Các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
Mục Lục
Các phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong dạy học
Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
Có thể hình dung hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá trong dạy học qua sơ đồ sau:
Nội dung chính
- Các phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong dạy học
- CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC
- Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh
- Kiểm tra, đánh giá học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông theo hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh
- Video liên quan
CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.13 KB, 36 trang )
CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH
HƯỚNG NĂNG LỰC
NHÓM 2:
1. Hồ Thị Hương Giang
2. Trương Đình Dũng
3. Nguyễn Thị Hải Lý
4. Hoàng Thị Phương Nhi
5. Nguyễn Thị Kim Nữ
Học phần: ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY
HỌC SINH HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS. Văn Thị Thanh Nhung
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học môn
Sinh học ở trường PT là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Nhiệm vụ
cơ bản của việc kiểm tra, đánh giá là làm rõ được tình hình lĩnh hội
kiến thức, sự thành thạo về kỹ năng và trình độ phát triển tư duy (quá
trình hình thành khái niệm, khả năng phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa, khái quát hóa kiến thức,…) trong quá trình dạy và học của học
sinh. Thông qua kiểm tra – đánh giá, giáo viên có thể tự đánh giá quá
trình dạy và học sinh nhận biết, tự đánh giá quá trình học, từ đó điều
chỉnh quá trình dạy và học để đạt được mục tiêu môn học.
Đánh giá
Đánh giá
quá trình
Đánh giá
tổng kết
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
I. Đánh giá quá trình (Formative assessment) (FA)
1. Định nghĩa
Đánh giá quá trình là khái niệm đã xuất hiện trên thế giới từ thập niên
80 của thế kỉ XX. Nó thể hiện một bước chuyển biến mới trong kiểm tra
đánh giá, góp phần thay đổi quan điểm và phương pháp đánh giá.
Theo C.Boston (2009), sử dụng đánh giá mang tính chất chẩn đoán
nhằm cung cấp phản hồi cho người dạy và người học trong suốt quá trình
giảng dạy gọi là đánh giá quá trình.
Black và Wiliam (1998) định nghĩa đánh giá theo nghĩa rộng bao
gồm tất cả các hoạt động mà người dạy và người học đã thực hiện để thu
thập thông tin phản hồi về KQHT của người học. Những thông tin phản
hồi này có thể được sử dụng để điều khiển quá trình giảng dạy và học
tập.
Như vậy, đánh giá quá trình là việc đánh giá thực hiện
thường xuyên, xuyên suốt trong quá trình dạy học. Thông
qua đó giúp giáo viên thu nhận thông tin phản hồi từ người
học để điều chỉnh quá trình dạy cũng như người học thông
qua đánh giá quá trình để kịp thời điều chỉnh việc học của
bản thân nhằm thu được kết quả tối ưu nhất
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
I. Đánh giá quá trình (Formative assessment) (FA)
2. Chức năng
Đánh giá quá trình là một hướng nghiên cứu về nhận xét phản hồi
của người dạy trong quá trình người học đang tiếp thu kiến thức, kĩ
năng mới.
Tổng hợp từ 200 nghiên cứu, Black và Wiliam (1998) đã kết luận
rằng: Kết quả của đánh giá quá trình là hiệu quả nhất so với các kết quả
của các biện pháp can thiệp giáo dục từng được công bố. Ông cũng chỉ
ra đánh giá quá trình có hiệu quả cao đồi với người học có kết quả thấp,
có nhiều sai, sót, nhiều lỗ hổng trogn quá trình học tập.
Theo Ramaprasad (1983) và Sadler (1989), các thông tin phản hồi
trong đánh giá quá trình giúp cho người học nhận thức được các lỗ
hổng về kiến thức, hiểu biết hay kỹ năng mà họ đạt được so với mục
tiêu và đánh giá quá trình hướng dẫn họ thực hiện các hoạt động cần
thiết để đạt được mục tiêu đề ra.
Như vậy, đánh giá quá trình có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc điều khiển quá trình học tập sao cho đạt được mục
tiêu mong đợi. Nó giúp cho người dạy xác định đúng trình độ
nhận thức hiện tại của người học, từ đó tác động để họ lấp các
lỗ hổng kiến thưc, kĩ năng, hoàn thiện nội dung bài học một
cách tối ưu nhất.
Kỹ thuật đánh giá quá
trình
Đánh giá kết quả
học tập, thành
tích thông qua thi
cử
Đánh giá cấp quốc
gia, cấp tỉnh – thành
phố, cấp trường
Đánh giá qua hồ sơ học
tập và đánh giá qua sản
phẩm, tài liệu viết
Bài tập về
nhà, báo
cáo, bài luận
Đánh giá
lớp học
Đánh giá qua hồ sơ
học tập và đánh giá
qua sản phẩm, tài
liệu viết
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
I. Đánh giá quá trình (Formative assessment) (FA)
3. Mục tiêu
Xác định những gì người học đã biết ( và không biết) nhằm tạo ra
những thay đổi trong quá trình dạy và học.
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
Đánh giá lớp học là một phương pháp tiếp cận dạy học và
một tập hợp của các kỹ thuật. Cách tiếp cận này có nghĩa là
người dạy càng biết nhiều về những gì và làm thế nào người học
đang học thì giáo viên có thể lập kế hoạch cho các hoạt động dạy
tốt hơn. Các kỹ thuật hầu hết đều đơn giản, không được xếp loại.
Các hoạt động trong lớp học đem lại cho cả người học và người
dạy những thông tin phản hồi hữu ích về quá trình dạy và học.
Đánh giá lớp học khác với kiểm tra và các hình thức đánh giá
học tập khác ở chỗ nó là nhằm cải thiện quá trình không phải là
đánh giá tổng kết. Mục tiêu chính là để hiểu rõ hơn việc học tập
của người học và do đó để cải thiện quá trình dạy học.
Ví dụ:
Để đánh giá lớp học giáo viên có thể lập phiếu điều tra,
khảo sát lớp học hoặc kiểm tra khảo sát đầu năm học bằng hệ
thống các câu hỏi. Qua kết quả thu được giáo viên điều chỉnh
phương pháp dạy phù hợp.
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.1. Đặc điểm của đánh giá trong lớp học
– Tập trung vào quan sát và cải thiện việc học hơn là quan sát và cải thiện
việc dạy.
-Cá nhân người dạy quyết định đánh giá cái gì, cách đánh giá và cách đáp
ứng lại các thông tin thu được thông qua đánh giá.
– Người học củng cố được nội dung học tập và kỹ năng tự đánh giá, người
dạy làm rõ thêm trọng tâm dạy học bằng cách tập trung vào 3 câu hỏi: Các
kỹ năng và kiến thức cần thiết tôi đang cố gắng dạy là gì?Tôi có thể phát
hiện ra liệu người học có học hay không bằng cách nào?Và làm thế nào tôi
có thể giúp người học học tập tốt hơn?
– Mục đích là cải thiện chất lượng học tập của người học , không phải cung
cấp bằng chứng để đánh giá và quyết định việc học trên lớp, nó cung cấp
thông tin về cái gì người học đang học, họ được bao nhiêu và học tốt như
thế nào?
– Kỹ thuật đánh giá được lựa chọn để phù hợp với nội dung và yêu cầu của
từng lớp học cụ thể.
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.2. Đánh giá thông qua các bài kiểm tra trong lớp học
Đây là hình thức đánh giá thông dụng hiện đang áp dụng
phổ biến ở các trường phổ thông Việt Nam.
Người dạy có thể sử dụng các bài kiểm tra 10 phút, 15 phút,
30 phút hay 45 phút. Có thể sử dụng hình thức trắc nghiệm tự
luận hay trắc nghiệm khách quan hoặc kết hợp cả hai để đánh
giá xem người học đang ở đâu trong quá trình dạy học từ đó
giúp đỡ, định hướng cho người học để học tập tốt hơn hoặc
người dạy có thể thay đổi cách dạy học để đáp ứng với trình độ
lĩnh hội của HS
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.3 Đánh giá thông qua vấn đáp, thảo luận
Là hình thức thường xuyên được thực hiện trong quá trình
dạy học
GV có thể vấn đáp về nội dung bài cũ để kiểm tra việc học
bài ở nhà của HS hoặc có thể đặt những câu hỏi cho HS trả lời
trong quá trình dạy bài mới.
Ví dụ:
Khi kiểm tra bài cũ bài: Sinh trưởng của VSV.
– GV đặt câu hỏi: Thế nào là sinh trưởng của VSV? So sánh môi
trường nuôi cấy liên tục và nuôi cấy không liên tuc?
– HS trả lời câu hỏi theo yêu cầu của GV
– GV đánh giá, cho điểm
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.3 Đánh giá thông qua vấn đáp, thảo luận
Theo Black và Wiliam(1998), khuyến khích giáo viên sử
dụng phương pháp đặt câu hỏi và thảo luận lớp học và xem đây
là cơ hội để làm tăng thêm kiến thức và nâng cao sự hiểu biết
của học sinh. Cần lưu ý:
+ GV hỏi HS những câu hỏi mang tính tư duy
+ Đòi hỏi phải hiểu bài sâu sắc hơn là hỏi những câu hỏi đơn
giản, mang tính sự kiện.
+ Để cho HS có đủ thời gian để trả lời câu hỏi và thu hút học
sinh tham gia giáo viên nên đưa ra chiến lược như sau:
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.3 Đánh giá thông qua vấn đáp, thảo luận
Khi dạy Bài 27: Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của
VSV(Sinh học 10).
– GV đặt câu hỏi: Vì sao khi rửa rau sống nên ngâm trong nước
muối hay thuốc tím pha loãng từ 5-10 phút?
– HS: Thảo luận nhóm 2 người và trả lời:
Ngâm rau sống trong nước muối hay thuốc tím pha loãng từ 5-
10 phút để gây co nguyên sinh làm cho VSV không thể phân
chia được , hoặc ngâm rau trong thuốc tím pha loãng, thuốc tím
có tác dụng oxi hóa rất mạnh.
– GV đánh giá
– Mọi người học trao đổi những suy nghĩ của mình về một
câu hỏi hay một chủ đề theo nhóm 2 người hay theo các nhóm
nhỏ, sau đó yêu cầu đại diện nhóm chia sẻ suy nghĩ với nhóm
lớn hơn.
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.3 Đánh giá thông qua vấn đáp, thảo luận
– Trình bày nhiều câu trả lời cho một câu hỏi và yêu cầu
người học lựa chọn.
Ví dụ khi dạy bài: Sinh sản của vi sinh vật để củng cố bài
học giáo viên nêu câu hỏi:
GV? : Hình thức nào trong các hình thức sau đây không phải là
hình thức sinh sản của vi sinh vật nhân sơ ?
A. Phân đôi B. Bào tử đốt
C. Ngoại bào tử D. Nội bào tử
HS: Đáp án D
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.3 Đánh giá thông qua vấn đáp, thảo luận
– Yêu cầu người học viết ra câu trả lời, sau đó đọc to các câu
trả lời được chọn?
Ví dụ khi dạy bài 29: Cấu trúc các loại virut, sinh học 10.
GV?: Hãy so sánh Virut và vi khuẩn
Tính chất Virut Vi khuẩn
Có cấu tạo tế bào
Chỉ chứa AND hoặc
ARN
Chứa cả AND và
ARN
Chứa ribôxom
Sinh sản độc lập
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.3 Đánh giá thông qua vấn đáp, thảo luận
Người dạy cũng có thể đánh giá mức độ hiểu biết của người học
theo các cách sau:
+ Cho người học viết ra những hiểu biết về nội dung bài học trước
và sau khi dạy
Ví dụ 1: Khi GV dạy sinh sản hữu tính ở thực vật, sinh học 11.
– GV: Yêu cầu HS trình bày các hình thức sinh sản vô tính ở thực vật trước
khi vào bài mới.
– HS: Trình bày theo yêu cầu
– GV: đánh giá và cho điểm
Ví dụ 2: Sau khi học xong sinh sản hữu tính ở thực vật, sinh học 11
– GV: Yêu cầu HS trình bày sự hình thành hạt phấn và túi phôi bằng sơ đồ.
– HS: Trình bày theo yêu cầu
– GV: đánh giá và cho điểm
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.3 Đánh giá thông qua vấn đáp, thảo luận
+ Yêu cầu người học tóm tắt các ý chính mà họ vừa thu
được từ bài giảng, cuộc thảo luận hay bài tập được giao.
+ Cho người học làm một số câu hỏi, bài tập hay trả lời các
câu hỏi sau khi người dạy hướng dẫn bài học xong.
+ Hỏi người học về những suy nghĩ của họ khi giải quyết
các vấn đề đặt ra trong bài học.
Người dạy nên sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực nhằm
phát huy hiệu quả khả năng cá nhân kết hợp hoạt động nhóm
như: kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật lược đồ tư duy, kỹ thuật tia
chớp, kỹ thuật động não…
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.4. Đánh giá thông qua quan sát trong quá trình dạy học
Đánh giá thông qua quan sát trong giờ học có thể sử dụng
bảng quan sát hoặc không sử dụng bảng quan sát mà chỉ quan
sát tự do và ghi chép lại như nhật ký dạy học.
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.4. Đánh giá thông qua quan sát trong quá trình dạy học
1.1.4.1. Bảng quan sát
Bảng quan sát là công cụ thu thập thông tin về đối tượng quan sát bằng
cách tri giác trực tiếp đối tượ ng về các tiêu chí định sẵn. Các tiêu chí quan
sát là các hành vi tham gia vào quá trình học tập của người học: chuẩn bị
bài ở nhà, tham gia phát biểu xây dựng bài, chuẩn bị giáo án, tham gia tập
giảng,
Bảng quan sát được người dạy trực tiếp quan sát, ghi chép hoặc giao
cho người học tự theo dõi và quan sát, ghi chép lại các hành vi, thái độ của
các thành viên trong nhóm. Những thông tin phản hồi này cho thấy mức
độ tiến triển hoặc có những biểu hiện sai lệnh về thái độ của người học.
Qua đó người dạy có các biện pháp tác động nhằm điều khiển việc hình
thành thái độ đúng đắn cho họ . Đồng thời, người dạy thường xuyên thông
báo kết quả quan sát cho người học, để họ tự điều chỉnh thái độ học tập của
mình.
Xác định nội dung quan sát: quan sát tinh thần học tập
của HS trên lớp, thái độ trong giờ thực hành, thái độ trong
làm việc nhóm
Xây dựng các tiêu chí quan sát: Tập trung chú ý nghe
giảng, phát biểu ý kiến, tích cực thảo luận
Sắp xếp các tiêu chí theo trật tự logic .
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.4. Đánh giá thông qua quan sát trong quá trình dạy học
Thiết kế bảng quan sát gồm các bước sau:
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
Ví dụ 1: Bảng quan sát về tinh thần học tập của HS trên lớp:
Ngày 25 tháng 3 năm 2015. Tiết 53 Bài: Phản xạ có điều kiện
và phản xạ không điều kiện. Lớp: 8A.
TT Họ và
tên HS
Mức độ chăm chú
nghe giảng
Phát biểu xây dựng
bài
Tham gia hoạt
động nhóm
Rất
chăm
chú
Bình
thường
Chưa
chăm
chú
Tích
cực
Bình
thường
Chưa
tích
cực
Tích
cực,
hiệu
quả
Tích
cực,
chưa
hiệu
quả
Chưa
tích
cực
1
2
3
4
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
Ví dụ 2. Bảng quan sát về thái độ chuẩn bị mẫu vật, phương tiện
học tập và thái độ trong giờ thực hành
Ngày tháng năm Tiết Bài: Lớp:
TT Họ và tên Chuẩn bị mẫu vật/ Phương
tiện học tập
Thái độ thực hành
Có chuẩn bị Không
chuẩn
bị
Tích
cực,
hiệu
quả
Tích
cực,
chưa
hiệu
quả
Chưa
tích
cực
Đầy đủ/
Mẫu tốt
Chưa đầy
đủ/Mẫu
không tốt
1
2
3
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
Để đánh giá chính xác thái độ học tập của HS, GV cần sử dụng
bảng tiêu chí đánh giá bảng quan sát:
Vấn đề Mức độ Tiêu chí đánh giá Trọng
số
Tối
đa
Phát biểu
xây dựng
bài
Tích cực
Phát biểu nhiều lần, trong đó số
lần đúng chiếm một nửa trở lên
1
1
điểm
Bình thường Có phát biểu xây dựng bài,
trong đó số lần đúng chiếm
dưới một nửa
0,5
Chưa tích
cực
Chưa tham gia phát biểu xây
dựng bài
0
Tham
gia hoạt
động
nhóm
Tích cực,
hiệu quả
Hoàn thành tốt công việc được
giao. Đóng góp ý kiến đúng
1
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
Vấn đề Mức độ Tiêu chí đánh giá Trọng
số
Tối đa
Tham gia
hoạt động
nhóm
Tích cực,
chưa hiệu
quả
Tích cực tham gia các hoạt
động của nhóm nhưng đóng
góp ý kiến chưa đúng
0,5
1 điểm
Chưa tích
cực
Không hoặc ít tham gia các
hoạt động của nhóm
0
Mức độ
tập trung
chú ý
Cao Ghi bài đầy đủ, chú ý nghe
giảng. Tích cực phát biểu và
tham gia hoạt động nhóm
1
1 điểm
Bình
thường
Ghi bài đầy đủ, chú ý nghe
giảng.
0,5
Chưa tập
trung
Lơ đãng, làm việc riêng 0
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.4. Đánh giá thông qua quan sát trong quá trình dạy học
1.1.4.2. Quan sát không sử dụng bảng:
GV có thể viết nhật ký giảng dạy theo từng ngày và theo
từng lớp, ghi chép các hoạt động xảy ra trong mỗi giờ học, sau
đó lưu ý với HS: GV đã ghi chép những gì sau mỗi giờ học và
mục đích của việc ghi chép để làm gì nhằm giúp cho HS có ý
thức hơn trong các giờ học sau.
Các phương pháp và hình thức kiểm tra đánh giá
theo định hướng năng lực
1.1. Đánh giá lớp học ( Classroom assessment)
1.1.5. Học sinh tự đánh giá
GV có thể yêu cầu HS tự đánh giá kiến thức, kỹ năng, thái độ và mục tiêu học
tập của chính mình trước, trong hoặc sau các giờ học. Cũng có thể các HS đánh
giá lẫn nhau trong học t ập.
Quy trình tự đánh giá của HS gồm các bước:
– Xác định mục tiêu, nội dung tự đánh giá:
– Lựa chọn công cụ tự đánh giá: bảng hỏi, câu hỏi, bài tập tự đánh giá mục tiêu
– Tổ chức cho HS tự đánh giá:
+ Bảng hỏi: Bảng hỏi là tập hợp các câu hỏi, chỉ báo đã được vạch ra nhằm
khai thác, thu thập thông tin về thái độ của ngườ i học trên cơ sở các giả thiết và
mục đích của GV. Bảng hỏi được sử dụng trước hoặc sau khi học xong kiến
thức, kĩ năng của bài học. HS có thể hoàn thành bảng hỏi ở nhà hoặc ở trên lớp.
GV xử lí kết quả bảng hỏi, phân loại, xác định mức độ đạt được về thái độ của
mỗi HS. Phân tích nguyên nhân dẫn đến thái độ lệch lạc của HS.
Thiết kế bảng hỏi : – Xác định các mục tiêu thiết kế bảng hỏi
– Thiết kế các câu hỏi cần thiết cho bảng hỏi
– Sắp xếp các câu hỏi theo một trật tự logic
Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá trình dạy học cũng như đổi mới việc kiểm tra và đánh giá thành tích học tập của HS. Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, giải thích thực trạng việc đạt mục tiêu giáo dục, tìm hiểu nguyên nhân, ra những quyết định sư phạm giúp HS học tập ngày càng tiến bộ.
1. Đánh giá theo năng lực
Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Đánh giá kết quả học tập đối với các môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và sau cấp học là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của HS. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa (Leen pil, 2011).
Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức kỹ năng, mà đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kỹ năng. Để chứng minh HS có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho HS được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó HS vừa phải vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã được học ở nhà trường, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội). Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục môn học như đánh giá kiến thức, kỹ năng, bởi năng lực là tổng hòa, kết tinh kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.
Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kỹ năng của người học như sau:
Tiêu chí so sánhĐánh giá năng lựcĐánh giá kiến thức, kỹ năng1. Mục đích chủ yếu nhất
- Đánh giá khả năng HS vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn của cuộc sống.
- Vì sự tiến bộ của người học so với chính họ.
- Xác định việc đạt kiến thức, kỹ năng theo mục tiêu của chương trình giáo dục.
- Đánh giá, xếp hạng giữa những người học với nhau.
2. Ngữ cảnh đánh giáGắn với ngữ cảnh học tập và thực tiễn cuộc sống của HS.Gắn với nội dung học tập (những kiến thức, kỹ năng, thái độ) được học trong nhà trường.3. Nội dung đánh giá
- Những kiến thức, kỹ năng, thái độ ở nhiều môn học, nhiều hoạt động giáo dục và những trải nghiệm của bản thân HS trong cuộc sống xã hội (tập trung vào năng lực thực hiện).
- Quy chuẩn theo các mức độ phát triển năng lực của người học.
- Những kiến thức, kỹ năng, thái độ ở một môn học.
- Quy chuẩn theo việc người học có đạt được hay không một nội dung đã được học.
4. Công cụ đánh giáNhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối cảnh thực.Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ trong tình huống hàn lâm hoặc tình huống thực.5. Thời điểm đánh giáĐánh giá mọi thời điểm của quá trình dạy học, chú trọng đến đánh giá trong khi học.Thường diễn ra ở những thời điểm nhất định trong quá trình dạy học, đặc biệt là trước và sau khi dạy.6. Kết quả đánh giá
- Năng lực người học phụ thuộc vào độ khó của nhiệm vụ hoặc bài tập đã hoàn thành.
- Thực hiện được nhiệm vụ càng khó, càng phức tạp hơn sẽ được coi là có năng lực cao hơn.
- Năng lực người học phụ thuộc vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay bài tập đã hoàn thành.
- Càng đạt được nhiều đơn vị kiến thức, kỹ năng thì càng được coi là có năng lực cao hơn.
2. Định hướng đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS
Đánh giá kết quả giáo dục các môn học, hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và sau cấp học cần phải:
Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của HS của cấp học.
Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của GV và tự đánh giá của HS, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.
Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.
Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp GV và HS điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.
Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của GV được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:
a) Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của HS với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.
b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:
(i) Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,…); lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,…) căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,…); thiết kế các công cụ đánh giá đúng kỹ thuật (câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,…); tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho HS những kỹ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho HS tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.
(ii) Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,… được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.
(iii) Xác nhận kết quả học tập: xác nhận HS đạt hay không mục tiêu từng chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của GV, hoạt động học của HS trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với HS (lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…); thông báo kết quả học tập của HS cho các bên có liên quan (HS, cha mẹ HS, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…). Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,…
Trong đánh giá thành tích học tập của HS không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Hiện nay ở Việt Nam có xu hướng chọn hình thức trắc nghiệm khách quan cho các kỳ thi tốt nghiệp hay thi tuyển đại học. Trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm riêng cho các kỳ thi này. Tuy nhiên trong đào tạo thì không được lạm dụng hình thức này. Vì nhược điểm cơ bản của trắc nghiệm khách quan là khó đánh giá được khả năng sáng tạo cũng như năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Theo Tủ sách thư viên khoa học
Tin giáo dục
Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh
Cỡ chữ Màu chữ:
1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh
Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh.
Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội) để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.
Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:
Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung (kiến thức, kĩ năng) và đánh giá tiếp cận năng lực
STT
Đánh giá theo hướng
tiếp cận nội dung
Đánh giá theo hướng
tiếp cận năng lực
1
Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối một chủ đề, một chương, một học kì,…
Nhiều bài kiểm tra đa dạng (giấy, thực hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm…) trong suốt quá trình học tập
2
Nhấn mạnh sự cạnh tranh
Nhấn mạnh sự hợp tác
3
Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của việc dạy học
Quan tâm đến đến phương pháp học tập, phương pháp rèn luyện của học sinh
4
Chú trọng vào điểm số
Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm, chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi tiết của sản phẩm để nhận xét
5
Tập trung vào kiến thức hàn lâm
Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo
6
Đánh giá được thực hiện bởi các cấp quản lí và do giáo viên là chủ yếu, còn tự đánh giá của học sinh không hoặc ít được công nhận
Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá chéo của học sinh
7
Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà trường, tham gia phong trào thi đua…
Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn diện, chú trọng đến năng lực cá nhân, khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản thân
2. Quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kĩ năng và thái độ
Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.
Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.
Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.
3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau:
(i) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình);
(ii) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;
(iii) Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;
(iv) Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.
Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:
– Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học sinh của cấp học.
– Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.
– Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.
– Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.
Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:
a) Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.
b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:
(i) Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,…); lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,…) căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,…); thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật (câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,…); tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.
(ii) Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,… được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.
(iii) Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với học sinh (lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…); thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan (Học sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…). Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,…
Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.
Tài liệu tham khảo
1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014.
3. Website: https://tusach.thuvienkhoahoc.com.
Gửi emailIn trang
Kiểm tra, đánh giá học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông theo hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh
Xem