Chợ truyền thống – “ nơi chốn” – hiện hữu của người Việt ở đô thị

MTXD – Nơi chốn – một thuật ngữ đã trở nên phổ biến từ những năm 1970 trong nghiên cứu địa lý nhân văn ở các nước phương Tây. Từ đó đến nay, có thể nói đây là một thuật ngữ liên ngành quan trọng bậc nhất trong thế kỷ 21 – thời đại của toàn cầu hóa, phát triển bền vững và tiến bộ của khoa học kỹ thuật.

MTXD –  Nơi chốn – một thuật ngữ đã trở nên phổ biến từ những năm 1970 trong nghiên cứu địa lý nhân văn ở các nước phương Tây. Từ đó đến nay, có thể nói đây là một thuật ngữ liên ngành quan trọng bậc nhất trong thế kỷ 21 – thời đại của toàn cầu hóa, phát triển bền vững và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Thông qua quá trình khảo cứu thuật ngữ nơi chốn từ các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà địa lý nhân văn, xã hội học và đô thị học, tác giả muốn thảo luận ý nghĩa và tầm quan trọng của việc nghiên cứu nơi chốn trong nghiên cứu phát triển chợ truyền thống bền vững ở Việt Nam. Mặc dầu nghiên cứu về chợ truyền thống đã phát triển từ khi nền kinh tế mở cửa với sự góp mặt của các hình thức mậu dịch toàn cầu khác như siêu thị và trung tâm thương mại nhưng qua khảo lượt thuật ngữ nơi chốn đồng hành với việc khảo cứu các nghiên cứu về chợ cũng như chưa thấy được vị thế quan trọng của nơi chốn trong việc duy trì và phát triển bản sắc của chợ truyền thống. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả mong muốn trước hết cung cấp khung lý thuyết nơi chốn, bản sắc nơi chốn và cảm giác nơi chốn cho nghiên cứu liên ngành dựa trên nền tảng tư tưởng xã hội kiến tạo kết hợp với các lập trường của hiện tượng học. Sau đó thông qua việc thảo luận ý nghĩa của nơi chốn, tác giả nêu lên các hướng nghiên cứu cũng như các vấn đề phức tạp trong nghiên cứu phát triển chợ truyền thống bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.

 Từ khóa: Bản sắc nơi chốn; Chợ truyền thống; Hiện tượng học; Nơi chốn; Xã hội kiến tạo.

  1. Đặt vấn đề

Quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế – xã hội và môi trường Việt Nam. Hội nhập quốc tế dưới sự tác động của các yếu tố như kinh tế thị trường và khoa học công nghệ đã khiến cho cuộc sống của con người có vẻ như ‘dễ thở’ hơn. Hàng loạt các trung tâm thương mại, siêu thị lớn nhỏ, chợ điện tử xuất hiện, giúp giải quyết nhanh gọn nhu cầu mua sắm của người dân. Tuy nhiên, giữa hàng nghìn tiện ích đó, chợ truyền thống trong lòng các đô thị (gọi vắn tắt là chợ truyền thống) vẫn luôn tồn tại, vẫn đông đúc, không vội vã. Đối  với người Việt, chợ không chỉ là nơi trao đổi hàng hóa đơn thuần, mà còn mang bản sắc văn hóa đặc trưng của văn hóa dân tộc, chợ gắn liền với cuộc sống, là không gian mua bán kết nối nhiều thành phần trong xã hội.

Chợ truyền thống – mang đến cảm xúc quen thuộc nhất, gần gũi – bình dị nhất, luôn tồn tại trong kí ức và cách sống của mỗi người dân Việt. Chợ truyền thống nói chung là tên gọi tập hợp cho nhiều loại chợ khác nhau. Tuy nhiên có thể phân chợ truyền thống thành hai loại dựa trên nghiên cứu của Maruyama và Trung (2007): chợ chính thống và chợ không chính thống. Chợ chính thống được quy hoạch và xây dựng có quy củ, trên phạm vi nhất định dưới sự đồng ý của chính quyền địa phương, ví dụ chợ Lớn, chợ đầu mối hay các chợ dân sinh theo từng quy mô của điểm dân cư đô thị. Chợ không chính thống: rất đa dạng, bao gồm chợ được xây dựng tự phát không có quy hoạch hoặc cơ chế quản lý thành văn, gắn với nhu cầu của từng địa phương và thường mang đậm bản sắc vùng miền, ví dụ như: chợ ‘cóc’, chợ xanh, chợ Rồng (bán tôm cá), chợ Viềng (Nam Định), chợ Tình khâu vai (Hà Giang), chợ nón (Gò Găng), chợ đan lát (Bình Định), chợ nổi miền Tây, chợ âm phủ (Đà Lạt), chợ chiếu Định Yên (Đồng Tháp) và còn hàng nghìn loại chợ với nhiều tên gọi đặc trưng khác nhau.

 Mặc dù các chợ hiện đại mang đến cho người ta sự tiện dụng, tiết kiệm quỹ thời gian mua sắm thì nó lại thiếu đi phần ‘hồn’. Phần ‘hồn’ này lại luôn sống trong các chợ truyền thống. ‘Hồn’ trong chợ truyền thống là sự trao đổi giữa người bán kẻ mua, sự trao đổi ở đây không đơn thuần là mua – bán, mà là sự nấn ná trong mỗi câu chuyện, ở trong chợ, đối tượng mua và bán như là hai người bạn. Người đi chợ có khi không phải vì muốn mua, mà đôi khi, là tìm người nói chuyện, giải tỏa cho nhau những áp lực thường ngày, hay chỉ đơn giản là thói quen tìm đến một nơi thân thuộc và gần gũi ngoài nhà. ‘Hồn’ của chợ truyền thống còn là không gian mở gắn bó với đời sống thiên nhiên, khiến người ta khi nghĩ về là có thể thấy được sự nhộn nhịp, hít hà được thứ mùi vị hỗn độn không đâu có được, rất sảng khoái, rất thư giãn, mùi vị đó cứ thế in đậm trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. ‘Hồn’ của chợ truyền thống hội tụ đầy đủ các yếu tố của một ‘nơi chốn’ thể hiện sự gắn kết phức tạp giữa con người với môi trường xung quanh. Hồn ở đây là bản sắc của nơi chốn và có được hồn của nơi chốn chốn chính là có cảm giác nơi chốn. Hồn – bản sắc của nơi chốn hay nơi chốn đều là sản phẩm kiến tạo của xã hội, nhưng là một sản phẩm xã hội kiến tạo để nhìn, hiểu và chiêm nghiệm thế giới xung quanh. Sự liên hệ này là lí do bài viết đưa ra nghiên cứu về ý nghĩa của nơi chốn chợ truyền thống ở các đô thị Việt Nam.

2. Khái niệm cơ bản

2.1. Xã hội kiến tạo nơi chốn

Trong tập sách ‘Giới thiệu chung về nơi chốn’, Cresswell (2014) đồng ý với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khác, cho rằng thuật ngữ nơi chốn đóng vai trò quan trong bậc nhất trọng nghiên cứu liên ngành ở thế kỷ 21. Chính vì có sức ảnh hưởng liên ngành như vậy nên nơi chốn được nhận định là thuật ngữ rất phức tạp và có nhiều liên đới, rất khó để đưa ra một khái niệm bao gộp đầy đủ các khía cạnh của thuật ngữ này. Tuy nhiên nhiều thập niên gần đây, nhận định: nơi chốn là sản phẩm xã hội kiến tạo trở nên phổ biến, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa, và ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu sử dụng nhận định này làm nền tảng lý thuyết cho các nghiên cứu và tham luận của họ (Doreen Massey, David Harvey, Jonh Agnew).

Nói rằng nơi chốn được kiến tạo một cách xã hội hóa có nghĩa rằng nó là một sản phẩm của một xã hội tồn tại và phát triển. Con người tích cực kiến tạo nơi chốn gắn liền với cuộc sống hằng ngày để phục vụ cho nhu cầu sinh tồn, an sinh và phát triển cân bằng nhiều khía cạnh tâm lý, văn hóa, kinh tế, chính trị, môi trường và thẩm mỹ. Tuy nhiên ở đây nơi chốn không phải được kiến tạo mang tính chất chủ quan hoàn toàn theo ý niệm tuyệt đối của một cá thể hay tổ chức, mà chịu ảnh hưởng mang tính hệ thống bởi yếu tố vật lý, chính trị và thể chế xã hội. Đứng dưới góc độ quy hoạch, nơi chốn thường được hiểu đơn thuần là tạo dựng không gian vật lý hay vật thể để gợi nên cảm giác về nơi chốn cho người sử dụng. Tuy nhiên đó là một cách hiểu phiến diện. Massey and Jess (1995) cho rằng, môi trường vật thể tất nhiên là một yếu tố không thể thiếu của nơi chốn tuy nhiên các yếu tố vật thể luôn luôn được cảm nhận, giải thích, suy luận và nhận thức ở mỗi xã hội bởi mỗi cá nhân khác nhau. Và tất nhiên mỗi cá nhân không thể tự ý xây dựng nơi chốn độc lập trên ý niệm tuyệt đối của bản thân. Harvey (1996) cho rằng, việc xã hội kiến tạo nơi chốn cần phải phản hồi tới các yếu tố khách quan của mỗi xã hội khác nhau mà cá nhân hoặc tổ chức hiện hữu trong đó. Nói một cách triết lý như Malpas (1999) và xã hội hóa kiến tạo nơi chốn là một kiến tạo cốt lõi trong sự hiện hữu của con người.

 Xây dựng lý thuyết về nơi chốn xã hội kiến tạo cần phải đề cập đến thuật ngữ “không gian” (space). Có rất nhiều cuộc tranh luận về nguồn gốc triết học của hai cụm từ nơi chốn và không gian bởi tính phức tạp của hai thuật ngữ này. Tác giả vận dụng theo suy nghĩ của Agnew (1987) rằng, nơi chốn là một không gian đã được gắn nghĩa hoặc là một địa điểm có ý nghĩa. Agnew (1987) đưa ra một khung tham chiếu lý thuyết về thuật ngữ nơi chốn, bao gồm: địa điểm tọa độ địa lý (location), vật thể hiện hữu (locale) và cảm giác nơi chốn (sense of place). Khung tham chiếu này gần giống như thuật ngữ không gian xã hội (social space) của (Lefebvre, 1991). Trong quyển sách ‘Sự sản xuất không gian’, Lefebvre cho rằng không gian xã hội được sản xuất (producted) và kiến tạo (constructed) trên hai phương diện vật thể (physical materials) và ý nghĩa (meaning). Nói một cách khác, không gian xã hội của Lefebvre chính là một tên gọi khác của nơi chốn (place). Như vậy, nơi chốn là một bước phát triển của không gian bởi tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra trong không gian. Hay nói cách khác, nơi chốn là một trật tự khác của không gian và không thể dùng thay cho nhau được (Easthope, 2004).

 Nơi chốn, tới đây được quan niệm ở hai phương diện tồn tại song song: phương diện vật thể vật lý và phương diện ý nghĩa. Có thể dùng định lượng và định tính trong việc hình dung về nơi chốn như Barque (trích trong Sepe, 2013) thừa nhận. Theo Barque, nói đến nơi chốn là nói đến hai khía cạnh cùng tồn tại. Một khía cạnh là định lượng (quantitative) mang tính vật thể, sinh thể và có thể tính toán lượng hóa được. Khía cạnh còn lại là định tính (qualitative) mang tính chất phi vật thể, hiện tượng, ý nghĩa và khó có thể tính toán lượng hóa được. Cùng phân tích trong hai phương diện này, Soja (1999) đưa ra các thuật ngữ không gian thứ nhất (firstspace) là không gian vật thể hay không gian thật ‘real’ và không gian thứ hai (secondspace) là không gian tưởng tượng mang tính chủ quan. Thông qua hai phương diện này, ông đưa ra thuật ngữ không gian thứ ba (thirdspace) đó là không gian sống, không gian thực hành và không gian của con người luôn phát triển. Ý tưởng này của Soja đưa ra một hướng nhìn nhận mới về nơi chốn trong bối cảnh chính trị liên đới. Đó là việc nghiên cứu nơi chốn vượt ra khuôn khổ của tư duy nhị nguyên (dualistic thinking), không chỉ đơn thuần là vật thể/tinh thần mà là sự sống, thực hành và không bao giờ ‘hoàn thành tuyệt đối’.

 2.2. Bản sắc nơi chốn và cảm giác nơi chốn

Xã hội luôn kiến tạo, vận hành và phát triển, nơi chốn cũng vậy. Nơi chốn luôn sống động, được kiến tạo và kiến tạo lại theo từng thăng bậc của quá trình phát triển. Nơi chốn là cách mà con người xây dựng thế giới quan, nhìn nhận sự vật theo từng lớp ý nghĩa và nhiều cung bậc cảm xúc, tâm tư và tình cảm khác nhau. Nơi chốn cũng đồng thời là cách mà con người trải nghiệm thế giới, và ở một mức độ cơ bản, nơi chốn là không gian được chúng ta “đầu tư” với ý nghĩa và chiêm nghiệm trong một ngữ cảnh quyền lực nhất định (Cresswell, 2014). Chính vì vậy, trong việc nghiên cứu quy hoạch phát triển bền vững chợ truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi chốn được xem như một nền tảng lý thuyết cơ bản, cung cấp các giả thuyết, luận đề và các khung tham chiếu giải thích mối liên hệ và sự kết nối giữa con người với không gian môi trường bên ngoài. Hai trong những thuật ngữ then chốt trong nghiên cứu nơi chốn đó là cảm giác về nơi chốn “sense of place” và bản sắc của nơi chốn “pace identity”. Hai khía cạnh này cũng là trọng tâm nghiên cứu trong quy hoạch không gian ở nhiều tỉ lệ khác nhau. Quy hoạch một không gian đậm đà bản sắc và gợi lên được cảm giác về nơi chốn đã đi vào các lý thuyết quy hoạch xây dựng, các văn bản pháp lý quy hoạch và các chính sách quy hoạch ở Việt Nam, cũng như được thực hành rộng rãi.

Tương tự như thuật ngữ nơi chốn, bản sắc và cảm giác nơi chốn so về mức độ phức tạp cũng không kém nhau là mấy. Tuy nhiên ở một góc độ căn bản, có thể hiểu là bản sắc của nơi chốn và cảm giác về nơi chốn đều phản chiếu mối liên kết giữa con người với thế giới bên ngoài. Hay nói cách khác là sự liên kết giữa cái tinh thần (the mind) và môi trường xung quanh (material environment) thông qua các trải nghiệm của các giác quan của từng cá thể (the body). Hầu hết các nghiên cứu về nơi chốn đều thừa nhận rằng, sự gắn kết tinh thần của con người đối với một không gian nào đó chính là căn nguyên của sự hình thành bản sắc nơi chốn cũng như cảm giác nơi chốn (Cresswell, 2014; Easthope, 2004; Tuan, 1974). Tuan (1974) đã xây dựng thuật ngữ “topophilia” để thể hiện mối liên kết về mặt cảm xúc và tình cảm của con người (the bond) với một địa điểm nào đó. Chính nhờ sự liên kết này mà mỗi cá nhân có thể phân biệt sự khác nhau giữa các không gian, cảm nhận và hiểu được được bản sắc của nơi chốn.

Trong việc truyền tải và gìn giữ những giá trị kiến tạo trong quy hoạch, cảm giác về nơi chốn đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu đứng trên quan điểm nơi chốn là xã hội hóa kiến tạo thì quá trình hình thành cảm giác nơi chốn và khai thác các yếu tố làm tăng thêm cảm giác đó chính là bước căn bản của sự kiến tạo xã hội nơi chốn. Một địa điểm hoặc một không gian về bản chất không có có bất cứ ý nghĩa tiền sinh nào khi không có sự hiện hữu của con người (Harvey, 1996). Ở đây cần phải hiểu là cảm giác nơi chốn hình thành, thăng hoa hay phai mờ gắn liền với cuộc sống hằng ngày và quá trình này theo như Rose (trích trong Easthope, 2004) đan xen một cách vô thức trong trải nghiệm thường ngày của mỗi cá nhân. Rose lập luận rằng hình thành cảm giác nơi chốn: một, là bản năng sinh tồn của mỗi cá nhân; hai, là sự nhận thức về đặc trưng văn hóa mà cá nhân hình thành để tương phản, chiêm nghiệm với thế giới xung quanh, và ba là một đặc tính thể hiện bản lĩnh chính trị mà cá nhân dùng để thể chứng tỏ sự hiện hữu, cá tính của bản thân so với cá nhân khác trong xã hội. Như vậy cảm giác nơi chốn mang tính trừu tượng và cũng rất đa dạng bởi mỗi cá nhân khác nhau về giới tính, tôn giáo, trải nghiệm thế giới, trình độ văn hóa… sẽ có những trải nghiệm khác nhau về cảm giác, nhận thức về cùng một địa điểm. Tuy nhiên Rose (1995) cho rằng mặc dù cảm giác về nơi chốn mang tính cá nhân như vậy nhưng nó được chi phối và định hình bởi các yếu tố cấu trúc hệ thống như: bối cảnh xã hội – chính trị và thể chế văn hóa – kinh tế.

Như vậy có thể thấy rằng, để hình thành nên sợi dây liên kết giữa cá nhân với môi trường xung quanh hay nói cách khác để biến một không gian vô nghĩa thành một nơi chốn có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân, cần phải có ba thành tố, theo Relph (1976) đó là: đặc điểm diện mạo vật lý – dạng thức và hình thể; chức năng của không gian và các hoạt động trong không gian; và các ý nghĩa và biểu trưng. Hay tạm hiểu theo cách của Southworth and Ruggeri (2010) đó là ba thành tố liên quan đến giá trị về trực giác (visual significance), cá nhân (individuals) và các giá trị kiến tạo của xã hội (social meanings). Theo hai tác giả bản sắc hay đặc trưng của nơi chốn được thể hiện toàn diện và thuyết phục nhất khi ba thành tố này hội tụ và thể hiện phạm quy ảnh hưởng tương đương nhau. Tuy nhiên, để cân bằng sự đầu tư cho ba thành tố trên không hề dễ, đặc biệt là dưới sự tác động của quá trình toàn cầu hóa. Thực tế là xây dựng được cảm giác mạnh mẽ về nơi chốn sẽ đem lại cho mỗi cá nhân hoặc mỗi cộng đồng sự an toàn, kết nối, sự thoải mái và cảm giác thuộc về. Những giá trị tích cực này một mặt đem lại cho cá nhân và cộng đồng động lực và quyền năng để bảo vệ nơi chốn, nơi đã mang lại cho họ những lợi ích to lớn. Mặc khác cũng chính những giá trị kiến tạo này có thể sẽ khiến cho cá nhân và cộng đồng khó thích ứng được với những thay đổi mà quá trình toàn cầu hóa dẫn đến. Điều này hình thành nên các tư tưởng định kiến cho rằng quá trình thay đổi sẽ làm xói mòn cảm giác nơi chốn và các giá trị về bản sắc nơi chốn trong trường hợp này sẽ được dùng để kiến tạo sự khác biệt giữa “chúng tôi” (us) và “họ” (them).

Relph (1976) cho rằng, tình trạng không nơi chốn “placelessness” làm suy thoái bản sắc nơi chốn trong bối cảnh xã hội – kinh tế phương Tây dưới lực tác động liên tục của sự đồng hóa (homogeneity), tiêu chuẩn hóa (standardisation) và các ràng buộc kinh tế – chính trị. Đồng quan điểm với Relp, Tsing (trích trong Cresswell 2014) lập luận rằng, quá trình toàn cầu hóa hoạt động dựa trên nguyên tắc phổ biến khoa học toàn cầu, cấp nguồn vốn lưu động và lan truyền hệ tư tưởng tự chính trị dân chủ tự do. Tsing đưa ra ví dụ là để trở nên phổ biến quy mô toàn cầu, nguồn vốn lưu động (mobile capital) phải được rải khắp mọi nơi, và để thấy được sự lan tỏa nguồn vốn này, nó phải được chuyển tải thành vật chất hiện hữu ở một nơi nào đó. Quá trình này theo Tsing sẽ tạo ra lực “ma sát” (friction), là sự cọ xát giữa sản phẩm vật chất toàn cầu hóa ví dụ các siêu thị, các trung tâm thương mại bao gồm các chuỗi cửa hàng thương hiệu và các phức hợp cao ốc văn phòng, với một địa điểm cụ thể ở các quốc gia tiếp nhận. Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào chính sách nơi chốn của quốc gia tiếp nhận. Relp lo sợ rằng các không gian sản sinh ra từ các vật chất toàn cầu hóa, ví dụ như thiết kế của một công trình cho đến một khu dân cư, một thành phố trở nên giống nhau về thị giác lẫn cảm nhận.

Như vậy có thể thấy ở đây có sự phát triển mang tính đối lập và tính bài trừ. Đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển thì hiện tượng này đang diễn ra mạnh mẽ hơn hết. Một mặt các quốc gia này phải tạo điều kiện để quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng – giảm lực “ma sát” – thông qua việc xây dựng các không gian theo các tiêu chuẩn toàn cầu và tất nhiên sẽ vấp phải tư tưởng “cái của chúng tôi” và “cái của họ”, mặt khác phải đối diện thử thách phát triển bền vững các giá trị truyền thống cụ thể là sự xói mòn của bản sắc nơi chốn và cảm giác nơi chốn.

Đến đây, bài viết đã thảo luận những vấn đề thuộc về bản chất của nơi chốn và sự kiến tạo xã hội hóa của nơi chốn trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển bền vững thông qua hai thuật ngữ hiện hữu của nơi chốn đó là bản sắc nơi chốn và cảm giác nơi chốn. Qua đó làm tiền đề để thảo luận ý nghĩa hết sức quan trọng của nơi chốn trong việc nghiên cứu về quy hoạch phát triển chợ truyền thống ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển bền vững.

3. Ý nghĩa của nơi chốn trong nghiên cứu chợ truyền thống

3.1. Chợ truyền thống – nơi chốn hiện hữu với cộng đồng tưởng tượng ‘Tổ quốc’

 Trong lãnh hội quan điểm nơi chốn là một không gian đã được gắn nghĩa thông qua quá trình xã hội kiến tạo, thì chợ truyền thống hội tụ đầy đủ các yếu tố là một không gian được xã hội kiến tạo, là một nơi chốn quen thuộc tạo nên bản sắc của của người Việt. Chợ truyền thống được ra đời cùng với sự hiện hữu của các dân tộc Việt Nam. Nhu cầu trao đổi, buôn bán các nhu yếu phẩm cơ bản, nhu cầu giao tiếp và kết nối là những nhu cầu sinh tồn căn bản của con người (Maslow, 1943). Chợ hình thành là bởi sự cần thiết cho sự sinh tồn của các cộng đồng người Việt dù là ở khu vực nông thôn, làng, bản hay trong các khu dân cư ở các đô thị hay thậm chí các cộng đồng người Việt sinh sống ở nước ngoài. Ví dụ Cabramatta là một địa điểm người Việt tập trung nhiều nhất ở bang New South Wale nước Úc, là một chợ nổi tiếng mang sắc thái riêng của người Việt sinh sống tại quốc gia này (Conroy, 2004). Hoặc chợ ‘Sài Gòn thu nhỏ’ (Little Sài Gòn) nổi tiếng vì đậm bản sắc người Việt ở các tiểu bang tại Mỹ, Canada và Pháp (Bui, 2013; Kim, 2020). Cho dù đi đến đâu, định cư ở bất cứ địa điểm nào thì nhu cầu họp, nhóm chợ vẫn là một đặc tính hiện hữu không thể thiếu của người Việt.

Giá trị của chợ truyền thống như một nơi chốn cấu thành nên bản sắc của đất nước, con người Việt Nam. Theo Anderson (2006), bản chất của ‘đất nước’ (nation) là một cộng đồng tưởng tượng (immagined community). Theo ông, ‘đất nước’ được xã hội hóa kiến tạo thông việc cá nhân không có bất cứ một điểm chung nào trong cộng đồng tin rằng hay ‘tưởng tượng’ rằng họ được kết nối với nhau bằng ý tưởng một quốc gia như một nơi chốn, thông qua sự đồng lòng, hợp tác và tin tưởng lẫn nhau. Ở Việt Nam, cộng đồng tưởng tượng ở đây có thể là ‘Tổ quốc’. “Tổ quốc” kiến tạo trong tâm trí của người Việt để củng cố hình ảnh, đất nước con người và 54 dân tộc thống nhất nhờ các thủ pháp bao gồm quốc cờ, quốc ca, quốc ngữ, tiền tệ, ngày quốc tổ, ngày quốc khánh và ngày quốc lễ. Trong ngữ cảnh này, chợ nên được xem là nơi chốn củng cố sức tưởng tượng cộng đồng thống nhất Việt Nam. Chợ là một nơi chốn trong nơi chốn ‘nước nhà’. Chợ xuất hiện trên mọi vùng miền của Tổ quốc, là nơi mà tất cả các thủ pháp kiến tạo cộng đồng tưởng tượng hiện hữu và thể hiện quyền năng.

3.2. Chợ truyền thống – nơi chốn phản chiếu lối sống và cách hiểu của người Việt

Trong nghiên cứu quy hoạch chợ truyền thống, điều quan trọng là các nhà thực hiện công tác quy hoạch xác định giá trị của chợ truyền thống và tiếp cận các không gian gán nghĩa này như thế nào. Tiếp cận chợ truyền thống trên quan điểm đó là một không gian được hình thành và quy hoạch như một không gian chức năng trong đô thị hoặc vùng, hay là một nơi chốn cần thiết cho động lực phát triển kinh tế – xã hội hoàn toàn khác với việc tiếp cận chợ truyền thống là hiện hữu cùng với sự hiện hữu của cộng đồng người Việt. Cách tiếp cận thứ nhất phản chiếu môi trường quyết định luận (environmental determinism) – môi trường vật lý hoặc môi trường xây dựng quyết định sự hình thành và phát triển hành vi văn hóa và xã hội (Brooke, 2019; Taylor, 1998). Dưới cách tiếp cận này, chợ truyền thống được xem như là một không gian kiến trúc cảnh quan (landscape) được sắp xếp và quy hoạch theo phương pháp tổng thể hợp lý. Bản chất của phương pháp này là thiết kế chợ (design out), là công tác tổ chức và sắp xếp cảnh quan trên bề mặt của một không gian trống hoặc chiếm hữu, và không gian này sẽ được nghiên cứu, định hình và xây dựng bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn đúc kết từ các lý thuyết về kinh tế – môi trường – kỹ thuật. Với cách tiếp cận này, chợ được xem là một đối tượng có thể quan sát thiết kế từ ‘bên ngoài’ (outsideness). Chỉ cần phân tích hợp lý các yếu tố: hành vi, văn hóa, kinh tế – xã hội và tuân thủ các nguyên tắc thiết kế hợp lý cùng với các tiêu chuẩn kinh tế xã hội và kỹ thuật là các nhà nghiên cứu quy hoạch có thể xây dựng nên một không gian chợ được xem là phù hợp với nhu cầu của người sử dụng. Tuy nhiên, việc tiếp cận và xem chợ như một ‘thứ’ (thing) như trên sẽ đem lại huệ lụy nghiêm trọng đó là sản sinh ra những không gian “không nơi chốn” (placelessness). Bởi vì về căn bản, bản sắc của nơi chốn không được truyền tải do các thành tố của nơi chốn không được thể hiện vai trò tương đương nhau. Như đã phân tích ở mục 3, bản sắc của nơi chốn được cấu thành bởi ba thành tố căn bản: vật thể – trực giác, hoạt động – chức năng quan sát được, và ý nghĩa của xã hội. Nhưng với cách tiếp cận như trên đã đưa thành tố vật thể trực giác làm thành tố nền trong khi hai thành tố còn lại chỉ được gán vào một cách lỏng lẻo. Đặc biệt, trong bối cảnh của toàn cầu hóa khi mà các vật thể toàn cầu như siêu thị và trung tâm thương mại được cho là không gian phù hợp hơn trong nhịp sống hiện đại, thì hai thành tố còn lại thường bị xem nhẹ.

Chợ truyền thống đồng thời bị đem ra so sánh với các siêu thị và trung tâm thương mại. Các tiêu chí thiết kế của các không gian, các hành vi sử dụng không gian và các hành vi tương tác giữa các cá nhân trong các không gian toàn cầu này được áp dụng nghiên cứu cho công tác cải tạo chợ truyền thống hoặc ngược lại các tiêu chí này được dùng để tăng lợi ích kinh tế cho các siêu thị và trung tâm thương mại.

Tuy nhiên, về bản chất không thể lập phép so sánh và nếu cố gán ép việc so sánh này thì không gian “không nơi chốn” sẽ tiếp tục được nhân bản. Bản sắc nơi chốn chợ truyền thống dần biến mất trong khi ‘tính không đích thực’ (inauthenticity) của không gian siêu thị và trung tâm thương mại trở nên phổ biến. Ví dụ việc xây dựng mới chợ Cửa Nam và chợ Hàng Da trên địa bàn thành phố Hà Nội (Geertman, 2011). Mặc dầu tên gọi vẫn là chợ nhưng thực tế bản sắc nơi chốn của hai không gian này đã không còn là một nơi chốn chợ truyền thống đích thực (authenticity).

Để tránh hiện tượng này, cách tiếp cận thứ hai bền vững hơn là nên xem chợ truyền thống như một nơi chốn phản chiếu cách sống, cách hiểu con người và văn hóa Việt. Khi ta bác bỏ quan niệm chợ là một ‘thứ’ không gian chức năng thay vào đó nội thức hóa chợ truyền thống là lối sống của người Việt (a Viet’s way of life), là lăng kính mà cá nhân có thể dựa vào đó để nhìn, biết và hiểu thế giới (a Viet’s way of knowing) thông qua đó kiến tạo ý nghĩa cuộc sống hằng ngày. Điều đó đồng nghĩa với việc tiếp cận chợ truyền thống qua lăng kính của hiện tượng học: chợ là một hiện tượng đặc trưng của người Việt, tạo nên bản sắc hiện hữu (existential identity) của con người Việt Nam. Ở đây hiện tượng học nơi chốn là phương pháp nhấn mạnh những sự miêu tả và giải thích chân thật sống động các kinh nghiệm, nhận thức và ý nghĩa của con người trong nơi chốn mà thường không được chú ý hoặc xem là điểu hiển nhiên, đại chúng (Seamon, 2018). Theo Cresswell (2014) khi ta nhìn thế giới là sự bao gộp nhiều nơi chốn khác nhau ta sẽ hiểu thế giới ở một nghĩa khác theo. Suy ra nếu ta nhìn chợ truyền thống là một nơi chốn tổng hòa (assembling place) các mối quan hệ tương tác giàu ý nghĩa giữa con người và môi trường xung quanh, kết tụ thành sản phẩm tinh hoa văn hóa và cảm giác thuộc về, sẽ giải phóng chúng ta khỏi các suy nghĩ về sự tương tác mang tính chức năng tầm thường, các thông số kinh tế hợp lý và sự kiện hằng ngày hời hợt.

 Khi nghiên cứu chợ truyền thống câu hỏi đặt ra ở đây không phải là chợ này có đặc trưng gì cần gìn giữ, hay bản sắc, linh hồn của chợ này là gì, mà câu hỏi ở đây phải là điều gì đã kiến tạo nên đặc trưng, bản sắc và linh hồn của chợ và điều gì duy trì quá trình kiến tạo này. Với cách tiếp cận hiện tượng học thì khi nghiên cứu quy hoạch chợ truyền thống, gìn giữ bản sắc của chợ cũng như là liên tục kiến tạo nên cảm giác nơi chốn của chợ phải tiếp cận đa chiều và tích hợp, nghiên cứu song song trên cả ba thành tố cấu thành bản sắc nơi chốn. Đặc biệt là sự hòa mình của người nghiên cứu văn hóa và hành vi tương tác của cá nhân trong chợ trong quá trình nghiên cứu và đồng thời kết hợp với những phương pháp quan sát tương phản, phỏng vấn chuyên sâu, phản tư và chiêm nghiệm các hiện tượng thông thường trong không gian chợ. Thực tế là công tác quy hoạch ở Việt Nam nói chung thường bỏ qua, hoặc công tác này chỉ mang tính chất hình thức. Phải xác định rằng những trải nghiệm sống (lived experience) hoặc ý nghĩa kiến tạo của các trải nghiệm sống (experientally lived meanings) chỉ có những người trong cuộc (insiders) mới cảm nhận, hiểu và lĩnh hội được.

3.3. Vị trí của người nghiên cứu trong chợ truyền thống

Trên quan điểm của xã hội hóa kiến tạo nơi chốn thì bản sắc của nơi chốn cũng là sản phẩm kiến tạo của xã hội. Điều đó có nghĩa là cả ba thành tố của bản sắc của chợ đều là sản phẩm kiến tạo xã hội. Mỗi cộng đồng sẽ kiến tạo bản sắc riêng của chợ nơi cộng đồng đó sinh sống và bản sắc này thể hiện qua hình thức công trình kiến trúc, vật thể xây dựng, qua cảnh quan không gian, thể hiện qua hành vi và văn hóa, đặc tính của mỗi cá nhân và thể hiện qua các tập hợp ý nghĩa của cộng đồng bao gồm các thể chế thành văn như các quy định pháp luật, các quy định của tổ chức đến những thể chế, quy tắc không thành văn như những thể lệ địa phương, định kiến xã hội, hay những mẩu chuyện thường này. Cho nên quy hoạch phát triển bền vững chợ truyền thống chính là quy hoạch bảo tồn, duy trì và phát huy bản sắc của chợ truyền thống trong bối cảnh liên tục vận động, phát triển của xã hội và toàn cầu hóa.

 Với nhận định như vậy, vị trí của người nghiên cứu cần phải được xác định rõ ràng trong mối liên hệ với ba thành tố của bản sắc nơi chốn. Vị trí của người nghiên cứu ở đây là làm rõ người nghiên cứu là ai và đứng trên quan điểm nào để tiếp cận chợ. Relph (1976) đã phân biệt sự khác nhau căn bản giữa sự trải nghiệm bên trong và bên ngoài của những trải nghiệm nơi chốn của con người. Ông đưa ra hai thái cực là hiện hữu bên ngoài (existential outsideness) và hiện hữu bên trong (existential insideness) và nằm giữa hai thái cực này còn nhiều trải nghiệm bản sắc nơi chốn khác. Hiện hữu bên trong một nơi chốn là thuộc về nó, nhận dạng với và cấu thành nên bản sắc nơi chốn và có được cảm giác nơi chốn một cách vô thức. Trong khi hiện hữu bên ngoài là không có sự gắn kết nào đến nơi chốn nghiên cứu, xem nơi chốn như là một không gian nền cho các hoạt động trong cuộc sống và không có bất cứ ý nghĩa gắn kết giữa không gian với cá nhân. Ví dụ, một người phụ nữ bán hàng trong chợ là người có trải nghiệm hiện hữu bên trong trong khi một du khách lần đầu tiên đến mua đồ tại chợ là người có trải nghiệm hiện hữu bên ngoài. Tuy nhiên, đấy mới chỉ là cách suy luận hời hợt dựa trên những phán đoán duy lý bởi vì khi đào sâu vào luận điểm trên thì có nhiều khả năng khác.

Ví dụ như người phụ nữ bán hàng tại chợ có thể đây là lần đầu tham gia buôn bán tại chợ, trong khi người du khách tuy là lần đầu vào chợ nhưng đã có cả một quãng thời gian dài trải nghiệm chợ, nhận thức về chợ và am hiểu về chợ. Có thể tìm ra rất nhiều giả thuyết khác nữa. Nói như vậy để thấy được rằng nếu người nghiên cứu quy hoạch chợ có trải nghiệm sống khác nhau sẽ có cách nhìn nhận vấn đề khác nhau. Một nhà quy hoạch là phụ nữ thể hiện hai vị trí vừa là người hiện hữu bên trong xem chợ là một phần không thể thiếu trong việc chăm sóc gia đình, vừa là người tiếp cận chợ trên quan điểm là một nhà quy hoạch chuyên nghiệp và có thể có nhiều yếu tố khác như: niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng, truyền thống gia đình và các giá trị chính trị – xã hội – môi trường mà bản thân tôn trọng. Vậy còn đối với các đối tượng khác nhau về độ tuổi, môi trường sống (đô thị và nông thôn), dân tộc, trình độ văn hóa, giới tính, tín ngưỡng… thì trải nghiệm bản sắc của chợ như thế nào? Và làm thế nào để duy trì cảm giác nơi chốn trong từng cá nhân như vậy?

 Để trả lời câu hỏi này, hiện tượng học nơi chốn đưa ra tính ý hướng (intentionality) và tính đích thực (authenticity). Nói như Relph (1976), chúng ta trải nghiệm và cảm nhận bản sắc nơi chốn như thế nào phụ thuộc vào ý định (intention) của chúng ta và các ý định này có thể chồng chéo ảnh hưởng lẫn nhau. Điều đó có nghĩa là trong việc lựa chọn các giá trị nào của chợ để trân trọng, nâng niu, cải tạo và bảo tồn, quyết định như thế nào là phụ thuộc vào ý hướng chủ quan của nhà quy hoạch. Nếu xem chợ là không gian chức năng, là nền cho các hoạt động trong cuộc sống khác diễn ra và vị trí của người nghiên cứu là quan sát từ bên ngoài thì đồng nghĩa với việc chấp nhận hình thành các không gian chợ không đích thực cũng như cổ vũ các thái độ và nhận thức “không đích thực” (inauthentic attitude) hời hợt và nông cạn và kết quả là không gian “không nơi chốn” hình thành (chợ Hôm, chợ Cửa Nam, chợ Hàng Da). Còn nến xem chợ là hiện hữu cùng với hiện hữu của người Việt đòi hỏi sự “ngâm mình” (immersion) của người nghiên cứu và xem đóng góp của từng cá nhân trong cộng đồng về chợ là điều không thể thiếu, đồng nghĩa với việc kiến tạo tính đích thực (authnticity) trong nhận thức, thái độ và hành vi trong mối liên hệ với nơi chốn và bản sắc của nơi chốn.

3.4. Chợ truyền thống – nơi chốn được kiến tạo và kiến tạo lại liên tục

Massey (2008) đã nhận định, nơi chốn và bản sắc nơi chốn không phải là cố định hay bất biến mà luôn là một quá trình tiến hóa cấp tiến (progressive place) cùng với thời gian. Khai thác quan điểm này, Cresswell (2014) cho rằng nơi chốn luôn có tính mở – hội nhập, được thực hành và sống cùng với sự phát triển của xã hội. Rõ ràng, chợ truyền thống là nơi tổng hòa các tập hợp mối quan hệ giàu ý nghĩa và phức tạp giữa người mua với người bán và giữa người với vật thể xếp đặt trong chợ và giữa người với môi trường xung quanh. Những mối quan hệ này không phải bất động hoặc bị đóng băng trong khung thời gian tĩnh tại mà luôn luôn vận động, biến đổi và tiến hóa dưới tác động của nền kinh tế thị trường – hàng hóa, biểu hiện qua sự giao thoa văn hóa đại chúng (mass culture), công nghệ truyền thông (mass communication), quyền năng của các nhóm lợi ích, thậm chí các hiện tượng cực đoan như đại dịch.

 Sự phát triển của các siêu thị trung tâm thương mại, các cửa hàng tiện lợi thương hiệu toàn cầu và sự thay đổi lối sống và hành vi mua sắm của cá nhân có tác động đến sự phát triển cục bộ của chợ, tuy nhiên những tác động này không nên xem là tiêu cực mà xác định đó là xu thế tất yếu của quá trình hòa nhập. Và đôi khi như Easthope (2004) và Relph (1976) cho rằng bản sắc và cảm giác nơi chốn sẽ được thể hiện trung thực và rõ nét hơn khi có sự tương tác, cọ xát giữa nhiều trải nghiệm không gian khác nhau. Do đó, Massey (2008) và Soja (1999) cho rằng cần phải xem xét lại tính đích thực của bản sắc nơi chốn trong bối cảnh phức tạp của toàn cầu hóa và không nhất thiết phải tạo ra ranh giới rõ ràng giữa các thái cực như bên trong/bên ngoài (insideness/outsideness) hay chúng ta/bọn họ (us/them) bởi vì việc tạo ra những ranh giới như vậy sẽ đưa ra thông điệp rằng bản sắc nơi chốn dễ bị tổn thương và tạo ra định kiến rằng quá trình phát triển là sự đe dọa nghiêm trọng đến bản sắc nơi chốn.

 Chính vì nơi chốn có tính mở, sống và được kiến tạo liên tục như vậy nên bản sắc hay đặc trưng của nơi chốn không chỉ có một mà đa dạng và luôn có sự xung đột và thỏa hiệp. Bản sắc của nơi chốn được kiến tạo bởi các “lớp” xếp chồng chéo lên nhau theo các cách kết hợp đa dạng (Massey, 2008). Trong ngữ cảnh này có thể thấy được bản sắc nơi chốn của chợ truyền thống luôn có sự xung đột và cọ xát giữa các quan điểm của các cộng đồng khác nhau. Nhà thiết kế xây dựng đô thị muốn tạo ra không gian vật thể theo các thông số kinh tế kỹ thuật duy lý, nhà quản lý đô thị mong muốn tạo ra cơ chế hoạt động chợ hiệu quả, quản lý và điều tiết các hoạt động trong chợ, nhà nghiên cứu bảo tồn chợ mong muốn giữ những giá trị lịch sử cố hữu của chợ, các vật thể hoặc công trình biểu trưng của chợ, xem chợ như một bảo tàng lưu giữ các giá trị cổ truyền, các nhà đầu tư hay các tập đoàn kinh tế luôn ưu tiên giữ lợi nhuận và các cơ hội sinh lời trong các quyết định đầu tư phát triển chợ, trong khi các nhà hoạt động xã hội nhấn mạnh vào các quan hệ xã hội phức tạp trong chợ và trong mối liên hệ với chợ, hay các nhà nghiên cứu quyền phụ nữ có thể cho rằng bản sắc của chợ chính là được tạo ra từ những người phụ nữ Việt, gắn với phụ nữ Việt và đôi khi cho rằng chợ là khởi nguồn của bất bình đẳng giới gắn vai trò của người phụ nữ với công việc “chợ búa”, chăm sóc gia đình hoặc xem rằng sự lôn xộn, bừa bãi và ồn ào của chợ cũng chính là đặc tính của nữ tính (feminine identities). Tất cả những ý tưởng trên đều đóng góp cho bản sắc của chợ và tất cả đều không bất biết, luôn tiến hóa theo nhịp phát triển của thời đại.

4. Kết luận

Vai trò hiện hữu của nơi chốn – chợ truyền thống trong sự hiện hữu của người Việt được thảo luận trong bài viết thông qua lăng kính của hiện tượng học và xã hội hóa kiến tạo. Tác giả đã phân tích, gạn lọc và tổng hợp những kết quả nghiên cứu được trích dẫn rộng rãi trong lĩnh vực triết học, địa lý nhân văn, xã hội học từ các học giả nổi tiếng như Eward Relph, Doreen Massey, Malpas J. E., Martin Heddigers, Yi-Fu Tuan và Tim Cresswell. Thêm vào đó là các công trình nghiên cứu và các bài tham luận về các vấn đề đô thị và trong phạm vi con người – môi trường tương tác từ đó đưa ra một khung lý thuyết cơ bản bao gồm các thuật ngữ, khái niệm và các thành tố cấu thành về nơi chốn, bản sắc nơi chốn và cảm giác nơi chốn cho các nghiên cứu quy hoạch phát triển chợ truyền thống bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Thông qua đó, tác giả đã phát hiện ra nhiều vấn đề trong công tác quy hoạch chợ truyền thống hiện tại cần phải xem xét. Đó là vấn đề về xác định giá trị của chợ truyền thống để từ đó có hướng tiếp cận quy hoạch theo môi trường quyết định luận hay theo hiện tượng học; vấn đề về vị trí của người nghiên cứu trong mối liên hệ với chợ truyền thống; các vấn đề trong nhìn nhận chợ truyền thống luôn vận động tiến hóa cùng với sự tiến hóa của xã hội và con người Việt Nam; và các vấn đề về sự đa dạng của bản sắc chợ, bản sắc đích thực của chợ trong sự bùng nổ của nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa. Do đó, bài viết mong muốn trong tương lai sẽ có nhiều nghiên cứu duy trì, bảo tồn, tôn tạo và phát triển chợ truyền thống khai thác ‘nơi chốn’ để làm căn cứ lý thuyết khoa học cũng như khuyến khích các nhà nghiên cứu tiếp cận vấn đề trên quan điểm hiện tượng học và xã hội hóa kiến tạo nơi chốn để thấy được sự đa dạng, nhiều màu sắc và giàu ý nghĩa nhân văn của thuật ngữ mang tính ‘hiện hữu’ (existential) này.

LÊ ĐÌNH PHƯỚC * ĐỖ MINH HUYỀN**

Tài liệu tham khảo

1. Agnew, J. A. (1987). Place and politics the geographical mediation of state and society.

2. Anderson, B. (2006). Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism. London and New York: Verso.

3. Brooke, J. L. (2019). Environmental determinism. In Oxford Bibliographies.

4. Bui, V. P. (2013). 25 năm Little Saigon. Retrieved 16/08/2021, from BBC Vietnam https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2013/06/130621_little_saigon_anniversary

5. Conroy, S. (2004). Cabramatta common. Australian Planner, 41(3), 23-26.

 6. Cresswell, T. (2014). Place: an introduction. USA: Wiley-Blackwell.

7. Easthope, H. (2004). A place called home. Housing, Theory and Society, 21(3), 128-138.

 8. Geertman, S. (2011). Hà Nội – Chợ dân sinh, lối sống và sức khỏe cộng đồng bị đe dọa Retrieved from https://ashui.com/mag/tuongtac/phanbien/4378-ha-noi-cho-dan-sinh-loi-song-vasuc-khoe-cong-dong-bi-de-doa.html

9. Harvey, D. (1996). Space, time and place. In Justice, Nature and the Geography of Difference (pp. 207-328). Cambridge: Blackwell Publishers.

10. Kim, C. K. (2020). Little Saigon – A Cultural Heritage Site. Retrieved 16/08/2020, from Preserve orange county https://www.preserveorangecounty.org/tracts/2020/2/13/little-saigonconservation-of-a-cultural-community

 11. Lefebvre, H. (1991). The Production of Space. Oxford: Blackwell Publishing.

12. Malpas, J. E. (1999). Introduction: the influence of place. In Place and Experience: A philosophical Topography (pp. 1-18). Cambridge: Cambridge University Press.

13. Maruyama, M., & Trung, L. V. (2007). Traditional bazaar or supermarkets: a probit analysis of affluent consumer perceptions in Hanoi. International Review of Retail, Distribution and Consumer Research, 17(3), 233-252.

 14. Maslow, A. H. (1943). A theory of human motivation. Psychological Review, 50(4), 370-396.

15. Massey, D. (2008). A global sense of place. In T. S. Oakes & P. L. Price (Eds.), The Cultural Geography Reader (pp. 257-263). London and New York: Routledge.

16. Massey, D., & Jess, P. (1995). Places and cultures in an uneven world. In A Place in the World?: Places, Cultures and Globalization (pp. 215-239): Oxford: Oxford University Press.

17. Relph, E. (1976). Place and placelessness. London: Pion Limited.

18. Rose, G. (1995). Place and identity: a sense of place. In D. Massey & P. Jess (Eds.), A Place in the World?: Places, Cultures and Globalization (pp. 87-132). Oxford: Oxford University Press.

19. Seamon, D. (2018). Premilinaries for phenomenology of place: principles, concepts and method. In Life Takes Place: Phenomenology, Lifeworlds and Place Making (pp. 8-19). London and New York: Routledge.

20. Sepe, M. (2013). Place and place identity as key concepts. In Planning and place in the city (pp. 1-24). London and New York: Routledge.

21. Soja, E. W. (1999). Thirdspace: Expanding the scope of the geographical imagination. In D. Massey, J. Allen, & P. Sarre (Eds.), Human Geography Today (pp. 260-278). Cambridge: Polity.

 22. Southworth, M., & Ruggeri, D. (2010). Beyond placelessness: place identity and the global city. In T. Banerjee & A. Loukaitou-Sideris (Eds.), Companion to Urban Design (pp. 495-509). London and New York: Routledge.

 23. Taylor, N. (1998). Urban Planning Theory Since 1945. London: SAGE Publications Ltd.

24. Tuan, Y.-F. (1974). Topophilia and environment. In Topophilia: A Study of Environmental Perception, Attitudes and Values (pp. 92-112). New York: Columbia University Press.

* Thạc sỹ, Giảng viên, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, email: [email protected]. ** Thạc sỹ, Giảng viên, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, email: [email protected].