Bộ luật Hồng Đức tiên phong bênh vực nữ quyền

Điều 308 quy định: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ”.

Mặc dù dưới thời phong kiến, quan hệ hôn nhân của con cái là do cha mẹ sắp đặt, định đoạt, song Điều 322 quy định “con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn, nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái được kêu quan mà trả đồ lễ…” hoặc “con rể lăng mạ cha mẹ vợ, đem thưa quan, cho ly dị”, và người con gái sẽ không bị phân biệt đối xử khi thoái hôn.

Trong thực tế, thời phong kiến người phụ nữ rất hiếm khi thực hiện được quyền này. Tuy nhiên, việc luật định như vậy đã thể hiện được quyền lợi của người phụ nữ và quan trọng hơn nó trở thành cơ sở để bắt buộc người chồng phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với vợ và gia đình. Có thể nói đây là điều luật thể hiện rất rõ tính sáng tạo của các nhà làm luật thời Hậu Lê.

Bộ luật Hồng Đức tiên phong bênh vực nữ quyền Hình ảnh minh họa

Trong quan hệ thừa kế ruộng hương hỏa, Bộ luật Hồng Đức cũng cho phép con gái trưởng được thừa kế ruộng hương hỏa nếu gia đình không có con trai (Điều 391). Các điều từ Điều 374 đến Điều 376 đã gián tiếp thừa nhận người vợ có quyền có tài sản riêng, có quyền đồng sở hữu khối tài sản chung cùng chồng trong thời gian hôn nhân. Người vợ cũng có quyền được thừa kế tài sản của chồng và sự chênh lệch giữa hai vợ chồng trong việc thừa kế tài sản của nhau là không đáng kể.

Các quy định này phản ánh truyền thống tôn trọng phụ nữ trong đời sống xã hội và trong gia đình người Việt. Chính việc tiếp thu và kế thừa một cách hài hòa, sâu sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cũng như tiếp nhận và thể hiện được yếu tố luật tục trong nhiều chế định đã góp phần tạo nên hiệu lực thực tế và ảnh hưởng lâu dài của Bộ luật Hồng Đức kể cả sau khi nhà Hậu Lê không còn tồn tại.

Phụ nữ phạm tội không bị áp dụng một số hình phạt như trượng hình, riêng lưu hình thì đàn bà chỉ bị đánh roi, thích chữ vào mặt, bắt phải làm việc nhưng không phải đeo xiềng xích như đàn ông; đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới được đem hành hình. Nếu ngục quan làm trái luật thì phải chịu tội.

Chương Thông gian quy định các hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi xâm hại tình dục, nhân phẩm tiết hạnh, nhất là đối với trẻ em gái. Tội gian dâm với vợ người khác hay quyến rũ con gái chưa chồng đều bị xử tội đồ hay lưu và phải nộp tiền tạ, kẻ dắt mối cũng phải chịu tội. Hiếp dâm ngoài bị xử tội lưu hay tội chết còn phải nộp tiền tạ hơn một bậc so với tội gian dâm thường; riêng việc gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, dù người con gái thuận tình thì cũng xử như tội hiếp dâm.

Cũng là gian dâm nhưng đối với người phụ nữ là vợ kế, vợ lẽ của ông cha, với mẹ nuôi, mẹ kế, chị em gái… thì bị xử nặng hơn, người đàn bà bị lưu đi châu xa. Đặc biệt, các ngục quan, ngục lại gian dâm với đàn bà, con gái có việc kiện thì xử tội nặng hơn tội gian dâm thường một bậc.

Bộ luật Hồng Đức là 1 trong 4 bộ tổng luật thành văn trong lịch sử lập pháp Việt Nam (cùng với bộ Hình thư thời Lý, bộ Quốc triều thông chế thời Trần và bộ Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn). Bộ luật Hồng Đức là sản phẩm của việc pháp điển hóa pháp luật thời Lê sơ, hiệu lực của nó không chỉ duy trì trong hơn 300 năm thời Hậu Lê; mà kể cả thời Nguyễn sau này hay hệ thống pháp luật Việt Nam hiện đại cũng đã kế thừa nhiều thành tựu lập pháp trong bộ luật Hồng Đức.

Bộ luật Hồng Đức bao gồm 722 điều, chia thành 13 chương; nhưng không phải tất cả các điều luật này đều được ban hành trong thời kì Hồng Đức (1470-1497). Ví dụ, điều 388 bộ luật Hồng Đức được ban hành vào năm Quang Thuận thứ 2 (1461); điều 389 bộ luật Hồng Đức được ban hành vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), điều 391 bộ luật Hồng Đức được ban hành vào năm Quang Thiệu thứ 2 (1517)…