Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế?
Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có thể có chuyên môn hóa những chức năng kinh tế cơ bản; đồng thời có mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng, coi vùng như một lãnh thổ toàn…
Mục Lục
1. Khái niệm vùng kinh tế và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế
1.1 Khái niệm vùng kinh tế
Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có thể có chuyên môn hóa những chức năng kinh tế cơ bản; đồng thời có mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng, coi vùng như một lãnh thổ toàn vẹn, đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân
Về bản chất, theo Fridmann, Boudeville, Krugman, Porter, Vùng là một hệ thống bao gồm các mối liên hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành với các mối quan hệ địa lý, liên hệ kỹ thuật, liên hệ kinh tế, liên hệ xã hội trong một hệ thống
Thông thường, do cùng vị trí địa lý nên các địa phương trong một vùng sẽ có những đặc điểm chung về tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, các đặc điểm tự nhiên, văn hóa, phong tục tập quán… vì vậy các địa phương này sẽ có những điểm tương đồng về kinh tế, xã hội từ đó hình thành không gian chung về kinh tế của vùng. Mỗi vùng này sẽ có những ưu thế riêng tùy vào đặc điểm tự nhiên vì thế để khai thác tiềm năng và phát triển kinh tế của những vùng này cần phải có quy hoạch phù hợp với từng khu vực địa lý, phù hợp với điều kiện sản xuất của một số sản phẩm, dịch vụ của từng vùng, chính vì vậy cần phải có phân vùng kinh tế.
Tóm lại, vùng kinh tế là một phần lãnh thổ đặc thù của nền kinh tế gắn với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội chung và được ghi nhận trong quy hoạch phân bổ không gian phát triển của quốc gia.
1.2 Khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư ở nước chủ đầu tư có một tài sản ở nước thu hút đầu tư và có quyền quản lý tài sản đó. Phương thức quản lý là cơ sở để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia khác để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia này, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình
Có thể tổng kết lại, hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư ở một nước khác bằng tiền hoặc tài sản từ các nhà đầu tư ở một quốc gia khác, đồng thời có quyền sở hữu, quản lý và quyền kiểm soát tài sản ở quốc gia đó. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là hệ thống các biện pháp mà chính quyền của một quốc gia hoặc địa phương thực hiện để hấp dẫn các nhà đầu tư từ nước ngoài đem nguồn vốn và công nghệ vào quốc gia hoặc địa phương để tổ chức thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận hoặc lợi ích lớn hơn so với đầu tư tại quốc gia xuất phát của họ. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế là hoạt động của vùng hoặc của các địa phương trong vùng cùng phối hợp thực hiện để có được nhiều hơn các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng (hoặc các địa phương trong vùng).
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế
Cũng như ở phạm vi một quốc gia, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế, về mặt chung nhất, có thể có các hình thức bao gồm:
2.1 Phân theo bản chất đầu tư
Đầu tư phương tiện hoạt động: khi các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư, mua sắm tài sản, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh và thiết lập công thức kinh doanh mới tại các nước sở tại hoặc tại các địa phương trong vùng.
Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp (M&A) trong vùng: Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross – border M & As, các nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh nghiệp ở các nước (địa phương) nhận đầu tư, hình thức này không nhất thiết làm tăng khối lượng đầu tư vào.
2.2 Phân theo tính chất dòng vốn
Vốn mua cổ phần doanh nghiệp: Nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia quản lý các doanh nghiệp, công ty thông qua hình thức mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do công ty ở trong nước phát hành ở một mức đủ lớn. Để từ đó điều hành doanh nghiệp trong vùng.
Vốn tái đầu tư: Khi các nhà đầu tư nước ngoài có nguồn vốn đầu tư trực tiếp tại các nước đầu tư có thể sử dụng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để tái đầu tư.
2.3 Phân loại theo động cơ của nhà đầu tư
Đầu tư để tìm kiếm tài nguyên: Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng nguồn vốn này nhằm khai thác các nguồn tài nguyên giá rẻ và dồi dào ở các nước tiếp nhận, đồng thời khai thác nguồn lao động giá rẻ. Ngoài ra, nguồn vốn loại này còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận, thậm chí còn tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược ở các nước tiếp nhận đầu tư nhằm chiếm lợi thế trước các đối thủ cạnh tranh.
Đầu tư tìm kiếm hiệu quả: hình thức này nhằm tận dụng nguồn lực giá rẻ ở nước tiếp nhận như: nguyên vật liệu giá rẻ, nhân công giá rẻ, chi phí của các yếu tố sản xuất như điện, nước, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng kinh doanh sản xuất rẻ, thuế suất ưu đãi lớn,…
Đầu tư tìm kiếm thị trường: Các nhà đầu tư đầu tư vào các nước tiếp nhận đầu tư nhằm mở rộng thị trường và giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh Thông thường, hình thức đầu tư này nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa các nước tiếp nhận với các nước khác, lấy nước tiếp nhận làm cơ sở để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
2.4 Phân theo loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh
– Doanh nghiệp liên doanh
Liên doanh là một mối quan hệ đối tác trong đó có hai hoặc nhiều chủ thể cùng nhau đóng góp nguồn lực: nguồn vốn, tài sản… để cùng nhau thực hiện mục tiêu đặt ra và cùng nhau chia sẻ các khoản lợi nhuận, cũng như cùng nhau gánh chịu rủi ro. Định nghĩa này đề cập đến việc đóng góp các nguồn lực để thành lập Liên doanh và việc chia sẻ trách nhiệm, thỏa thuận giữa các bên là yếu tố quan trọng cho hình thức Liên doanh. Như vậy, Liên doanh không phải là một mối quan hệ hợp đồng đơn giản mà còn là mối quan hệ lợi ích giữa các đối tác khác nhau ở nhiều quốc gia khác nhau trong một thời gian dài.
Có rất nhiều cách thực hiện liên doanh, mỗi cách thức lại nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau của liên doanh. Có thể là cả hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể là cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai; Nền tảng pháp lý cho sự tồn tại của liên doanh là hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các chủ thể và hệ thống luật pháp của nước tiếp nhận đầu tư.
– Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài
Đầu tư 100% vốn để lập doanh nghiệp tại địa bàn tiếp nhận đầu tư là một hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mục đích ban đầu của hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là thăm dò thị trường của nước tiếp nhận đầu tư nhằm tìm kiếm cơ hội, sau đó đã trở thành một biện pháp có tính chiến lược của các nhà đầu tư.
Người đại diện cho loại hình doanh nghiệp này là Tổng giám đốc, nếu Tổng giám đốc không thường trú tại nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư thì phải ủy quyền cho người thường trú tại nước tiếp nhận đầu tư đảm nhiệm. Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài được quyền tự quyết trong mọi vấn đề, ít chịu sự chi phối của các bên có liên quan, ngoại trừ phải tuân thủ quy định pháp luật của nước sở tại vì vậy các nhà đầu tư thường rất thích đầu tư theo hình thức này nếu có điều kiện.
– Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài mà trong đó nhà đầu tư nước ngoài và chủ thể tại nước (địa bàn) nhận đầu tư cùng nhau ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai bên. Trong thời gian thực hiện hợp đồng các bên phải xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi mình mà không tạo ra một pháp nhân mới.
Ưu điểm của hình thức đầu tư này là giúp các địa phương tiếp nhận đầu tư giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước tiếp nhận đầu tư, lợi nhuận ổn định. Ngoài ra, đây là hình thức đơn giản nhất về thủ tục pháp lý nên thường được lựa chọn trong các giai đoạn đầu thu hút FDI của các nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là nước tiếp nhận đầu tư không tiếp thu được kinh nghiệm quản lý; công nghệ có thể lạc hậu. Ngoài ra hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân mới và mọi hoạt động của hình thức này phải dựa vào pháp nhân của nước tiếp nhận đầu tư, vì vậy các nhà đầu tư rất khó kiểm soát hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thuộc loại hình này.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được thực hiện với nhiều hình thức cụ thể như: BOT, BT, BO…
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện vai trò trong một số điểm chính sau:
Một là, giúp cho các địa phương trong vùng kinh tế bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội. Trong các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các địa phương, yếu tố nguồn vốn luôn có vai trò quan trọng. Muốn tăng trưởng nhanh, phải có nhiều vốn. Nếu nguồn vốn trong nước không đáp ứng đủ, cần phải thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài, trong đó có nguồn vốn FDI vào vùng hay các địa phương trong vùng.
Hai là, giúp các địa phương trong vùng có thể tiếp thu công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý chuyên nghiệp. Thu hút nguồn vốn FDI từ các nước tiên tiến giúp các địa phương trong vùng có thể tiếp cận công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh chuyên nghiệp từ các nhà đầu tư.
Ba là, giúp cho các địa phương trong vùng có thể tham gia được vào mạng lưới sản xuất chung của toàn cầu. Thu hút vốn đầu tư FDI giúp cho các doanh nghiệp khác trong vùng có mối quan hệ hợp tác kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài, do đó cũng có thể tham gia vào quá trình phân công lao động trong khu vực và toàn cầu.
Bốn là, giúp các địa phương trong vùng tạo được việc làm và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp FDI muốn tận dụng lợi thế về nhân công giá rẻ tại các địa bàn tiếp nhận đầu tư để giảm chi phí sản xuất, đồng thời trong quá trình lao động tại các doanh nghiệp FDI người lao động của địa phương sẽ được đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động chuyên nghiệp… Chính vì vậy, sẽ góp phần tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng, tri thức cho địa phương tiếp nhận nguồn vốn FDI.
Năm là, giúp các địa phương và toàn vùng tăng ngân sách bằng nguồn thu từ các doanh nghiệp FDI. Nguồn thu từ các doanh nghiệp FDI chủ yếu là nguồn thu từ thuế, đây là nguồn thu ngân sách quan trọng đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương.
Với có lợi thế về nguồn lao động dồi dào và nguyên liệu đầu vào giá rẻ, Nhà nước phải có những chính sách hợp lý trong chiến lược phát triển của mình nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam góp phần vào mục tiêu phát triển KT-XH.
3. Vai trò của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quan hệ lợi ích của vùng kinh tế
Thu hút FDI theo vùng kinh tế mang lại những lợi ích sau đây:
Thu hút FDI chung của vùng kinh tế sẽ tạo điều kiện để các tỉnh tham gia vào phân công chuyên môn hóa, qua đó thu được lợi ích tổng thể lớn hơn cho dân cư trong vùng kinh tế, cho quốc gia, làm tăng vị thế đàm phán, thỏa thuận của chính quyền cấp tỉnh với nhà đầu tư nước ngoài, hạn chế cạnh tranh bất lợi giữa các tỉnh.
Chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thống nhất theo vùng kinh tế tạo điều kiện tập trung nguồn lực kết nối hệ thống KCHT, phân công trách nhiệm của mỗi tỉnh trong vùng nhằm tạo môi trường có tổ chức, có sức cạnh tranh, có thị trường lớn, qua đó phát huy lợi thế của vùng kinh tế, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế có thể mang lại tác động xấu đến việc phát triển kinh tế của vùng nói chung và của từng địa phương nói riêng. Cụ thể là:
Chính sách chung của vùng kinh tế có thể giảm độ hấp dẫn của từng tỉnh khiến nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư vào vùng.
Sự phối hợp các tỉnh trong vùng kinh tế nếu thiếu chặt chẽ cũng làm giảm tính tích cực của nhà đầu tư nước ngoài vào vùng. Nhà đầu tư nước ngoài thường “ái ngại” về tính bền vững của các hợp tác không được bảo đảm nên họ sẽ không tin tưởng ĐT theo chính sách chung của vùng kinh tế.
Để phát triển kinh tế xã hội trong vùng đòi hỏi phải có vốn. Thiếu vốn, mọi hoạt động KT-XH sẽ bị ngưng trệ. Những lĩnh vực cần nhiều ưu tiên của các địa phương không được đáp ứng đầy đủ. Nguồn vốn đầu tư cho đến hiện nay vẫn là một trong những nguồn lực đầu vào quan trọng. Vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Các nước đang phát triển có khả năng tích lũy thấp, thị trường vốn trong nước còn yếu kém và gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với thị trường vốn bên ngoài. Nên nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển KT-XH. Thu hút nguồn vốn FDI sẽ giúp tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho phát triển, bổ sung vào lượng vốn đang bị thiếu hụt mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện chính trị do các nước đầu tư đưa ra và tránh được tình trạng nợ nần. Mặt khác, khi xảy ra rủi ro, nguồn vốn FDI ít ảnh hưởng đến tài chính vì phần lớn các thiệt hại khi xảy ra rủi ro đều do các nhà đầu tư nước ngoài gánh chịu. Hiện nay, có nhiều nước phát triển nắm giữ một vốn khổng lồ muốn đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận, đây chính là cơ hội của các nước đang thiếu vốn để có thể tranh thủ thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên thực tế, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đã thu hút một lượng lớn nguồn vốn FDI và đã giải quyết được phần nào những khó khăn về vốn trong quá trình phát triển KT-XH.
Bên cạnh vai trò là biện pháp để có nguồn vốn bổ sung quan trọng, việc thu hút FDI còn có tác động tích cực đến việc huy động các nguồn vốn khác của địa phương. Các ngân hàng thương mại, chính phủ của các nước đầu tư và các tổ chức tài chính quốc tế khác luôn tin tưởng vào các nước tiếp nhận được nhiều nguồn vốn đầu tư, do đó họ sẽ tiếp tục cung cấp nhiều nguồn vốn cho các nước này.
Thu hút FDI thành công sẽ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các địa phương trong vùng. Mục tiêu hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận, các nhà đầu tư tiến hành đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất để mang lại hiệu quả cao nhất thì hoạt động sản xuất kinh doanh cần được tập trung tối ưu hóa. Như vậy, bên cạnh việc tối đa hóa lợi ích cho các chủ đầu tư, nguồn vốn FDI còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm… và chịu sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại và phát triển thì phải thay đổi, học hỏi và nâng cao trình độ quản lý, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ, nguồn vốn… nâng cao chất lượng sản phẩm, giá thành hạ, mở rộng thị trường nội địa và có thể xuất khẩu nhằm tăng thu nhập cho người lao động và gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp.
Khi thu hút FDI, nguồn vốn FDI góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong vùng kinh tế thu hút thành công. Đầu tư nguồn vốn FDI vào vùng tiếp nhận đầu tư không chỉ diễn ra thông qua hình thức chuyển vào nơi tiếp nhận đầu tư một lượng vốn bằng tiền mà còn bằng cả nguồn vốn là tài sản hữu hình như: máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…và nguồn vốn là tài sản vô hình như: công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng quản lý lao động, tác phong làm việc công nghiệp… Thêm vào đó khi chuyển giao công nghệ không chỉ đơn thuần là nhập khẩu công nghệ, mà còn chuyển giao các nguyên lý hoạt động vận hành, sửa chữa, bảo hành, mô phỏng và phát triển các công nghệ đó.
Với trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu, việc vùng kinh tế của các nước đang phát triển tự nghiên cứu để phát triển công nghiệp là một việc làm mất rất nhiều thời gian và tốn kém. Vì vậy, để theo kịp trình độ công nghệ hiện đại của thế giới, con đường nhanh nhất đối với các nước đang phát triển trong đó có các vùng kinh tế là chuyển giao công nghệ và thu hút nguồn vốn FDI. Đây là phương thức nhanh nhất và tốt nhất để các địa phương đang phát triển tiếp thu được công nghệ có trình độ cao hơn. Ngoài việc chuyển giao công nghệ, đi kèm với nó là chuyển giao kỹ thuật, chuyển giao kỹ năng quản lý.
Thu hút nguồn vốn FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các địa phương trong vùng. Để thúc đẩy tăng trưởng KT-XH các nước đang phát triển phải nhanh chóng tranh thủ thu hút nguồn vốn và công nghệ của nước ngoài thông qua hoạt động đầu tư FDI. Chính vì vậy thông qua thu hút FDI có thêm tiền đề để các nước tiếp nhận đầu tư khai thác các nguồn lực sẵn có trong nước hướng đến mục tiêu phát triển KT-XH. Ngoài ra, mức tăng vốn đầu tư không những tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế mà các tác động đến các yếu tố khác như số lượng lao động, năng suất lao động… cũng tăng lên.
Thông qua thu hút nguồn vốn FDI góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương trong vùng. Để hội nhập kinh tế và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế thế giới đòi hỏi các nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư phải thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia gần với trình độ phát triển chung của thế giới sẽ là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thu hút nguồn vốn FDI và ngược lại, hoạt động của các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong mối quan hệ lợi ích giữa nhà đầu tư và người dân trong các địa phương của vùng, nguồn vốn FDI tạo việc làm và thu nhập cho người lao động trong vùng. Nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tiến hành đầu tư vào nước (địa phương) tiếp nhận đầu tư thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh tại nơi đó, và để khai thác lợi thế so sánh của địa phương tiếp nhận đầu tư đó là sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ khác, tăng hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, hoạt động FDI đã tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút một lượng lớn lao động, nhân công làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các địa phương đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ tuy nhiên trình độ lao động thấp và có địa phương có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Tuy nhiên do thiếu vốn, thiếu công nghệ nên các địa phương không thể khai thác hết tiềm năng của vùng và hoạt động FDI giúp các vùng giải quyết được bài toán thất nghiệp, khai thác được tiềm năng của nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên và tình trạng thiếu vốn.
Nguồn vốn FDI giúp người dân ở các địa phương tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động FDI là một hình thức hợp tác quốc tế thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp thông qua các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia. Giữa các quốc gia có mối quan hệ kinh tế đối ngoại tốt, bền vững thì càng thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động FDI. Thêm vào đó, hoạt động FDI còn có tác dụng tích cực trong việc tăng thu ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế, cho thuê quyền sử dụng tài nguyên thiên nhiên, cơ sở công nghiệp và dịch vụ từ các doanh nghiệp FDI, tăng thêm nguồn viện trợ không hoàn lại và thúc đẩy các hoạt động phụ trợ khác. Thông qua đó, người dân có được tư duy mới, có khả năng tham gia hội nhập quốc tế.
Mặc dù vậy, xét trong quan hệ lợi ích vùng kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đưa tới nhiều hệ lụy cần được nêu ra để các địa phương nhận thức một cách toàn diện gồm:
Thứ nhất, về kinh tế, hoạt động đầu tư FDI không phải bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng phát huy tác dụng tích cực của nó đối với KT-XH của địa phương tiếp nhận đầu tư, mà còn phụ thuộc vào môi trường đầu tư ổn định, hoàn thiện và vai trò của quản lý của nhà nước. Ngoài những giá trị tích cực mang lại cho địa phương tiếp nhận đầu tư, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đem lại những tiêu cực sau:
– Hoạt động FDI làm tăng sự lệ thuộc của quốc gia hay địa phương vào nước ngoài về vốn, kỹ thuật và mạng lưới thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trình độ công nghệ lạc hậu và trình độ lao động thấp là đặc điểm thường thấy ở các địa phương tiếp nhận đầu tư. Như vậy khi muốn tiến hành đầu tư vào nước sở tại các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mang cả công nghệ hiện đại – tiên tiến để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của thị trường, đạt lợi nhuận lớn nên hầu hết công nghệ sản xuất, tư liệu lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước phải nhập khẩu kể cả vốn sản xuất. Ngoài ra, các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng nắm giữ thị trường tiêu thụ sản phẩm như vậy hàng hóa được sản xuất ra được bán trên thị trường nội địa và xuất khẩu sang những thị trường mà chủ đầu tư trực tiếp nước chiếm lĩnh hoặc có thể ở thị trường mới.
– Địa phương tiếp nhận đầu tư không hoàn toàn chủ động trong việc bố trí đầu tư theo chiến lược phát triển của mình. Địa phương tiếp nhận đầu tư thu hút được nguồn vốn FDI, tuy nhiên các chủ đầu tư lại là người quản lý trực tiếp các hoạt động sản xuất và sử dụng theo những mục tiêu riêng họ, mặc dù hoạt động sản xuất của doanh nghiệp FDI vẫn trong khuôn khổ pháp luật của nước sở tại. Thông thường, các nhà đầu tư ít quan tâm đến việc đầu tư sản xuất kinh doanh vào những ngành nghề tạo ra lợi nhuận thấp hoặc những nơi vùng sâu, vùng xa có điều kiện KT-XH khó khăn… Vì vậy làm cho cơ cấu kinh tế theo ngành, theo lãnh thổ bị mất cân đối, thậm chí hoạt động của các doanh nghiệp FDI có thể làm phá sản những ngành nghề truyền thống của nước tiếp nhận đầu tư, chính vì vậy việc quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương tiếp nhận đầu tư có thể bị phá vỡ hoặc thay đổi theo hướng bất lợi cho địa phương.
– Thứ hai, về khía cạnh luật pháp và môi trường, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng kẽ hở trong pháp luật và trong quản lý, các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng để chuyển giá trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường và tổn hại đến lợi ích của địa phương tiếp nhận đầu tư. Ở các địa phương trong vùng tiếp nhận đầu tư pháp luật thường chưa đồng bộ và hoàn thiện, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và với năng lực quản lý yếu kém bộ máy quản lý nhà nước đã tạo ra những kẽ hở trong hoạt động FDI để các nhà đầu tư nước ngoài lách luật. Công tác đánh giá, thanh tra, kiểm tra và thẩm định tác động của hoạt động FDI đến môi trường sống xung quanh của một số dự án chưa chặt chẽ, một số dự án không phù hợp với văn hóa của nước tiếp nhận đầu tư, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt làm tổn hại đến môi trường sinh thái.
– Địa phương tiếp nhận đầu tư có nguy cơ trở thành nơi tiếp nhận những công nghệ cũ, lạc hậu của nước ngoài. Trình độ yếu kém của địa phương tiếp nhận đầu tư vì vậy khi tiếp nhận công nghệ từ các nhà đầu tư thường được đánh giá cao hơn mức bình thường. Mặc dù có thể những thiết bị, công nghệ đó chỉ là những công nghệ hạng 2, hạng 3 của các nước đầu tư nhưng vẫn còn hiện đại hơn so với thiết bị, công nghệ đang sử dụng ở địa phương tiếp nhận đầu tư nhưng nguy cơ trở thành bãi rác thải của các nước công nghiệp phát triển là điều hết sức nguy hiểm.
– Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng hoạt động FDI để can thiệp bất lợi vào quan hệ chính trị của địa phương tiếp nhận đầu tư, hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Ngoài mục tiêu đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận, còn có không ít một số cá nhân, tổ chức tiến hành đầu tư ra nước ngoài với mục tiêu chính trị. Trong thế giới đa cực và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ các hoạt động tình báo diễn ra ngày càng nhiều và tinh vi đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận đầu tư luôn phải tỉnh táo trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật doanh nghiệp – Công ty luật Minh Khuê