Chi tiết tin
Tin tức, trao đổi nghiệp vụ
Tin tức, trao đổi nghiệp vụ
Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định 04 biện pháp xử lý vi phạm hành chính, trong đó có biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện.
Hiện nay, việc triển khai thực hiện áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã mang lại nhiều ý nghĩa như: cải thiện tình trạng sức khoẻ của người nghiện ma tuý; đảm bảo an toàn, an ninh xã hội; ngăn chặn sự gia tăng số lượng người nghiện ma tuý; giúp người nghiện ma tuý có điều kiện tái hoà nhập cộng đồng,… Bên cạnh những ý nghĩa đã đạt được, thực tế việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã bộc lộ nhiều bất cập, cụ thể:
Một là về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Khoản 1 Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định”. Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày 30/10/2016 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định 136) bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đã quy định chi tiết hơn về các đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện chỉ với người đủ từ 18 tuổi.
Tuy nhiên, Điều 29 Luật Phòng, chống ma tuý (văn bản hợp nhất) ngày 23/7/2013 quy định: “1.Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.
2. Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tự nguyện hoặc được gia đình làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.”
Có thể thấy, theo Luật Phòng, chống ma tuý, đối tượng được đưa vào cơ sở cai nghiện có thể là người nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi tới dưới 18 tuổi nếu tự nguyện hoặc gia đình làm đơn, tuy nhiên, trong khi Luật xử lý vi phạm hành chính lại không quy định về đối tượng này.
Hơn nữa, Luật Phòng, chống ma túy cũng quy định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với nhóm này là Chủ tịch UBND cấp huyện. Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên và thẩm quyền quyết định là Toà án nhân dân cấp huyện.
Hai là, trong quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Điểm g khoản 5 Điều 18 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016) quy định: “g) Tùy vào thực tiễn của địa phương, người nghiện ma túy phải lựa chọn hình thức cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật. Người nghiện ma túy phải cam kết về việc tự nguyện cai nghiện, điều trị nghiện”.
Tuy nhiên, có sự chênh lệch về thời gian chấp hành biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Cụ thể việc chấm dứt điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế khi có nguyện vọng, khi không tuân thủ quy trình chuyên môn về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện từ 02 lần trở lên trong vòng 06 tháng hoặc xét nghiệm dương tính với các chất dạng thuốc phiện liên tiếp từ 02 lần trở lên (trừ thuốc điều trị thay thế) trong vòng 12 tháng sau khi đã đạt liều điều trị duy trì (Điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định số 90/2016/NĐ-CP). Trong khi thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 03 tháng đến 06 tháng (khoản 4 Điều 4 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP).
Chính vì sự chênh lệch thời chấp hành các biện pháp khác nhau nên dẫn tới sự chậm trễ, ùn tắc trong việc đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hiện nay, các quy định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng chưa chấp hành xong biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế đang không có sự thống nhất, người có thẩm quyền không biết phải áp dụng quy định nào, quan điểm giữa các cơ quan (Công an, Tư pháp, Lao động – Thương binh và Xã hội, TAND) cũng khác nhau. Cụ thể:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định số 90/2016/NĐ-CP thì “không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện”. Nếu theo quy định này thì đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định, đang trong thời gian tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế sẽ không bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (mặc dù có thể họ đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn).
Theo quy định tại Nghị định số 221/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016) và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017) thì biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn được áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, nếu người đó đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính (đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện).
Ba là, trong việc xác minh nơi cư trú làm cơ sở áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo quy định tại Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Điều 3 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016) và Điều 4 Thông tư 05/2018/TT-BCA ngày 07/02/2018 của Bộ Công an thì đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định. Như vậy, việc xác định “có nơi cư trú ổn định” hay không là một trong những căn cứ rất quan trọng trong quá trình lập hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trên thực tế, có nhiều người nghiện ma túy sống lang thang lúc ở địa bàn xã/phường này, lúc sang địa bàn xã/phường khác (có thể trong cùng địa bàn huyện/quận hoặc khác huyện/quận) nên việc lập hồ sơ quản lý đối với những người nghiện này thường rất khó khăn.
Đồng thời các văn bản pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể như thế nào là không có nơi cư trú ổn định gây lúng túng trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc xác định nơi cư trú sẽ giao về cho Công an xã, phường, thị trấn – nơi đối tượng bị đề nghị có địa chỉ thường trú hoặc tạm trú nhưng kết quả xác minh lại không đảm bảo, vẫn còn sự mâu thuẫn, chồng chéo trong việc cung cấp kết quả. Có những vụ, cùng một người là Trưởng Công an xã cho kết quả xác minh nhưng thời điểm trước đó xác định đối tượng “không cư trú ổn định tại địa phương” nhưng sau khi phiên họp sơ thẩm kết thúc, người bị đề nghị khiếu nại lên cấp phúc thẩm thì chính Trưởng công an xã này lại cho kết quả xác minh xác định đối tượng “có cư trú ổn định tại địa phương”.
Bốn là, về thẩm quyền của Trưởng phòng Tư pháp trong việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ.
Một khó khăn, vướng mắc hiện nay đó là việc Trưởng phòng Tư pháp có phải kiểm tra lại tính pháp lý của hồ sơ sau khi cơ quan lập hồ sơ ban đầu đã hoàn thiện lại hồ sơ theo yêu cầu của Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội? Bởi vì, theo quy định tại Điều 104 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì sau khi nhận được hồ sơ từ Trưởng phòng Tư pháp chuyển đến theo quy định tại Điều 103 của Luật này, Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị TAND cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì giao cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ. Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật không có quy định cụ thể về việc Trưởng phòng Tư pháp phải kiểm tra lại tính pháp lý của hồ sơ trong trường hợp này. Do vậy, trên thực tế, các cơ quan chức năng rất lúng túng khi xử lý trường hợp này. Có ý kiến cho rằng, quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành còn có sự trùng lắp nhiệm vụ giữa các cơ quan chức năng và chưa thực sự đề cao vai trò của việc kiểm tra tính pháp lý. Bởi vì, theo thẩm quyền, Trưởng phòng Tư pháp đã thực hiện việc kiểm tra tính pháp lý, trong đó có thể kết luận hồ sơ đã đầy đủ tính pháp lý nhưng hồ sơ đó vẫn có thể bị Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội kết luận là “hồ sơ chưa đầy đủ” và trả lại “cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ”. Nhiệm vụ của Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội theo quy định tại Điều 104 Luật Xử lý vi phạm hành chính đơn thuần chỉ là xem xét lại một lần nữa một trong những công việc mà Trưởng phòng Tư pháp đã thực hiện: Kiểm tra xem hồ sơ đã đầy đủ chưa, nếu đầy đủ thì chuyển Toà an nhân dân, nếu chưa đầy đủ thì trả lại cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ.
Một số đề xuất, kiến nghị:
Một là, quy định cụ thể về thẩm quyền của Toà án trong việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện trong độ tuổi từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi, cũng như cho phép các cơ sở cai nghiện bắt buộc được tiếp nhận và tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy trong độ tuổi nêu trên với những đặc thù riêng. Vì chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và những cơ sở cai nghiện mới có đầy đủ chuyên môn cũng như các điều kiện cần thiết khác để tổ chức cai nghiện cho người nghiện nói chung cũng như người nghiện là người chưa thành niên nói riêng.
Hai là, quy định về áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và quy định áp dụng đồng thời biện pháp điều trị nghiện, các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế cần thống nhât thời gian. Đồng thời, để đảm bảo nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật vì thì cần sửa đổi Nghị định 111 theo hướng đơn giản hóa các thủ tục, giảm thiểu các đầu mối, rút ngắn các quy trình thực hiện, tạo thuận lợi cho các cơ quan thực thi pháp luật.
Ba là, xây dựng hệ thống quản lý thông tin người nghiện ma tuý để việc xử lý với các đối tượng nghiện ma tuý kịp thời. Cụ thể, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ về người nghiện trên toàn quốc và áp dụng những thành tựu về công nghệ thông tin trong thu thập, quản lý và sử dụng các nguồn thông tin về người nghiện. Hệ thống thông tin người nghiện ma túy cần phải có đầy đủ các thông tin cơ bản như thông tin về thời điểm bắt đầu nghiện ma túy, loại ma túy sử dụng, hình thức sử dụng, các biện pháp cai nghiện đã được áp dụng, tái nghiện hay không. Đồng thời, có quy định cụ thể về chế tài khi cán bộ, công chức làm lộ thông tin của người nghiện ma tuý mà không được phép.
Việc thực thi pháp luật về đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn còn những khó khăn. Để thực hiện tốt quy định của pháp luật về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Nhà nước cần sớm hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với người nghiện ma túy. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan trong việc áp dụng biện pháp pháp cai nghiện bắt buộc./.
Linh Chi
Các tin khác:
Một số lưu ý khi lập biên bản vi phạm hành chính
30/03/2023 9:59:45 SA
Xác định hồ sơ xử lý vi phạm hành chính có nội dung phức tạp
07/03/2023 3:45:00 CH
Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đúng quy định pháp luật là một trong những yêu cầu quan trọng của việc thiết lập hồ sơ xử lý vi phạm hành chính. Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định cụ thể về thời gian ra…
Một số vấn đề về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)
03/03/2023 10:14:32 SA
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được xem là một trong những nội dung quan trọng trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020. Tuy Luật đã có nhiều thay đổi nhằm phù hợp với tình hình…
Việc chứng minh lỗi cố ý trong việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
02/03/2023 9:15:43 SA
Điều 26 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện…
Việc lập biên bản vi phạm hành chính với vụ việc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự thụ lý chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính
02/03/2023 9:03:27 SA
Hiện nay có nhiều vụ việc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có một trong các quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án…
Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2023
02/02/2023 4:17:22 CH
Xác định thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính
14/12/2022 2:33:35 CH
Xác định thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính là việc quan trọng trong xử phạt vi phạm hành chính do là căn cứ áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính như giáo dục tại xã,…
Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm hành chính
14/12/2022 10:50:24 SA
Ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Do đó, việc xác định văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng…