Chức năng xã hội của giáo dục – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.55 KB, 14 trang )

a). Chức năng kinh tế – sản xuất

Chức năng quan trọng nhất mà xã hội đặt ra cho giáo dục là chức năng kinh tế sản xuất. Giáo dục không thực hiện trực tiếp chức năng này mà thông qua con người,

thông qua hệ thống nguồn nhân lực mà giáo dục đào tạo nên. Do được trang bị hệ

thống tri thức, kỹ năng và kỹ xảo thích hợp và hiện đại, nhà trường sẽ cung cấp cho xã

hội đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân có trình độ cao hơn, thông minh

hơn, khéo léo hơn, làm việc có hiệu quả hơn trong các lĩnh vực kinh tế – sản xuất khác

nhau.

Để thực hiện tốt chức năng kinh tế – sản xuất, giáo dục phải thoả mãn một số

yêu cầu cơ bản sau đây:

+ Giáo dục phải gắn bó với sự phát triển kinh tế – sản xuất thoả mãn các yêu

cầu phát triển kinh tế – sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể (hiện nay là phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước).

+ Xây dựng một hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng phù hợp với sự phát

triển kinh tế – sản xuất của đất nước.

+ Các loại hình cán bộ kỹ thuật và công nhân phải đảm bảo tính cân đối, tránh

tình trạng thừa thầy, thiếu thợ (chiếc nón ngược) như hiện nay.

+ Có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất cao, thoả mãn các yêu cầu

sản xuất hiện đại.

b). Chức năng chính trị – xã hội

Chức năng chính trị – xã hội của giáo dục bao gồm những nội dung cụ thể sau

đây:

+ Trang bị cho thế hệ đang lớn lên cũng như toàn thể xã hội lý tưởng phấn đấu

vì một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

+ Thông qua việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hoá cho toàn dân,

thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực góp phần xoá đói, giảm nghèo, góp phần

chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi cấu trúc lao động xã hội và tạo ra sự bình đẳng

trong các tầng lớp dân cư.

+ Góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý theo tinh thần “do dân và vì

dân”.

c). Chức năng văn hoá – tư tưởng

+ Giáo dục có tác dụng ta lớn trong việc hình thành và phát triển ở thế hệ trẻ

bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc như:

Tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, hiếu học, cần kiệm… của

dân tộc.

+ góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống, đạo đức, thế

giới quan, ý thức hệ và chuẩn mực xã hội.

Điều đáng chú ý là giáo dục thực hiện các chức năng xã hội của mình không

phải bằng con đường trực tiếp, mà chủ yếu là thông qua con người do hệ thống giáo

dục đào tạo ra.

Thông qua con người mà nó đào tạo, giáo dục đã tác động đến toàn bộ nền kinh

tế – xã hội của đất nước, cho nên người ta thường nói giáo dục tạo ra sức mạnh của

một nước, tương lai của dân tộc. Vì vậy, giáo dục là quốc sách hàng đầu trong giai

đoạn cách mạng mới.

4. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục

– Qua phân tích chức năng, nhiệm vụ của giáo dục đối với xã hội ta thấy giáo

dục có ảnh hưởng rất to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Ngược lại, sự phát triển

xã hội quy định mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp giáo dục. Vậy xã hội có ảnh

hưởng như thế nào đến giáo dục?

Xã hội là môi trường rộng lớn trong đó giáo dục được sinh ra, được nuôi dưỡng

và phát triển. Vì vậy, xã hội có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển giáo dục thông

qua các thành phần đa dạng của nó như: kinh tế, chính trị, văn hoá…

Một đất nước nghèo đói, khoa học, công nghệ, nền sản xuất không phát triển thì

giáo dục làm sao phát triển được?

Một chính quyền mà thi hành chính sách ngu dân, một dân tộc không biết tôn

vinh những bậc hiền tài thì văn hoá, giáo dục không thể phát triển được.

Đặc điểm trên về mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội được các nhà giáo dục

gọi là tính quy định của xã hội đối với giáo dục và xem như là một tính quy luật quan

trọng của giáo dục.

Nói nôm na, giáo dục chịu sự giới hạn, sự khống chế của xã hội; giáo dục

không vượt qua khuôn khổ, ngoài tầm cỡ của xã hội được, xã hội là “vòng kim cô” của

giáo dục.

Vì vậy, khi hoạch định các kế hoạch giáo dục cần chú ý đến sự phù hợp, sự gắn

kết giữa giáo dục với sự phát triển kinh tế xã hội, giáo dục phải phục vụ sự phát triển

kinh tế – xã hội.

Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một

nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì giáo

dục cũng phải hướng vào lý tưởng đó của dân tộc qua việc thực hiện tốt các nhiệm vụ:

Nâng cao dân trí;

Đào tạo nguồn nhân lực;

Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

II. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

Chương này sẽ chứng minh rằng giáo dục học là một khoa học. Điều đó có nghĩa là

việc dạy học, giáo dục con người không phải là một việc làm tuỳ tiện. Muốn cho

việc dạy học cũng như công tác giáo dục nói chung có hiệu quả, đạt chất lượng cao

người thầy phải tuân theo những bài bản, những quy trình nhất định có tính quy

luật. Vì vậy, người thầy giáo phải học tập lý luận, rèn luyện tay nghề chu đáo trước

khi bắt tay vào nghề “làm thầy”.

Vì mỗi khoa học đều có đối tượng, hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật và

phương pháp riêng, nên để chứng minh giáo dục học là một khoa học, phải trả lời

được câu hỏi: đối tượng, khái niệm, phạm trù, phương pháp… của giáo dục học là gì?

1. ĐỐI TƯỢNG CỦA GIÁO DỤC HỌC

a). Đối tượng của giáo dục học

Trước khi nghiên cứu đối tượng giáo dục học, ta hãy tìm hiểu đối tượng của

khoa học nói chung.

Đối tượng của một khoa học là vùng, miền, lĩnh vực của thực tiễn khách quan

mà khoa học đó nghiên cứu. Mỗi khoa học có một đối tượng riêng và trong việc quản

lý hệ thống các lĩnh vực khoa học nó có ký hiệu riêng mà người ta thường gọi là mã

số.

Đối tượng của giáo dục học là một vấn đề đã được trao đổi, thảo luận và biên

soạn trong nhiều tài liệu khác nhau.

Tuy nhiên, đến nay, đối tượng của giáo dục học được nhiều người thừa nhận là

quá trình dạy học – giáo dục.

Quá trình dạy học – giáo dục là một quá trình xã hội phức tạp, nhiều mặt và lâu

dài. Đó là một khái niệm rất quan trọng và khó, sẽ được giới thiệu chi tiết hơn ở mục

sau. Nhưng từ đây có thể xem quá trình dạy học – giáo dục là một hệ thống gồm các

yếu tố sau đây:

Mục đích giáo dục;

Nội dung giáo dục;

Phương pháp giáo dục;

Hình thức giáo dục;

Phương tiện giáo dục;

Kiểm tra và đánh giá trong giáo dục.

Quá trình dạy học – giáo dục diễn ra liên tục, bao gồm nhiều hoạt động, nhiều

quá trình kế tiếp nhau: giờ học, năm học, cấp học… Mỗi quá trình có mục đích riêng

ngày càng được nâng cao và vận động từ điểm xuất phát tới mục đích cuối cùng.

Vận dụng mô hình trên đây cho các lứa tuổi và bậc học khác nhau (mẫu giáo,

phổ thông, đại học), ở các vùng địa lý khác nhau (thành thị, nông thôn, miền núi…),

các quy mô khác nhau (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc…) ta sẽ có những mô hình dạy học giáo dục cụ thể.

Quá trình dạy học – giáo dục cũng có thể được tiếp cận dưới các quan điểm

khoa học khác nhau: nhận thức luận, tâm lý học, xã hội học, điều khiển học, kinh tế

học…

Nếu quan niệm quá trình dạy học – giáo dục như trên thì phạm vi nghiên cứu

bao gồm nhiều vấn đề rộng lớn. Nhưng trước một đối tượng rộng lớn như vậy, điều

quan trọng là trong từng giai đoạn phải xác định được một số điểm trọng tâm nhằm

làm cho việc tổ chức nghiên cứu có tính định hướng và tập trung, tránh tản mạn là một

trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến hiệu quả giáo dục thấp.

Mặt khác, dạy học – giáo dục là một hiện tượng xã hội xuất hiện sớm trong lịch

sử loài người, giáo dục học và khoa học giáo dục nói chung đã ra đời từ nhiều thế kỷ.

Nhưng hệ thống tri thức giáo dục phát triển chậm, đến nay vẫn còn nghèo, chưa giải

quyết được nhiều vấn đề xã hội đặt ra. Điều đó đòi hỏi phải tìm kiếm những giải pháp

kiên quyết, tích cực, có hệ thống nhằm phát triển nhanh chóng hệ thống tri thức giáo

dục học.

b)Cấu trúc của quá trình giáo dục (nghĩa rộng)

Để tìm hiểu bản chất một sự vật, hiện tượng hoặc quá trình nào đó thì nghiên

cứu cấu trúc của nó là một trong những vấn đề cơ bản nhất, bởi vì cấu trúc là nội dung

bên trong quan trọng nhất của mọi hiện tượng, quá trình.

Theo lý thuyết cấu trúc hệ thống, để mô tả cấu trúc của hệ thống nào đấy phải trình

bày:

+ Các yếu tố tạo thành hệ thống;

+ Mối liên hệ giữa các yếu tố của hệ thống.

+ Môi trường mà hệ thống tồn tại.

Vận dụng lý thuyết cấu trúc hệ thống vào việc nghiên cứu quá trình giáo dục, ta

thấy cấu trúc quá trình giáo dục như sau:

Các yếu tố:

– Nhìn từ ngoài vào thì giáo dục (nghĩa rộng) có hai yếu tố chính là: dạy học và

giáo dục (nghĩa hẹp).

Mỗi yếu tố lại là một hệ thống con với những thành phần hẹp hơn. Thí dụ, dạy

học gồm hai yếu tố tạo thành là dạy và học; giáo dục (nghĩa hẹp) có các yếu tố: tác

động giáo dục, tiếp nhận giáo dục và tự giáo dục.

– Nếu tìm hiểu sâuhơn ta thấy quá trình giáo dục là sự vận động và biến đổi, là

sự tương tác liên tục giữa các nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa thầy giáo và

học sinh để trang bị hệ thống trí thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thái độ và tạo ra sự

phát triển ở người học.

Quá trình giáo dục được tổ chức chặt chẽ và có hệ thống, bao gồm các yếu tố

sau đây: Mục đích; Nội dung; Phương pháp; Phương tiện; Hình thức; Kết quả.

Các mối liên hệ bên trong quá trình giáo dục

Giữa mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức và kết quả có

mối liên hệ rất chực chẽ. Yếu tố chỉ đạo quá trình giáo dục là mục đích giáo dục. Mục

đích giáo dục được Nhà nước quy định tuỳ theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và

phát triển bản thân con người của từng giai đoạn lịch sử. Mục đích chung của quá trình

giáo dục là phát triển nhân cách toàn diện của thế hệ đang lớn lên. Bác Hồ diễn đạt nội

dung này một cách cụ thể hơn: phát triển hoàn toàn những phẩm chất và năng lực sẵn

có.

Dựa vào mục đích giáo dục, các chuyên gia biên soạn nội dung giáo dục.

Dựa vào mục đích và nội dung giáo dục, các nhà giáo dục, các thầy giáo tổ

chức quá trình giáo dục theo những phương pháp, phương tiện và hình thức đa dạng

tuỳ thuộc vào đối tượng và điều kiện giáo dục, dạy học cụ thể.

Quá trình tương tác giữa thầy, trò và nội dung giáo dục sẽ đưa đến kết quả là sự

hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ và phát triển ở học sinh.

Điều đáng chú ý là kết quả giáo dục trong nhiều trường hợp có thể đánh giá

ngay, nhưng nhiều vấn đề phải một thời gian sau mới được thể hiện. Đó là điều cần

chú ý khi đánh giá các kết quả giáo dục.

Môi trường giáo dục

Quá trình giáo dục được tiến hành trong môi trường xã hội, chịu ảnh hưởng rất

to lớn của môi trường xã hội. Trước hết, nó phải đáp ứng những nhiệm vụ, những yêu

cầu do xã hội đặt ra; nó thực hiện các mục đích, nhiệm vụ giáo dục trong điều kiện mà

xã hội cung cấp cho nó, trong môi trường văn hoá, đạo đức… của xã hội.

Ngoài môi trường xã hội (vĩ mô) mà trước hết phải tính đến sự tiến bộ xã hội,

văn hoá truyền thống và sự phát triển khoa học kỹ thuật của đất nước…, cần chú ý rằng

giáo dục chịu ảnh hưởng rất lớn môi trường tự nhiên và xã hội của địa phương trường

đóng (vi mô).

Các mối liên hệ giữa môi trường và quá trình giáo dục (liên hệ bên ngoài):

Có thể kể ra một số mối liên hệ bên ngoài cơ bản nhất:

Mối liên hệ giữa yêu cầu phát triển kinh tế xã hội với mục đích giáo dục.

Mối liên hệ giữa đặc điểm truyền thống văn hoá, đạo đức và môi trường chính

trị – xã hội đối với giáo dục.

Mối liên hệ giữa điều kiện phát triển khoa học – kỹ thuật và giáo dục.

Mối liên sự giữa các phương tiện thông tin đại chúng, giữa giáo dục gia đình,

nhà trường và xã hội..

Đó là những điều mà các nhà giáo dục cần quan tâm đặc biệt.

2. Những khái niệm cơ bản của giáo dục học

– Giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình tổ chức một cách có mục đích, có kế

hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được

giáo dục, nhằm phát triển sức mạnh vật chất và tinh thần của thế hệ đang lớn lên, trên

cơ sở giúp họ chiếm lĩnh những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người.

QTGD (nghĩa rộng) = QTDH + QTGD (nghĩa hẹp)

Việc tổ chức quá trình đó chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên

môn, gọi là nhà giáo dục, nhà sư phạm đảm nhiệm. Nơi tổ chức chủ yếu quá trình đó

gọi là nhà trường.

Nhìn bề ngoài có thể thấy quá trình giáo dục bao gồm ba thành phần cơ bản;

thầy giáo, học sinh và tài liệu giáo khoa. Quá trình giáo dục không thể xảy ra nếu thiếu

một trong ba thành phần này.

Trong khoa học và trong đời sống, ngoài khái niệm quá trình giáo dục, ta còn

gặp các khái niệm quá trình hình thành con người, quá trình xã hội hoá con người, quá

trình hình thành nhân cách…

Quá trình hình thành con người rộng hơn quá trình giáo dục. Quá trình hình

thành con người bao gồm: các mặt sinh học, tâm lý xã hội và giáo dục học… diễn ra do

ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di truyền, kinh nghiệm, tính tích cực

của chủ thể và các nhân tố bên ngoài (ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh xã

hội…).

Quá trình hình thành con người chịu ảnh hưởng của các tác động tự phát, ngẫu

nhiên không kiểm soát được và của các tác động có mục đích, có tổ chức kiểm soát

được.

Như vậy, quá trình hình thành con người là việc làm của xã hội, chứ không

riêng của ngành giáo dục.

Quá trình xã hội hoá con người là quá trình hình thành con người nhưng chỉ bao

hàm các tác động do những nhân tố xã hội gây nên, vừa mang tính chất tự phát, ngẫu

nhiên; vừa mang tính tự giác, có mục đích, có tổ chức.

Theo nghĩa rộng, xã hội hoá con người là một quá trình hai mặt, bao gồm: một

mặt cá nhân lĩnh hội kinh nghiệm xã hội bằng cách gia nhập môi trường xã hội, hệ

thống các quan hệ xã hội; mặt khác, cá nhân tích cực tham gia vào các mối liên hệ xã

hội, bằng hoạt động sống của mình, bằng sự tham gia tích cực vào môi trường xã hội.

Tuy về lý luận hai khái niệm quá trình giáo dục và quá trình hình thành con

người được xác định tương đối rõ. Nhưng trong đời sống, trong hoạt động thực tiễn

hiện nay khái niệm quá trình giáo dục thường được mở rộng ra. Nhất là trong điều

kiện hiện đại, khi xã hội đòi hỏi phải giáo dục con người ở mọi nơi, mọi lúc, giáo dục

thường xuyên, suốt đời… thì khái niệm quá trình giáo dục trước đây được mở rộng

cũng là điều hợp lý. Đó là điều cần chú ý khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục học.

– Dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng), là quá trình tác

động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh

nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo…) để phát triển những

năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục.

Thế mạnh của dạy học là hình thành hệ thống tri thức (bao gồm các khái niệm,

phạm trù, quy luật, phương pháp nhận thức…), hình thành các kỹ năng và kỹ xảo

chung và riêng, làm cơ sở cho việc hình thành năng lực chung, năng lực chuyên biệt

và phẩm chất của người học.

Bằng con đường nhận thức lý luận, những kinh nghiệm đồ sộ của xã hội loài

người có thể được khái quát hoá và truyền thụ cho thế hệ đang lớn lên trong một thời

gian ngắn và có hệ thống. Nhờ đó, họ có điều kiện để kế thừa và phát triển sức mạnh

tinh thần và vật chất của bản thân và vào việc phát triển xã hội. Đó là vai trò quan

trọng đặc biệt của dạy học.

– Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng), là

quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, tình cảm, thái độ…

Việc hình thành lý tưởng, niềm tin, thái độ… là thế mạnh của quá trình giáo dục

và thường được tiến hành thông qua sinh hoạt tập thể, các hoạt động xã hội, lao động

xã hội công ích, trong và ngoài nhà trường…

Tóm loại, mối quan hệ giữa quá trình giáo dục (QTGD) theo nghĩa rộng, quá

trình dạy học (QTDH) và QTGD theo nghĩa hẹp có thể biểu diễn dưới dạng sau:

QTGD (nghĩa rộng) = QTDH + QTGD (nghĩa hẹp)

Chú ý: Công thức trên đây tuy đơn giản, dễ hiểu và dễ nhớ, nhưng khi sử dụng

nên chú ý một số vấn đề sau:

– QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) đều có một mục đích chung là đào tạo con

người phát triển toàn diện, nhưng mỗi quá trình có một thế mạnh riêng.

– QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) trong thực tế luôn luôn gắn bó chặt chẽ với

nhau, rất ít trường hợp xảy ra một cách độc lập. Thí dụ, trước khi tổ chức hoạt động

giáo dục như cho các em tham quan một di tích lịch sử, tiến hành một hoạt động xã hội

công ích, bao giờ cũng phải giới thiệu mục đích, ý nghĩa, lịch sử vấn đề… nghĩa là phải

thực hiện một quá trình dạy học.

– QTDH không chỉ làm nhiệm vụ hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng và kỹ

xảo… Bởi vì, khi các em đã nhận thức được vấn đề bao giờ cũng có thái độ với nó, dầu

thầy giáo có chú ý đến điều đó hay không. Tuy nhiên, thái độ của các em phụ thuộc rất

lớn và nghệ thuật trình bày vấn đề và thái độ của thầy giáo.

– Trong thực tiễn dạy học hiện nay, nhà trường thường tập trung mọi nỗ lực của

mình vào quá trình dạy học, ít chú ý đến quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) nghĩa là ít tổ

chức sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội, hoạt động lao động công ích và lao động sản

xuất…; ít chú ý đến việc học tập, rèn luyện trong đời sống, vận dụng kiến thức để giải

quyết các vấn đề thực tiễn, không có điều kiện rèn luyện ý chí, phẩm chất và năng lực

ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường nên học sinh rất bỡ ngỡ khi bước vào cuộc

sống. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng giáo dục

hiện nay.

Vì vậy, việc tách quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) ra khỏi quá trình dạy học là để

nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong đời sống nhà trường.

3. Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác

Như đã trình bày ở trên, giáo dục là một hiện tượng xã hội, do đó, giáo dục học

là một khoa học xã hội. Trong quá trình hoạt động và phát triển, giữa giáo dục học với

các khoa học xã hội cũng như với các khoa học tự nhiên đã có những mối liên hệ mật

thiết. Những mối liên hệ này càng phát triển đa dạng và nhiều chiều thì việc khám phá

những tri thức mới về giáo dục học càng tăng.

a). Trước hết phải nói đến mối quan hệ giữa triết học và giáo dục học

Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên, xã

hội và tư duy con người, cho nên nó cũng là nền tảng khoa học cho sự phát triển của

giáo dục học. Đồng thời, có một số vấn đề chung mà cả triết học và giáo dục học đều

quan tâm. Đó là các vấn đề: sự hình thành con người và mục đích giáo dục; mối liên

hệ qua lại giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác; lý luận về hoạt động

của con người và phương pháp đào tạo con người; lý luận về văn hoá và nội dung học

vấn phổ thông, việc hình thành thế giới quan Mác – Lênin cho thế hệ trẻ; mối quan hệ

qua lại giữa tập thể và cá nhân v.v…

b). Xã hội học, thông qua việc nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường xã hội đối

với con người và các quan hệ giữa con người, đã vạch ra những đặc điểm phát triển

kinh tế, văn hoá của xã hội và ảnh hưởng của chúng đến sự hình thành nhân cách con

người, giúp cho giáo dục học giải quyết những vấn đề về mục đích và nội dung giáo

dục, cũng như về sự tác động qua lại giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc

giáo dục trẻ.

c). Đạo đức học, thông qua việc nghiên cứu các học thuyết về đạo đức, bản chất

của đạo đức, các nguyên tắc và các phạm trù đạo đức, đã trực tiếp giúp giáo dục học

giải quyết các vấn đề về giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.

d). Mĩ học, thông qua việc nghiên cứu các tính quy luật về sự phát triển các

quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực và với nghệ thuật, nghiên cứu các tính

quy luật về sự hình thành các lý tưởng thẩm mĩ, đã tạo cơ sở khoa học cho giáo dục

học giải quyết các con đường và các phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho thế hệ trẻ.

e). Các khoa học xã hội khác, như lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học, kinh tế

học, lý luận nhà nước và pháp quyền v.v… cũng đã cung cấp những cơ sở khoa học

quan trọng cho việc nghiên cứu các vấn đề nội dung và phương pháp giáo dục và dạy

học, tổ chức và quản lý giáo dục.

Đối tượng của công tác dạy học và giáo dục là con người đang lớn lên, đang phát

triển. Vì vậy, giáo dục học liên quan chặt chẽ với một số các khoa học nghiên cứu

về con người, nghiên cứu các tính quy luật của sự phát triển thể chất, tâm lý của

con người: Con người như một cơ thể sống là lĩnh vực nghiên cứu của sinh lý học;

Con người như một nhân cách với thế giới tâm lý bên trong của nó, là lĩnh vực

nghiên cứu của tâm lý học. Giáo dục học cũng nghiên cứu con người song không

phải nghiên cứu từng mặt riêng lẻ của sự phát triển con người, mà nghiên cứu con

người trong tính tổng thể, toàn vẹn thông qua các mặt: đức, trí, thể, mỹ… và nghiên

cứu các con đường tối ưu để hình thành nhân cách toàn vẹn của con người.

Giữa giáo dục học với sinh lý học và tâm lý học, có những mối liên hệ trực tiếp

hết sức chặt chẽ.

f). Sinh lý học được coi là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học, việc

nghiên cứu giáo dục học phải dựa vào các tri thức của sinh lý học về sự phát triển hệ

thống thần kinh cao cấp, về các đặc điểm của các loại hình thần kinh, về hoạt động của

hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai, về sự vận động, về hệ thống tim mạch và hô

hấp v.v…

g). Tâm lý học là khoa học về các hiện tượng, các tính quy luật và các cơ chế

của tâm lý như là cái quy định sự phản ánh tích cực của con người đối với hiện thực

khách quan và điều chỉnh hành vi con người. Tâm lý học nghiên cứu các quá trình, các

trạng thái và các phẩm chất tâm lý muôn màu muôn vẻ, là những cái được hình thành

trong quá trình phát triển của con người, và quá trình tác động qua lại giữa con người

và môi trường xung quanh. Được xây dựng trên lý thuyết về hoạt động của con người,

tâm lý học đã võ trang cho giáo dục học những tri thức khoa học các cơ chế diễn biến

và các điều kiện tổ chức các quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách của con

người, theo từng lứa tuổi, trong từng loại hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ

chức các quá trình sư phạm.

x. Trong thời gian gần đây, giáo dục học còn liên hệ chặt chẽ với điều khiển

học, là khoa học về việc điều khiển tối ưu các hệ thống động phức tạp, là khoa học

nghiên cứu lôgíc của những quá trình trong tự nhiên và trong xã hội, xác định những

cái chung quy định những điều kiện vận hành các quá trình đó. Cái chung đó có mặt

của một trung tâm điều khiển, có mặt của khách thể bị điều khiển, và sự thực hiện điều

khiển thông qua các kênh liên hệ thuận nghịch.

Mối liên hệ giữa giáo dục học với các khoa học kể trên được thực hiện dưới các

hình thức hết sức khác nhau; cùng nhau nghiên cứu những vấn đề chung, giáo dục

học sử dụng các cứ liệu, các thuật ngữ và các luận điểm của khoa học khác; vận

dụng phương pháp của các khoa học khác trong việc nghiên cứu giáo dục học v.v…