Bài tiểu luận thực trạng giáo dục tiểu học việt nam hiện nay – TIỂU LUẬN Một số biện pháp nhằm nâng – StuDocu
Mục Lục
TIỂU LUẬN
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học của
trường TH Lê Văn Tám
A. Phần mở đầu
Iính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu.
1). Cơ sở lý luận
Từ khi đất nước được đổi mới, mục tiêu GD nói chung của nước ta theo cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, được hiến pháp
năm 1992 ghi rõ ở điều 35 GD là quốc sách hàng đầu, nhà nước phát triển giáo dục
nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là
hoàn thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đào tạo
người lao động có tay nghề, năng động sáng tạo có niềm tin đạo đức trong sáng, có
niềm tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Riêng môn giáo dục đạo đức hiện
nay Đảng và nhà Nước ta đặc biệt quan tâm:
Một là do con người là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội (Văn kiện hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng khoá
VII ). Hai là do điều Đặc biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh sinh viên có
tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài
bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước ( Văn kiện hội nghị lần
thứ hai của BCHTW Đảng khoá VIII ). Vì vậy, hội nghị đã ghi Tăng cường giáo dục
tư tưởng đạo đức, lòng yêu nước,….. đồng thời nhấn mạnh: đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của
người học. Nâng cao năng lực tự học và thực hành cho học sinh.
Xuất phát từ những giá trị cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hoá – hiện đại hoá, từ mục tiêu, đặc trưng của giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
đối với sự phát triển nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2).Cơ sở thực tiễn.
Trường tiểu học Lê Văn Tám nằm ở khu vực biên giới giáp với CamPuChia có
đường Hồ Chí Minh đi ngang qua điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn song cũng
-
Xây dựng cơ sở lý thuyết.
-
Khảo sát, phân tích thực trạng, tìm ra những nguyên nhân chủ yếu.
-
Đề ra các biện pháp nhằm cải tạo thực trạng.
-
Kết luận và đề xuất kiến nghiệm
III. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
– Đối tượng : Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh.
– Khách thể: Các phương pháp, hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh của giáo
viên, gia đình; việc tự học, tự rèn, và sự thể hiện các chuẩn mực, hành vi đạo đức của
học sinh.
IV. Giả thuyết khoa học.
-
Nếu các biện pháp của nhóm nghiên cứu được áp dụng vào công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh tiểu học của địa bàn nơi trường đóng thì chất lượng giáo dục đạo đức
cho học sinh sẽ đạt hiệu quả cao hơn. -
Nếu giáo viên chủ nhiệm lớp biết cách phối kết hợp với nhà trường, gia đình và
chính quyền địa phương trong việc giáo dục đạo đức thì các em sẽ chăm ngoan học
giỏi hơn. -
Nếu học sinh nhận thức rõ được vấn đề thì việc giáo dục đạo đức sẽ đạt chất lượng
cao hơn. -
Nếu gia đình – cha mẹ học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục
đạo đức và giúp các em vận dụng những kiến thức về các chuẩn mực, hành vi đạo đức
đã học vào cuộc sống thực tế thì nhất định sẽ thúc đẩy đợt quá trình giáo dục toàn diện
cho học sinh.
V. Phạm vi của nghiên cứu.
Học sinh tiểu học và các hoạt động giáo dục đạo đức của nhà trường tiểu học
Lê Văn Tám, việc tham gia công tác giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình
học sinh trên địa bàn xã Đắk Dục Huyện Ngọc Hồi- Kon Tum.
VIác phương pháp nghiên cứu.
● Phương pháp 1: Đọc tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
● Phương pháp 2: Quan sát, trò chuyện – đàm thoại.
● Phương pháp 3 : Điều tra
Chúng tôi sử dụng phiếu điều tra( Anket) với hệ thống câu hỏi tự xây dựng
nhằm khảo sát thực trạng, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiện nay. Từ
hệ thống câu hỏi điều tra để tìm ra kết quả và đề ra biện pháp khắc phục một cách
thống nhất.
● Phương pháp 4: Thống kê toán học để xử lý các số liệu đã thu được. Chúng tôi
sử dụng công thức tính tần suất: Wi= i/n để tính phần trăm.
VIIịch sử của vấn đề nghiên cứu.
Những giá trị đạo đức của một thời kỳ lịch sử phải xuất phát từ những yêu cầu
khách quan của sự phát triển xã hội và phải góp phần phát triển nhân cách, phát triển
con người, góp phần vào việc thiết lập mối quan hệ giữa con người với con người, con
người với tự nhiên, với môi trường sống nhằm làm cho xã hội phát triển. Xuất phát từ
yêu cầu đó, trong những năm gần đây chúng ta đã và đang thực hiện công cuộc đổi
mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học
đạo đức nói riêng. Đó cũng chính là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới giáo dục
Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay. Đổi mới phương pháp dạy học sẽ làm thay đổi
tận gốc nếp nghĩ, nếp làm của các thế hệ học trò chủ nhân tương lai của đất nước.
Chúng ta đều biết không phải cái gì cũ cũng tồi và cái gì mới cũng hoàn hảo. Hiệu quả
hay không của phương pháp dạy học là do người giáo viên tiến hành nó như thế nào.
Xét bản thân phương pháp dạy học thì không có phương pháp nào là phương pháp tôi,
B Nội dung Nghiên cứu.
Chương Iấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học trong
giai đoạn mới hiện nay.
Iác khái niệm về vấn đề giáo dục đạo đức tiểu học.
1).Đạo đức:
Là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với
lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ xã hội, trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
2).Giáo dục đạo đức:
Là cách thức tổ chức và hướng dẫn học sinh tiểu học lĩnh hội được những biểu
tượng và khái niệm đạo đức thể hiện cụ thể trong những hành vi đạo đức theo những
chuẩn mực. Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học là tổ chức cuộc sống của trẻ (gồm
các hoạt động học tập lao động vui chơi… và các mối quan hệ của trẻ đối với bản thân,
gia đình, nhà trường, xã hội, môi trường tự nhiên) theo đúng các chuẩn mực đạo đức.
3).Những giá trị cơ bản của con người Việt nam thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
Xuất phát từ vai trò vị trí của đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, từ vị
trí của con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và tự nhiên với tư cách là
chủ thể giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa quyền lợi và
nghĩa vụ, giữa vật chất và tinh thần, giữa dân tộc và nhân loại. Vì vậy có thể xác định
hệ thống các chuẩn mực đạo đức( giá trị đạo đức) theo năm nhóm phản ánh các mối
quan hệ chính mà con người phải giải quyết.
3-Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện lý tưởng sống của cá nhân phù hợp với
yêu cầu đạo đức xã hội.
-
Có lý tưởng XHCN, thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
-
Yêu quê hương, đất nước.
-
Tự cường và tự hào dân tộc chính đáng.
-
Tin tưởng vào Đảng và đường lối đổi mới của Đảng.
-
Ý nghĩa của những chuẩn mực đạo đức thể hiện tư tưởng chính trị sẽ góp phần định
hướng cho lý tưởng sống cho mỗi cá nhân. Đạo đức của mỗi con người là sống, làm
việc, rèn luyện vì Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH mà trước mắt là quan tâm thực hiện thắng lợi mục
tiêu CNH – HĐH đất nước.
3-Nhóm chuẩn mực thể hiện sự hoàn thiện của bản thân:
-
Biết tự trọng.
-
Tự tin (Tin vào bản thân, tin vào sự hoàn thiện của đất nước).
-
Tự lập
-
Giản dị
-
Cần cù, tiết kiệm
-
Trung thực: Không lừa dối người khác và chính lương tâm đồng thời biết đấu tranh
để bài trừ mọi biểu hiện của sự dối trá, thiếu trung thực trong mối quan hệ hàng ngày,
dám nhìn thẳng vào sự thật và đấu tranh cho sự thật. -
Hướng thiện (cả trong suy nghĩ và hành động).
-
Biết kiềm chế: Đây là đức tính cần thiết để giúp trẻ biết tự điều chỉnh hành vi của
mình ở mọi nơi, ngay cả khi không có sự kiểm tra, kiểm soát của người khác. Có thói
quen tự kiềm chế thì trẻ sẽ tránh được những sai lầm, những xung đột, những hành vi
vô kỷ luật, biết kiên trì chờ đợi khi cần thiết. Đó là cơ sở của kỷ luật tự giác, cơ sở của
tự giáo dục. -
Biết hối hận: Khi trẻ phạm sai lầm thì giáo viên phải giúp trẻ biết hối hận, sửa chữa
-
Dũng cảm, liêm khiết.
-
Năng động, sáng tạo.
-
Thích ứng (thích ứng với môi trường làm việc, môi trường sống, thích ứng với công
việc).
Những giá trị trên sẽ là động lực giúp mỗi cá nhân nâng cao hiệu quả hoạt
động, hoàn thiện nhân cách, học tập, lao động và hoạt động xã hội. Những chuẩn mực
nêu trên ở góc độ nhất định thể hiện tập trung ý thức, trách nhiệm của mỗi công dân
trong xã hội.
3-Nhóm chuẩn mực đạo đức liên quan đến xây dựng môi trường sống ( Môi
trường tự nhiên- xã hội)
-
Xây dựng gia đình hạnh phúc.
-
Tự giác, quan tâm, tham gia giữ gìn bảo vệ tài nguyên, môi trường tự nhiên.
-
Xây dựng xã hội công bằng, dân chủ.
-
Bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh, khủng bố.
-
Bảo vệ, phát huy truyền thống, di sản văn hóa dân tộc, nhân loại, chống tệ nạn xã hội
và bệnh tật hiểm nghèo. Môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá – xã hội có mối
quan hệ lẫn nhau, tạo ra môi trường sống của con người. Giữ gìn bảo vệ, xây dựng
môi trường sống là vấn đề bức xúc của xã hội ngày nay, đòi hỏi mọi người phải có
lương tâm, có đạo đức, phải có những chuẩn mực nhất định.
4. Những đặc trưng giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học đối với sự phát triển nhân
cách con người Việt Nam.
4-Môn đạo đức ở tiểu học đa ra các chuẩn mực đạo đức dưới dạng những chuẩn
mực hành vi cụ thể:
- Nhà trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành cho học sinh cơ sở ban đầu nhưng rất
quan trọng của nhân cách người công dân người lao động có những phẩm chất và
năng lực cần thiết.
-
Các chuẩn mực đạo đức được lựa chọn từ những chuẩn mực xã hội cụ thể, được đưa
ra dưới dạng những chuẩn mực hành vi đạo đức. Bởi vì, do trình độ nhận thức còn
thấp, t duy cụ thể còn chiếm vai trò rất quan trọng, có tính hay bắt chước, kinh nghiệm
sống còn nghèo nàn lên cha đủ năng lực nhận thức các chuẩn mực đạo đức trên bình
diện lý luận. -
Những chuẩn mực hành vi này giúp cho học sinh có cách ứng xử đúng đắn trong các
mối quan hệ đa dạng phù hợp với những yêu cầu đạo đức mà xã hội quy định. -
Thực tiễn đã chứng tỏ rằng, được học các chuẩn mực hành vi, học sinh có điều kiện:
-
Dễ hiểu về nội dung ý nghĩa cá nhân, ý nghĩa xã hội và cách thực hiện.
-
Nâng cao dần tính khái quát của những hiểu biết có liên quan.
-
Dễ nhớ lâu và dễ thể hiện trong cuộc sống.
4- Các chuẩn mực hành vi đạo đức trong chương trình có tính đồng tâm:
-
Do năng lực nhận thức và kinh nghiệm sống còn ở trình độ thấp học sinh lớp 1 và
ngay cả những học sinh lớp trên của tiểu học chưa thể nắm ngay được khái niệm đạo
đức một cách đầy đủ, toàn vẹn với bản chất vốn có của nó mà có khả năng nắm dần
dần những dấu hiệu của khái niệm. Những dấu hiệu đó dần dần được khái quát ở mức
độ nhất định từ lớp này sang lớp khác. Cuối cùng ở học sinh hình thành được những
khái quát sơ đẳng đầu tiên về chuẩn mực đạo đức. -
Vì vậy trong quá trình dạy học đạo đức tiểu học, khi dạy một chuẩn mực hành vi đạo
đức nào đó có tình đồng tâm thì cần tận dụng những điều có liên quan mà học sinh đã
học từ lớp dưới và ngược lại khi dạy các chuẩn mực đó ở lớp dưới thì cần chuẩn bị
cho các em có khả năng tiếp thu chuẩn mực này ở lớp trên tránh tình trạng dạy lớp nào
biết lớp đó.
4-Những chuẩn mực hành vi đạo đức được giới thiệu bằng những mẫu hành vi đạo
đức qua các hoạt động dạy học, các dạng bài tập
tiểu học có vị trí và vai trò rất quan trọng và là nhân tố quyết định đến việc hoàn thành
mục tiêu, yêu cầu của giáo dục đã đề ra.
Chương 2. Thực trạng của việc giáo dục đạo đức của nhà trường
hiện nay.
Iài nét khái quát về trường tiểu học Lê Văn Tám.
Trường TH Lê Văn Tám là một trường mới được thành lập (tháng 10 năm
2004) cơ sở vật chất hầu như không có gì. Tổng số giáo viên của nhà trường là 12
người, trình độ chuyên môn cũng như năng lực giảng dạy không đồng đều, cụ thể:
- Trình độ đại học: 03 đ/c chiếm 25 %.
- Trình độ THSP (12 + 2): 04 đ/c chiếm 33,3 %.
- Trình độ THSP (9 + 3): 03 đ/c chiếm 25 %.
- Trình độ sơ cấp: 02 đ/c chiếm 16 %.
Tổng số học sinh toàn trường:
Năm học: 2004 – 2005 là 340 em.
Năm học: 2005 – 2006 là 218 em.
Trường tọa lạc tại thôn Nông Kon xã Đăk Dục huyện Ngọc Hồi. Là vùng sâu vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số ( học sinh là người dân tộc thiểu số chiếm 98 %) có con đường
Hồ Chí Minh đi qua, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn song cũng đang trên đà
phát triển, nền kinh tế thị trường đã và đang tác động không nhỏ đến vấn đề đạo đức
của học sinh – một nhân cách đang hình thành đang và phát triển. Mặt bằng dân trí
thấp, không đồng đều, công tác xã hội hoá giáo dục chưa được đề cao.
IIực trạng của công tác giáo dục đạo đức hiện nay của nhà trường.
1).Kết quả đạt được( năm học 2004 – 2005).
( Theo báo cáo tổng kết năm học của Nhà trường )
Trong những năm qua giáo dục vẫn được coi là “Quốc sách”, vẫn được các cấp
các ngành quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt. Kinh tế xã hội
2ực trạng của vấn đề (tồn tại và những nguyên nhân chủ yếu).
Khi chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này đã sử dụng 140 phiếu điều tra để tiến
hành trưng cầu ý kiến của 140 phụ huynh và học sinh của trường. Kết quả đạt được,
cụ thể như sau: ( Có bảng tổng hợp kèm theo).
● Đối với phụ huynh học sinh:
Chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến của 140 phụ huynh. Trong đó, có 125 người có
quan niệm và nhận thức đúng đắn, xác định rõ mục tiêu về công tác giáo dục đạo đức
cho con em mình, có hình thức giáo dục phù hợp. Còn lại 15 phụ huynh học sinh chưa
có quan niệm, nhận thức và chưa xác định rõ mục đích của công tác giáo dục đạo đức
cho học sinh, chưa có hình thức giáo dục phù hợp vì lý do:
-
Một số gia đình mải lo làm ăn kinh tế nên không có thời gian giáo dục con, có gia
đình cha mẹ đi làm rẫy xa và ở lại đó cả tuần mới về một lần nên việc các em ăn uống,
học hành phải tự mình lo lấy, có gia đình cho rằng giáo dục đạo đức là do nhà trường
giáo dục còn họ không biết chữ, không biết cách giáo dục (họ khoán trắng cho nhà
trường). -
Một số gia đình do cha mẹ mắc vào rượu chè, cờ bạc, gia đình mâu thuẫn thường
xuyên cãi nhau nên các em chán học sinh hư hỏng đua đòi, chơi bời lêu lổng, – Cá biệt
có gia đình không bao giờ quan tâm đến việc học hành của con cái mình. Khi chúng
tôi hỏi cũng không biết con mình học lớp mấy, học cô thầy nào, hàng ngày đi làm gì, ở
đâu và bao giờ về,
● Đối với học sinh:
Chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến của 140 em và kết quả đạt được cụ thể
như sau:
-
128/ 140 em được hỏi xác định được đúng quan niệm, mục đích, nhận thức và có
phương pháp tự rèn luyện đạo đức thường xuyên. 127/140 em tự đánh giá được kết
quả rèn luyện đạo đức của bản thân. Còn lại các em chưa hoặc xác định chưa rõ các
nội dung trên. Sở dĩ như vậy là vì: -
Một số em cha mẹ không thường xuyên nhắc nhở thúc dục, chưa có những biện pháp
giáo dục thích hợp còn chửi bới, đánh đập, bắt phạt bằng nhiều hình thức, -
Một số em do bạn bè rủ rê nên mải chơi, do lười học, học yếu lên lớp không thuộc
bài hay do trong gia đình cha mẹ thường xuyên cãi nhau, bố thường xuyên uống rượu
về say xỉn rồi mắng chửi, Tóm lại khi chúng tôi điều tra và trò chuyện trực tiếp với
phụ huynh cũng như với bản thân học sinh. Chúng tôi thấy có rất nhiều lý do khác
nhau dẫn đến thực trạng đạo đức hiện nay của học sinh, như: -
Một bộ phận không nhỏ các em có đạo đức chưa tốt: chưa vâng lời thầy cô, ông bà,
cha mẹ và người lớn tuổi. Các em đua đòi, mải chơi, chưa chăm chỉ học tập vi phạm
đạo đức. Hình thành nên lối sống không tốt. -
Vẫn còn tình trạng học sinh có thái độ bất cần, hỗn láo cãi lại ông bà, cha mẹ, thầy
cô và đánh nhau, chửi thề. Thường xuyên vi phạm nội quy của lớp của nhà trường.
Chưa thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy và 4 nhiệm vụ của người học sinh, thường
xuyên vắng học không có lý do, bỏ học giữa chừng. Về nhà không học bài, ra đường
gặp thầy cô không chào hỏi, đi chưa xin phép về nhà chưa chào hỏi thích đi đâu thì đi. -
Một số em có lối sống chỉ biết hưởng thụ đòi hỏi cha mẹ phải đáp ứng những nhu
cầu của bản thân mà chưa biết qua tâm giúp đỡ người khác.
Với những thực trạng và những nguyên nhân vừa nêu từ phía phụ huynh và học
sinh. Song cũng cần nhìn nhận những nguyên nhân từ phía nhà trường, các đoàn thể
trong và ngoài nhà trường, các cấp chính quyền địa phương, như:
-
Một bộ phận giáo viên chưa xác định rõ mục tiêu, vị trí và vai trò của giáo dục đạo
đức trong nhà trường, chưa thực sự quan tâm giáo dục học sinh một cách thường
xuyên, thiếu nhiệt tình, chưa đi sâu đi sát tìm hiểu hoàn cảnh cũng như những tâm tư
tình cảm của các em. Còn coi môn học đạo đức là môn phụ nên chưa đầu tư đúng mức
cho bài dạy còn qua loa đại khái, chẳng hạn: -
Bài dạy quy định dạy trong 2 tiết và mỗi tiết dạy trong 35 – 40 phút thế nhưng chỉ
dạy khoảng 15 – 20 phút. Thậm chí tiết thứ hai của bài không dạy,
Chương 3ột số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của công
tác giáo dục đạo đức nhà trường.
I).Cơ sở để xác lập biện pháp.
Xã hội loài người được xây dựng trên bản chất nhân văn. ở một xã hội, một
cộng đồng cụ thể nếu tính nhân văn càng thể hiện rõ bao nhiêu thì xã hội đó, cộng
đồng đó càng văn minh, càng tốt đẹp bấy nhiêu.
Vào thời kỳ mới của nền giáo dục nước ta hiện nay, tính nhân văn được thể
hiện rõ trong mục tiêu và sự phát triển của bậc học, ở quan điểm cho rằng: “Học sinh
là nhân vật trung tâm của nhà trường”. ở bậc tiểu học, học sinh- nhân vật trung tâm
của nhà trường có một số đặc điểm mà những người làm công tác giáo dục cần biết để
tôn trọng và có những biện pháp giáo dục thích hợp. Để tạo điều kiện cho trẻ em phát
triển tối ưu theo hướng mục tiêu giáo dục của bậc học hiện nay ta đang đổi mới. Nhằm
từng bước tiến tới có một bậc học tốt hơn. Hiện nay ở nhiều trường tiểu học trong
phòng làm việc của giáo viên có khẩu hiệu “ Tất cả vì học sinh thân yêu’, “ Tiên học
lễ, hậu học văn”. Trong các lớp học ở vị trí trang trọng có các khẩu hiệu dành cho học
sinh, như: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, “ Đi học là hạnh phúc”. Đó là định
hướng cho cách cư xử của thầy, là mục đích của trò ở trường tiểu họcì niềm vui, vì
hạnh phúc được đi học của trẻ là được phát triển để trở thành chính mình. Giáo dục
tiểu học là sự nghiệp của toàn dân, có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống
của mọi nhà. Có được bậc học tốt, làm tốt công tác giáo dục đạo đức sẽ góp phần làm
cho mỗi gia đình lành mạnh, xã hội văn minh. Mục tiêu giáo dục nói chung và mục
tiêu giáo dục đạo đức nói riêng là nhằm hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó là: Có lòng nhân ái, yêu quê hương đất
nước, hoà bình, công bằng bác ái, kính trên nhường dưới, đoàn kết và sẵn sàng hợp tác
với mọi người; có ý thức về bổn phận của mình đối với người thân, đối với bạn bè, đối
với cộng đồng và môi trường sống; tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật và các quy
định của nhà trường, khu dân cư, nơi công cộng; sống hồn nhiên mạnh dạn tự tin,
trung thực và đáp ứng được yêu cầu trong thời đại mới – công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Mục tiêu giáo dục đạo đức bậc tiểu học được thể hiện ở các mặt sau:
-
Giúp học sinh có được những hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực, hành vi đạo
đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân,
gia đình, nhà trường cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện các
chuẩn mực đó. -
Từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những
người xung quanh theo các chuẩn mực hành vi đã học; kỹ năng lựa chọn và thực hiện
các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực trong các mối quan hệ và tình huống đơn
giản của cuộc sống. -
Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương con người, yêu cái thiện,
cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu. -
Giáo dục đạo đức là một quá trình hình thành cho học sinh ý thức đạo đức, hành vi
và thói quen đạo đứcúp các em chuyển hoá các chuẩn mực đó thành niềm tin.
Niềm tin đạo đức sẽ tạo cho các em có sức mạnh “chế biến” những tri thức thành hành
vi, thói quen đạo đức.
Tình cảm đạo đức được coi là “chất men” thúc đẩy các em biến ý thức hành vi,
thói quen đạo đức một cách thoải mái, dễ chịu không bị gượng ép, máy móc.
Hành vi đạo đức xét cho cùng là biểu hiện sinh động bộ mặt đạo đức của con
người, hành vi này phải được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội
quy định, phải được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc một cách tự giác với động cơ đúng
đắn. Hành vi đạo đức được lặp đi lặp lại sẽ trở thành thói quen đạo đức, thói quen đạo
đức gắn liền với nhu cầu về đạo đức.
Trong quá trình giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng giáo viên và
những người làm công tác giáo dục cần phải nắm vững được vị trí, vai trò, mục tiêu
của giáo dục để từ đó góp phần giúp học sinh của mình phát triển một cách toàn diện
mang trong mình phẩm chất đạo đức tạo thành cốt lõi của một nhân cách con người