COVID-19 – Bệnh truyền nhiễm – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Những phương pháp điều trị này nhằm ngăn chặn sự tiến triển thành bệnh nặng ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Các phương pháp này được dùng cho bệnh nhân trong vòng vài ngày sau khi khởi phát COVID-19 ở mức độ nhẹ đến trung bình đang cấp cứu (hoặc nhập viện vì những lý do khác ngoài COVID-19); các lựa chọn điều trị (ngoài remdesivir) chưa được nghiên cứu ở những bệnh nhân nhập viện vì COVID-19.

Nirmatrelvir, một loại thuốc kháng vi-rút đường uống, được dùng phối hợp với ritonavir, đã nhận được Giấy phép Sử dụng Khẩn cấp (EUA) từ Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) để điều trị COVID-19 từ nhẹ đến trung bình ở người lớn và thanh thiếu niên (cân nặng ≥ 12 tuổi ≥ 40 kg) có kết quả dương tính với xét nghiệm vi rút SARS-CoV-2 trực tiếp và có nguy cơ cao tiến triển thành COVID-19 nặng. Việc phối hợp nirmatrelvir và ritonavir cần phải được bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi có chẩn đoán COVID-19 và trong vòng 5 ngày kể từ ngày khởi phát triệu chứng. Liều dùng là hai viên nén 150 mg nirmatrelvir và một viên nén ritonavir 100 mg, uống cùng nhau hai lần mỗi ngày trong 5 ngày. Điều trị bằng thuốc này không được phép sử dụng lâu hơn 5 ngày liên tục. (Xem thêm Tờ thông tin EUA FDA.)

Nirmatrelvir là một thuốc ức chế protease phân cắt một protein SARS-CoV-2 và do đó ức chế vi rút sao chép. Ritonavir là một thuốc ức chế cytochrome P450 (CYP) 3A4 mạnh và có tác dụng như một chất thúc đẩy; nó làm chậm quá trình trao đổi chất của nirmatrelvir, khiến nó tồn tại trong cơ thể lâu hơn ở nồng độ cao hơn.

Phối hợp nirmatrelvir/ritonavir đã được nghiên cứu trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở 2.246 người trưởng thành có triệu chứng không nhập viện ≥ 18 tuổi với yếu tố nguy cơ được xác định trước để tiến triển thành bệnh nặng hoặc ≥ 60 tuổi bất kể tình trạng bệnh mạn tính đã xác định trước. Tất cả các bệnh nhân chưa được tiêm vắc xin phòng COVID-19, chưa bị nhiễm COVID-19 trước đó và đã được phòng thí nghiệm xác nhận chẩn đoán nhiễm SARS-CoV-2. Phối hợp nirmatrelvir/ritonavir được đưa ra ở thời điểm ≤ 5 ngày sau khi khởi phát triệu chứng làm giảm tỷ lệ người nhập viện hoặc tử vong liên quan đến COVID-19 do bất kỳ nguyên nhân nào cho đến ngày 28 so với giả dược xuống 88% (0,8 so với 6,3%) (1 Tài liệu tham khảo về điều trị COVID-19 là một bệnh hô hấp cấp tính, đôi khi nặng do một coronavirus mới SARS-CoV-2 gây ra. Phòng ngừa là bằng cách tiêm chủng, các biện pháp phòng ngừa kiểm soát nhiễm trùng (ví dụ: khẩu trang… đọc thêm ).

Sử dụng phối hợp nirmatrelvir/ritonavir ở những người nhiễm HIV-1 không kiểm soát được hoặc chưa được chẩn đoán có thể dẫn đến HIV-1 kháng thuốc. Dạng phối hợp nirmatrelvir/ritonavir có thể gây tổn thương gan, vì vậy cần thận trọng ở những bệnh nhân có bệnh gan từ trước, có bất thường men gan hoặc viêm gan. Thuốc không được khuyến nghị ở bệnh nhân bị gan nặng.

Ở những bệnh nhân suy thận trung bình, có độ thanh thải creatinin ước tính (còn gọi là tốc độ lọc cầu thận ước tính hoặc eGFR) từ 30 đến 60 mL/phút, liều giảm xuống còn 150 mg nirmatrelvir (một viên 150 mg) với 100 mg ritonavir (một viên 100 mg), với cả hai viên uống cùng nhau hai lần mỗi ngày trong 5 ngày. Không khuyến nghị phối hợp nirmatrelvir/ritonavir ở bệnh nhân suy thận nặng (eGFR < 30 mL/phút).

Các triệu chứng trở lại đã được báo cáo ở một số bệnh nhân sau khi sử dụng nirmatrelvir/ritonavir và các xét nghiệm PCR và kháng nguyên đối với SARS-CoV-2 có thể dương tính trở lại, ngay cả ở những bệnh nhân không có triệu chứng. Điều trị bổ sung hiện không được khuyến nghị, nhưng bệnh nhân nên được tư vấn cách ly y tế lại nếu các triệu chứng hoặc xét nghiệm phục hồi xảy ra. (Xem thêm CDC: COVID-19 Rebound After Paxlovid Treatment.)

Thuốc phối hợp nirmatrelvir/ritonavir có nhiều loại tương tác thuốc nghiêm trọng đã biết và có thể xảy ra; các loại thuốc dùng đồng thời phải được sàng lọc về những tương tác này trước khi bắt đầu điều trị. Để biết danh sách đầy đủ về các tương tác thuốc này, hãy xem Tờ thông tin EUA FDA.

Remdesivir, một loại thuốc kháng vi rút đường tĩnh mạch, được sử dụng để điều trị COVID-19 từ nhẹ đến trung bình ở người lớn và thanh thiếu niên (≥ 12 tuổi và cân nặng ≥ 40 kg) có kết quả dương tính với xét nghiệm vi rút SARS-CoV-2 trực tiếp và những người đang ở mức cao nguy cơ tiến triển thành COVID-19 nặng. Thuốc cần phải được bắt đầu dùng càng sớm càng tốt và trong vòng 7 ngày kể từ ngày khởi phát triệu chứng. Liều của một đợt điều trị 3 ngày của remdesivir là 200 mg đường tĩnh mạch vào ngày 1 và 100 mg đường tĩnh mạch vào ngày 2 và 3. Liệu trình có thể kéo dài 5 ngày đối với những bệnh nhân chuyển sang giai đoạn bệnh nặng.

Remdesivir đã được nghiên cứu cho chỉ định này trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở 562 bệnh nhân không nhập viện từ 12 tuổi trở lên bị COVID-19 có triệu chứng có nguy cơ cao tiến triển thành bệnh nặng và những người chưa tiêm vắc xin phòng COVID-19. Remdesivir được dùng trong 3 ngày và bắt đầu trong vòng 7 ngày sau khi bắt đầu có triệu chứng làm giảm tỷ lệ nhập viện hoặc tử vong cho đến ngày 28 so với giả dược xuống 87% (0,7 so với 5,3%) (2 Tài liệu tham khảo về điều trị COVID-19 là một bệnh hô hấp cấp tính, đôi khi nặng do một coronavirus mới SARS-CoV-2 gây ra. Phòng ngừa là bằng cách tiêm chủng, các biện pháp phòng ngừa kiểm soát nhiễm trùng (ví dụ: khẩu trang… đọc thêm ).

Molnupiravir, một loại thuốc kháng vi rút đường uống, là một thuốc tương tự nucleoside có tác dụng bằng cách đưa các lỗi vào bộ gen của vi rút SARS-CoV-2, giúp ức chế sự nhân lên của vi rút. Thuốc đã có EUA của FDA để điều trị COVID-19 nhẹ đến trung bình ở người lớn không nhập viện ≥ 18 tuổi có kết quả dương tính với xét nghiệm vi rút SARS-CoV-2 trực tiếp và những người có nguy cơ cao tiến triển thành bệnh nặng, bao gồm cả nhập viện hoặc tử vong, và những lựa chọn điều trị COVID-19 thay thế được FDA cho phép không thể tiếp cận hoặc không phù hợp về mặt lâm sàng. Cần phải bắt đầu dùng molnupiravir càng sớm càng tốt sau khi có chẩn đoán COVID-19 và trong vòng 5 ngày kể từ khi bắt đầu khởi phát triệu chứng. Molnupiravir được sử dụng dưới dạng bốn viên nang 200 mg theo đường uống, 12 giờ một lần, trong 5 ngày. Không được phép sử dụng thuốc này lâu hơn 5 ngày liên tục. (Xem thêm Tờ thông tin EUA của FDA để biết thông tin về Molnupiravir.)

Molnupiravir có thể có ảnh hưởng đến khả năng xuất hiện các biến thể SARS-CoV-2 mới dựa trên mối lo ngại về mặt lý thuyết; tuy nhiên, nguy cơ được cho là thấp dựa trên dữ liệu về độc tính trên di truyền sẵn có và liệu trình điều trị 5 ngày hạn chế. Molnupiravir không được phép sử dụng cho bệnh nhân < 18 tuổi vì nó có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của xương và sụn. Molnupiravir không được khuyến nghị sử dụng trong thai kỳ vì các nghiên cứu trên hệ sinh sản ở động vật cho thấy rằng molnupiravir có thể có hại cho thai nhi khi dùng cho bệnh nhân mang thai. Phụ nữ có khả năng sinh đẻ được khuyến nghị sử dụng một phương pháp ngừa thai đáng tin cậy một cách chính xác và nhất quán trong khi điều trị bằng molnupiravir và trong 4 ngày sau khi dùng liều cuối cùng. Nam giới có khả năng sinh sản có quan hệ tình dục với nữ giới có khả năng sinh đẻ được khuyến cáo sử dụng phương pháp ngừa thai đáng tin cậy một cách chính xác và nhất quán trong thời gian điều trị bằng molnupiravir và trong ít nhất 3 tháng sau thời điểm dùng liều cuối cùng.

Molnupiravir đã được nghiên cứu trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược trên 1433 bệnh nhân không nhập viện ≥ 18 tuổi bị COVID-19 từ nhẹ đến trung bình có nguy cơ cao tiến triển thành COVID-19 nặng và/hoặc nhập viện và những người không tiêm vắc xin phòng COVID-19. Molnupiravir được sử dụng trong 5 ngày và bắt đầu trong vòng 5 ngày kể từ khi có triệu chứng làm giảm tỷ lệ nhập viện hoặc tử vong cho đến ngày 29 so với giả dược (6,8 so với 9,7%) (3 Tài liệu tham khảo về điều trị COVID-19 là một bệnh hô hấp cấp tính, đôi khi nặng do một coronavirus mới SARS-CoV-2 gây ra. Phòng ngừa là bằng cách tiêm chủng, các biện pháp phòng ngừa kiểm soát nhiễm trùng (ví dụ: khẩu trang… đọc thêm ).

Bamlanivimab cộng với etesevimab, casirivimab cùng với imdevimab và sotrovimab là các liệu pháp trung hòa kháng thể đơn dòng (mAb) kháng SARS-CoV-2. FDA đã khuyến nghị (ngày 22 tháng 4 năm 2022) chống lại việc sử dụng các thuốc này trong điều trị COVID-19 vì Omicron đã trở thành biến thể thống trị ở Hoa Kỳ và các tiểu biến Omicron lưu hành mới có khả năng chống lại tác dụng trung hòa của các thuốc này (xem NIH: Anti-SARS-CoV-2 Monoclonal Antibodies). Bebtelovimab là một kháng thể đơn dòng kháng SARS-CoV-2 trung hòa, duy trì hoạt động chống lại các biến thể Omicron ban đầu nhưng không được cho là sẽ vô hiệu hóa các biến thể phụ Omicron sau này và hiện đang chiếm ưu thế là BQ.1 và BQ.1.1; do đó, có hiệu lực từ ngày 30 tháng 11 năm 2022, bebtelovimab không được phép sử dụng ở Hoa Kỳ (xem FDA công bố Bebtelovimab hiện không được phép sử dụng ở bất kỳ khu vực nào của Hoa Kỳ).