Cải cách hành chính hướng tới xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Cải cách hành chính nhà nước là tất yếu khách quan và khâu trung tâm của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bài viết khái quát những kết đã đạt được trong thời gian qua và những giải pháp triển khai công tác cải cách hành chính nhà nước trong thời gian tới.
Quang cảnh Phiên họp thứ ba của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, ngày 03/02/2023
Kết quả cải cách hành chính góp phần xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Một là, cải cách thể chế trong suốt thời gian qua đã từng bước cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm của Đảng về phấn đấu cơ bản hoàn thành đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Thể chế về tổ chức bộ máy hành chính; công chức, viên chức; thể chế về mối quan hệ giữa nhà nước với người dân đã được tập trung xây dựng, hoàn thiện. Các nội dung cải cách thể chế đã góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; một số lượng lớn nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã được ban hành. Sau hơn 05 năm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, trong số 90 luật, pháp lệnh được đề xuất tại danh mục, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 70 luật, pháp lệnh, trong đó có các đạo luật mang tính nền tảng, rường cột của hệ thống pháp luật.
Hai là, trong nhiều năm qua, cải cách thủ tục hành chính (TTHC) được xác định là một khâu trọng tâm, đột phá và đã được triển khai mạnh mẽ ở tất cả các cấp hành chính theo hướng đơn giản hóa, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm lợi ích chính đáng và quyền làm chủ của người dân. Tính từ năm 2021 đến nay, đã cắt giảm, đơn giản hóa 1.758 quy định kinh doanh; sửa đổi 143 văn bản quy phạm để thực thi các phương án đơn giản hóa. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt hơn 1.100 phương án cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh. Thủ tục hành chính được các bộ, ngành, địa phương thường xuyên rà soát, đơn giản hóa, đánh giá tác động, chuẩn hóa; công bố, niêm yết, công khai tại nơi tiếp nhận, giải quyết TTHC, công khai trên cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương và trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC, giúp cá nhân, tổ chức truy cập tìm hiểu, thực hiện thuận tiện, chính xác; phân cấp thẩm quyền giải quyết 699 TTHC trên 100 lĩnh vực quản lý nhà nước.
Việc đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng số hóa, không phụ thuộc địa giới hành chính được chú trọng, bước đầu có kết quả. Đến nay, cả nước đã thành lập 11.700 bộ phận một cửa các cấp để tiếp nhận, giải quyết TTHC, trong đó có 56 địa phương thành lập Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh. Có 53/63 địa phương đã thực hiện hợp nhất Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh thành Hệ thống thông tin giải quyết TTHC duy nhất, đồng thời cung cấp, tích hợp nhiều tiện ích thông minh, giúp cho việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết TTHC ngày càng nhanh chóng, thuận tiện. Nhiều đề án về cải cách TTHC được triển khai thực hiện, đạt được những kết quả tích cực. Các nội dung gắn kết đồng bộ giữa cải cách TTHC và xây dựng chính phủ điện tử cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan hành chính nhà nước.
Ba là, thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước được đẩy mạnh thực hiện, đạt được nhiều kết quả trên các nội dung như: rà soát chức năng, nhiệm vụ, kiện toàn tổ chức; phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương; tinh giản biên chế; thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập. Tổ chức bộ máy hành chính, cơ cấu tổ chức Chính phủ tinh gọn, hợp lý hơn; số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giảm đáng kể; số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện cũng ngày càng giảm.
Việc hoàn thiện sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập từ Trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả đạt được những kết quả tích cực. Tại các bộ, ngành Trung ương, qua việc ban hành các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành cho thấy kết quả dự kiến sắp xếp: giảm 17 tổng cục và tổ chức tương đương tổng cục chưa đáp ứng đủ tiêu chí thành lập; giảm 08 cục (thuộc tổng cục và thuộc bộ); giảm 145 vụ và tương đương (thuộc tổng cục và thuộc bộ); rà soát 768 đơn vị sự nghiệp thuộc, trực thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, giảm 22 đơn vị sự nghiệp công lập. Việc rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy góp phần khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ cấp trung gian, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật chuyên ngành và phân công của Chính phủ. Về biên chế công chức (tính đến ngày 31/3/2020), các bộ, ngành Trung ương giảm 10.284 người so với số giao năm 2015; các địa phương giảm 13.612 người so với số giao năm 2015. Giai đoạn 2008-2016, Đề án thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường đã được triển khai thực hiện. UBND các cấp và cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được sắp xếp, kiện toàn, cơ bản theo đúng quy định, bước đầu đã tính đến đặc điểm của đơn vị hành chính ở nông thôn, đô thị, hải đảo.
Bốn là, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá việc thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ CBCCVC đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Quốc hội đã ban hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 về phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý CBCCVC cơ bản được thực hiện nghiêm; việc bố trí công chức bảo đảm theo vị trí việc làm và tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức tương ứng với bản mô tả công việc, khung năng lực của từng vị trí từng bước được thực hiện. Một số nội dung cải cách, đổi mới bước đầu đạt kết quả, như tuyển dụng công chức có ứng dụng công nghệ thông tin; thu hút những người có tài năng vào làm việc trong các cơ quan nhà nước. Việc thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý bước đầu được thực hiện và đạt được một số kết quả. Công tác đánh giá, xếp loại CBCCVC hàng năm được thực hiện theo các quy định của Đảng và Nhà nước có nhiều đổi mới từ thể chế đến tổ chức thực hiện. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đổi mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn. Đã rà soát để cắt giảm các chứng chỉ bồi dưỡng theo yêu cầu, bảo đảm nguyên tắc việc bỏ chứng chỉ gắn với nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức một cách thực chất, gắn với vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp.
Năm là, các cơ chế, chính sách về quản lý tài chính doanh nghiệp và sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ và được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và tình hình thị trường. Chính sách pháp luật trong lĩnh vực quản lý nợ công cũng được hoàn thiện và đổi mới, từng bước tiếp cận các thông lệ quốc tế. Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiếp tục được hoàn thiện. Công tác quản lý tài chính, ngân sách có nhiều chuyển biến rõ nét. Việc triển khai chính sách xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch; giáo dục và đào tạo; y tế… đã từng bước phát huy hiệu quả, nguồn lực xã hội hóa, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển ngành; nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần của Nhân dân. Việc thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan hành chính, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập đạt được những kết quả tích cực.
Sáu là, thể chế, chính sách về phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số từng bước được hoàn thiện. Việc xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành được triển khai thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần hình thành nên cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Các bộ, ngành, địa phương đã tập trung đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, triển khai xây dựng nhiều phần mềm, cơ sở dữ liệu, các nền tảng, phần mềm ứng dụng.
Trục liên thông văn bản quốc gia, Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NGSP), Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (e-cabinet), Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia, Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã được xây dựng, đưa vào sử dụng, góp phần đổi mới phương thức làm việc của Chính phủ theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Cung cấp dịch vụ công trực tuyến tiếp tục có cải thiện. Tính đến cuối tháng 10/2022, có 98% dịch vụ công đủ điều kiện đã được đưa lên thực hiện cung cấp trực tuyến mức độ 4; đã cơ bản hoàn thành đưa 21/25 dịch vụ công thiết yếu (theo Đề án 06) thực hiện trên môi trường điện tử và được tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ đạt khoảng 72%; tỷ lệ nộp hồ sơ trực tuyến đạt khoảng 52%.
Bảy là, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã thường xuyên đối thoại, lắng nghe những phản ánh, kiến nghị của người dân, cộng đồng doanh nghiệp. Các công cụ theo dõi, đánh giá như Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX), Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS); đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế công, giáo dục công… được triển khai thực hiện, qua đó thể hiện rõ nét tinh thần xây dựng nền hành chính dân chủ, phục vụ, hướng tới lợi ích của người dân và xã hội. Việc xây dựng và đưa vào thực hiện các quy định về quyền được thông tin của người dân, tạo điều kiện để người dân tham gia, giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước được quy định khá cụ thể tại các văn bản pháp luật.
Tuy nhiên, công tác cải cách hành chính (CCHC) trong những năm qua vẫn còn những hạn chế như: hệ thống thể chế, pháp luật chưa đầy đủ, đồng bộ, thống nhất; tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh chưa được khắc phục triệt để; tổ chức thực hiện pháp luật một số lĩnh vực chưa nghiêm, chưa hiệu quả. Cải cách TTHC chưa thực sự là động lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định rõ và phù hợp; phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có nơi chưa đồng đều, thậm chí còn yếu; một bộ phận CBCCVC khi giải quyết công việc liên quan đến tổ chức và người dân chưa làm hết trách nhiệm, còn có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực. Cải cách tài chính công vẫn còn nhiều hạn chế, việc sử dụng ngân sách và vốn đầu tư công còn lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả. Việc xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, xã hội số còn chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính để xây dựng thành công nền hành chính chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Để triển khai thực hiện hiệu quả quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cụ thể là Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công tác CCHC thời gian tới cần tiếp tục thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp, của đội ngũ CBCCVC trong từng cơ quan, đơn vị là điều kiện quan trọng đảm bảo sự thành công của CCHC. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của người dân. Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và cơ quan hành chính địa phương các cấp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trong triển khai công tác CCHC. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030; lấy kết quả CCHC hàng năm là tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của các cơ quan, đơn vị; chất lượng chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị; coi trọng công tác thi đua, khen thưởng gắn với kết quả, hiệu quả CCHC.
Hai là, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; văn hóa, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Ba là, đẩy mạnh cải cách TTHC góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của bộ máy hành chính nhà nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế. Ðơn giản hóa TTHC, cắt bỏ các thủ tục không cần thiết, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, gây cản trở cạnh tranh lành mạnh; áp dụng hiệu quả dịch vụ công trực tuyến. Các TTHC liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công được đề ra cần phải phù hợp với điều kiện thực tế và khả thi.
Bốn là, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức các bộ, cơ quan ở Trung ương, các cơ quan chuyên môn ở địa phương đa ngành, đa lĩnh vực, số lượng hợp lý. Tăng cường vai trò, nâng cao trách nhiệm của Bộ trưởng với tư cách thành viên Chính phủ trong quản lý vĩ mô và xây dựng chính sách; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của Chính phủ. Thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện; từng bước xóa bỏ cơ chế phối hợp liên ngành, gắn với việc xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu.
Ðổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tập trung quản lý phát triển; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân. Hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với các địa bàn đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; giảm cấp chính quyền phù hợp ở một số địa phương; xây dựng mô hình quản trị chính quyền địa phương phù hợp với từng địa bàn, gắn với yêu cầu phát triển các vùng, khu kinh tế. Ðẩy mạnh phân cấp, phân quyền khoa học, hợp lý, đi đôi với nâng cao trách nhiệm, gắn với bảo đảm nguồn lực, năng lực thực hiện pháp luật cho các địa phương và các bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát; bảo đảm quản lý thống nhất của Chính phủ, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng địa phương và các bộ, ngành. Tiếp tục cải cách, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công, chất lượng dịch vụ công; sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả.
Năm là, xây dựng đội ngũ CBCCVC chuyên nghiệp, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và có đạo đức cách mạng. Tập trung phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền hành chính quốc gia; cải cách mạnh mẽ chế độ công vụ, công chức; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, tiêu chuẩn nghiệp vụ, tiêu chí đánh giá CBCCVC dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao bằng sản phẩm cụ thể và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ CBCCVC; tăng cường thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm về quản lý và sử dụng.
Sáu là, đẩy mạnh triển khai chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền điện tử hướng tới chính phủ số, chính quyền số, nền kinh tế số và xã hội số theo lộ trình của Chính phủ, phù hợp với điều kiện thực tiễn của các bộ, cơ quan, địa phương. Xây dựng hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông đồng bộ; hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành, cơ sở dữ liệu địa phương đồng bộ liên thông; áp dụng hiệu quả dịch vụ công trực tuyến; thu thập ý kiến đánh giá của người dân, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dịch vụ công trực tuyến để cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến cho người dân, doanh nghiệp khai thác, sử dụng dịch vụ công trực tuyến; phát triển các cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ ứng dụng, dịch vụ chính phủ số trong nội bộ của bộ, ngành, địa phương. Phát triển hệ thống thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Phát triển các ứng dụng, dịch vụ nghiệp vụ, chuyên ngành phục vụ nội bộ và kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin trong và ngoài bộ, ngành, địa phương theo nhu cầu. Phát triển ứng dụng công nghệ và cung ứng dịch vụ công phục vụ người dân, doanh nghiệp; xây dựng, phát triển đô thị thông minh.