được chuyển nhượng đòi tiền bồi thường. Cần chú ý là, khi điều kiện giao hàng là FOB hay CFR, thì người chịu trách nhiệm mua bảo hiểm là nhà nhập khẩu. Để được ngân hàng mở L/C, nhà nhập khẩu phải cam kết mua bảo hiểm và chuyển nhượng cho ngân hàng mở L/C, có như vậy, ngân hàng mở L/C mới được bảo đảm an toàn khi hàng hóa có tổn thất, trong khi vẫn phải thanh toán do bộ chứng từ nhận được là hoàn hảo, lúc này ngân hàng mở L/C là người hưởng lợi bảo hiểm. Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.
  2. Cũng giống như vận đơn đường biển, chứng từ bảo hiểm cũng có thể đích danh, theo lệnh, hay vô danh. Loại đích danh không thể chuyển nhượng được, nên không linh hoạt, do đó, nó được dùng hạn chế. Loại theo lệnh rất linh hoạt, phù hợp với tính chất thương mại quốc tế, nên được dùng phổ biến. Loại vô danh là loại linh hoạt nhất, nghĩa là bất cứ người nào nắm giữ nó đều trở thành người hưởng lợi bảo hiểm, do đó nó dễ bị lạm dụng; chính vì vậy trong thực tế rất ít dùng, nếu dùng thì phải có biện pháp kiểm soát chặt chẽ tất cả các chứng từ bảo hiểm gốc.
  3. Theo quy tắc của UCP, số tiền được bảo hiểm tối thiểu là 110% của giá trị CIF, CIP hay giá trị hóa đơn. Tuy nhiên, số tiền bảo hiểm có thể lớn hơn, do các bên thỏa thuận, số tiền bảo hiểm càng cao thì phí bảo hiểm cũng càng cao. Ở đây cần giải thích: Tại sao số tiền bảo hiểm tối thiểu lại là một số cố định 110% giá trị của hóa đơn? Điều này là vì, nếu bộ chứng từ thanh toán là hoàn hảo, thì nhà nhập khẩu hay ngân hàng mở L/C phải thanh toán cho người xuất khẩu là 100% giá trị hóa đơn, 10% phụ trội bao gồm hai thành phần: thứ nhất, trang trải các chi phí và phí đã bỏ ra để chuẩn bị nhập khẩu hàng hóa; thứ hai, phần còn lại bù đắp phần lợi nhuận dự tính cho nhà nhập khẩu.
  4. Khi hợp đồng thương mại hay L/C yêu cầu Giấy chứng nhận bảo hiểm hay tờ khai bảo hiểm theo một bảo hiểm bao (Declaration under an open cover), thì nhà xuất khẩu có thể xuất trình một Bảo hiểm đơn mà vẫn được chấp nhận thanh toán (vì bảo hiểm đơn có giá trị pháp lý cao hơn).
  5. Khi hợp đồng thương mại hoặc L/C yêu cầu chứng từ bảo hiểm phải được ký hậu để trống, nhưng người hưởng lợi L/C lại xuất trình chứng từ bảo hiểm cho người cầm (to Bearer), tức vô danh, thì chứng từ này vẫn được chấp nhận thanh toán. Điều này xuất phát từ bản chất của chứng từ cho người cầm là tương đương với ký hậu để trống “endorsed in blank”. Khi người nhập khẩu hay ngân hàng mở L/C nhận được chứng từ loại này vẫn bảo đảm được quyền đòi bồi thường khi có tổn thất xảy ra, do đó nó cần phải được chấp nhận thanh toán.
  6. Tất cả các bản gốc chứng từ bảo hiểm phải được xuất trình: về cơ bản, bản gốc chứng từ bảo hiểm cũng giống như bản gốc vận đơn đường biển là có tính lưu thông, có giá trị chuyển nhượng và được phát hành thành nhiều bản có giá trị như nhau. Cách thức thể hiện bản gốc trên chứng từ bảo hiểm là tương tự như trên vận đơn đường biển. Đối với vận đơn đường biển có thể gửi một bản gốc theo hàng hóa cho người nhận hàng, trong khi đó chứng từ bảo hiểm phải được xuất trình trọn bộ. Chứng từ bảo hiểm không cần phải gửi theo hàng hóa vì nó không liên quan đến việc nhận hàng mà chỉ cần thiết cho việc lập hồ sơ đòi bồi thường. Do vậy, người được bảo hiểm và người chuyển nhượng phải nắm giữ trọn bộ bản gốc nhằm tránh sự lạm dụng.
  7. Ngày hiệu lực của chứng từ bảo hiểm: Về nguyên tắc, ngày hiệu lực của chứng từ bảo hiểm không được muộn hơn ngày giao hàng. Vì nếu muộn hơn ngày giao hàng nghĩa là hàng hóa đã không được bảo hiểm trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến ngày bảo hiểm có hiệu lực, do đó, các bên có quyền lợi bảo hiểm có thể từ chối bộ chứng từ thanh toán. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh bảo hiểm, hàng hóa có thể được mua bảo hiểm ngay cả sau khi đã được giao, miễn là trên chứng từ bảo hiểm có thể hiện “hiệu lực bảo hiểm không muộn hơn ngày giao hàng”.
  8. Bảo hiểm mọi rủi ro: Cho dù chứng từ bảo hiểm có điều khoản quy định “All risks insurance cover”, hay được thể hiện bằng “Condition A” có phạm vi bảo hiểm rộng rãi nhất, bảo đảm cao nhất quyền lợi của người được bảo hiểm. Tuy nhiên, về thực chất, “mọi rủi ro” ở đây chỉ bao gồm các rủi ro bắt nguồn từ bên ngoài như: thiên tại, sự cố bất ngờ, tổn thất trong bốc dỡ, chuyển tải… Người bảo hiểm không bồi thường những khuyết tật vốn có của hàng hóa, hay tính chất tự nhiên của hàng hóa. Những rủi ro về chiến tranh, đình công… cũng không được bồi thường ví có điều kiện bảo hiểm riêng. Chứng từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.

Xem thêm: Khóa học xuất nhập khẩu online

Xem thêm: Video YouTube học xuất nhập khẩu