Chống người thi hành công vụ là gì? Mức phạt chống người thi hành công vụ

Khi nào một hành vi được coi là “chống người thi hành công vụ”? Hình phạt mới nhất theo quy định của luật hình sự và các văn bản hướng dẫn về tội danh chống người thi hành công vụ ? Bài viết này sẽ làm rõ khái niệm về “chống người thi hành công vụ”

1. Khái niệm “Chống người thi hành công vụ”

Chống người thi hành công vụ là (Hành vi) cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc là hành vi cưỡng ép người đó thực hiện hành vi trái pháp luật.

Theo Điều 3 Giải thích từ ngữ trên tinh thần nội dung của Nghị định 208/2013/NĐ-CP quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ có định nghĩa:

“Hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép buộc người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao”

Có thể hiểu rõ hơn là một hành vi bị xem là chống người thi hành công vụ, trước hết hành vi đó phải có dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực như đánh, trói, … hoặc hành vi đó phải dùng thủ đoạn khác (như lăng mạ, bôi nhọ hoặc vu khống..) cưỡng ép người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật như cưỡng ép cán bộ kiểm lâm cho chở gỗ khai thác,…

Tuy nhiên, không phải hành vi nào mà phản ứng lại người thi hành công vụ cũng đều bị xem là hành vi chống người thi hành công vụ.

 

2. Hình phạt và cấu thành tội phạm của tội chống người thi hành công vụ 

2.1 Hình phạt tội chống người thi hành công vụ

Chống người thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong quản lí hành chính. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, hành vi chống người thi hành công vụ được quy định trong Sắc luật số 03 năm 1976, là một dạng hành vi thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng. Trong Bô luật hình sự năm 1985, tội chống người thi hành công vụ được quy định là một tội thuộc Chương ” Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lí hành chính”. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm trật tự quản lí hành chính thành một chương riêng trong đó có tội chống người thi hành công vụ.

Căn cứ theo Điều 330 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;

d) Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên;

đ) Tái phạm nguy hiểm”.

2.2 Cấu thành tội phạm

Đối tượng của tội này là người đang thi hành công vụ được giao một cách hợp pháp. Hành vi phạm tội của tội này có thể là: 1) Dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của mình. Ở dạng hành vi này không đòi hỏi việc dùng vũ lực đã gây ra hậu quả cũng như không đòi hỏi hành vi đó có cản trở được người thi hành công vụ hay không. Trong trường hợp đã gây chết người hoặc gây thương tích đáng kể thì hành vi cấu thành tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích có tình tiết tăng nặng định khung “chống người thi hành công vụ” (nếu lỗi của người phạm tội đối với hậu quả đó là lỗi cố ý); 2) Đe dọa dùng vũ lực để uy hiếp tinh thần người thi hành công vụ, buộc họ từ bỏ việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Ở dạng hành vi này không đòi hỏi người phạm tội có đạt được mục đích hay không cũng như có thực hiện lời đe dọa hay không; 3) Uy hiếp tinh thần bằng những thủ đoạn khác nhau để buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật theo ý muốn của người phạm tội. Ví dụ: dọa đốt nhà của người thi hành công vụ để buộc họ phải hủy bỏ biên bản phạm pháp đã lập hoặc phải trả lại tang vật… Hình phạt được quy định cho tội chống người thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 có mức tối đa là 7 năm tù.

Các dấu hiệu cơ bản cấu thành tội phạm này là:

 

2.2.1 Khách thể:

là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công.

+ Đối tượng tác động của tội phạm này là người đang thi hành công vụ. Người thi hành công vụ là người được Nhà nước hoặc xã hội giao cho những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong quản lý lĩnh vực hành chính Nhà nước nhất định (cán bộ thuế vụ, cảnh sát giao thông, bộ đội biên phòng… ).

+ Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp pháp, mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người thi hành công vụ lại là người làm trái pháp luật mà bị xâm phạm thì hành vi của người có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành công vụ.

 

2.2.2 Khách quan:

có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Vũ lực dùng trong trường hợp này không thuộc trường hợp nói tại Điều 93, 104 Bộ luật hình sự. Cụ thể người phạm tội có thể có những hành vi sau:

+ Dùng vũ lực chống người thi hành công vụ là dùng sức mạnh vật chất tấn công trực tiếp người đang thi hành công vụ (đấm, đâm, chém…)

+ Đe doạ dùng vũ lực là dùng lời nói, cử chỉ có tính răn đe, uy hiếp khiến người thi hành công vụ sợ hãi, phải chấm dứt việc thực thi công vụ… Sự đe doạ là thực tế có cơ sở để người bị đe doạ tin rằng lời đe doạ sẽ biến thành hiện thực.

+ Cưỡng ép người thi hành công vụ làm trái pháp luật là khống chế, ép buộc người thi hành công vụ phải làm những điều trái với chức năng, quyền hạn của họ hoặc không làm những việc thuộc chức năng quyền hạn của họ.

+ Các thủ đoạn khác chống người thi hành công vụ là hành vi bôi nhọ, vu khống, đe doạ sẽ cung cấp những tin tức bất lợi cho người thi hành công vụ…

– Tất cả các hành vi nói trên người phạm tội thực hiện đối với người thi hành công vụ là để ngăn cản người thi hành công vụ thực hiện công vụ của mình hoặc buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật.

– Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội có một trong những hành vi nêu trên để ngăn cản người thi hành công vụ thực hiện công vụ của mình hoặc buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Việc người thi hành công vụ có nghe theo yêu cầu của người phạm tội hay không không có ý nghĩa định tội.

Hành vi chống người thi hành công vụ nếu gây thương tích hoặc làm chết cán bộ thi hành công vụ thì người phạm tội còn có thể bị truy cứu TNHS về các tội phạm tại Chương XII Bộ luật hình sự (tội cố ý gây thương tích, tội giết người…).

 

2.2.4 Mặt chủ quan của tội phạm:

Đây là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết mình đang cản trở người thi hành công vụ hoặc cưỡng ép người thi hành công vụ làm trái pháp luật.

Nếu một người khi thực hiện hành vi mà không biết là đang cản trở người thi hành công vụ hoặc cưỡng ép người thi hành công vụ làm trái pháp luật, có cơ sở chính đáng thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng nếu có gây thương tích hoặc chết người.

 

2.2.5 Chủ thể của tội phạm:

bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định.

 

2.3 Xử phạt hành chính đối với hành vi chống người thi hành công vụ

Người có hành vi chống người thi hành công vụ sẽ bị xử lý dưới 2 hình thức là truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xử phạt vi phạm hành chính.

Theo quy định tại Điều 20 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về hành vi cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ:

Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi môi giới, tiếp tay, chỉ dẫn cho cá nhân, tổ chức vi phạm trốn tránh việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ.

Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

  • Cản trở hoặc không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ;
  • Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ;
  • Xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác không chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ.

Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

  • Dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành công vụ;
  • Gây thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ;
  • Đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác cho người thi hành công vụ để trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính.

Có thể thấy:

Hành vi chống người thi hành công vụ xuất phát từ thái độ coi thường pháp luật, coi thường lực lượng làm nhiệm vụ và ngày càng có chiều hướng diễn biến phức tạp. Nhẹ là chửi bới, lăng mạ, nguy hiểm hơn là dùng vũ khí, hung khí, thậm chí điều khiển phương tiện đâm thẳng vào người thi hành công vụ. Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ra đời nâng mức phạt đối với hành vi vi phạm nồng độ cồn rất cao nên không ít đối tượng sợ bị phạt tiền đã chống đối, cản trở lực lượng thi hành công vụ quyết liệt hòng bỏ chạy, trốn tránh việc xử lý của pháp luật như trường hợp nêu trên. Điều 330 Bộ luật Hình sự quy định rất rõ và nghiêm khắc đối với hành vi chống người thi hành công vụ. Tuy nhiên, đó là với vụ việc có hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, còn các vụ gây hậu quả ít nghiêm trọng thường chỉ bị xử lý hành chính. Đây cũng là nguyên nhân khiến các vụ việc chống đối người thi hành công vụ gia tăng, phức tạp.

Để ngăn chặn hành vi chống người thi hành công vụ, đồng thời bảo vệ các lực lượng thực thi nhiệm vụ, ngoài việc xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để răn đe, các ngành chức năng cần nghiên cứu, ban hành quy định về các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt trong công tác, bảo đảm trật tự an toàn giao thông…

Căn cứ Điều 72, Điều 83 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Luật sư có thể tham gia với tư cách người bào chữa cho người bị buộc tội hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.

Trong phạm vi quyền của mình được quy định cụ thể ở Điều 73 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015, Luật sư tham gia hỏi cung cùng cơ quan điều tra sẽ bảo vệ quyền lợi của bị cáo tránh bị mớm cung, ép cung…