Bài thu hoạch học tập quán triệt Nghị quyết 12 của Đảng
Bài thu hoạch học tập quán triệt Nghị quyết 12 của Đảng? Hướng dẫn bài thu hoạch học tập quán triệt Nghị quyết 12 của Đảng?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thông qua các văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với sự phát triển của đất nước, như: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020;… Như vậy, hiện nay việc quán triệt học, tiến hành triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt tạo sự chuyển biến về nhận thức, thống nhất hành động và ý chí trong toàn thể cán bộ, đảng viên. Vậy, Bài thu hoạch học tập quán triệt Nghị quyết 12 của Đảng được soạn thảo như thế nào? Hướng dẫn viết Bài thu hoạch học tập quán triệt Nghị quyết 12 của Đảng.
Cơ sở pháp lý:
– Nghị quyết Đại học đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
1. Bài thu hoạch học tập quán triệt Nghị quyết 12 của Đảng:
Bài thu hoạch học tập quán triệt Nghị quyết 12 của Đảng được thực hiện theo mẫu sau:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
———–
….., ngày…tháng…năm…
BÀI THU HOẠCH
HỌC TẬP, QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU
TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG
– Họ và tên cán bộ, đảng viên: …
– Sinh hoạt (công tác) tại chi bộ (đảng bộ): …
Sau khi tiếp thu những nội dung cơ bản Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, bản thân nhận thức một số nội dung sau đây:
1. Những vấn đề cơ bản, mới trong Nghị quyết đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng mà bản thân nhận thức sâu sắc.
Về kết cấu, Nghị quyết Đại hội XII gồm 6 phần:
Một là, tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 – 2020 nêu trong Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế – xã hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội.
Hai là, đồng ý không sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng hiện hành; Thông qua Báo cáo tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI;
Ba là, thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội XII.
Bốn là, thông qua Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.
Năm là, thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII gồm 200 đồng chí, trong đó 180 đồng chí Ủy viên Trung ương chính thức, 20 đồng chí Ủy viên Trung ương dự khuyết.
Sáu là, ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và các cấp uỷ, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối và những chủ trương nêu trong các văn kiện Đại hội XII.
Tổng quát thì nội dung Nghị quyết Đại hội XII kế thừa và tiếp tục khẳng định những tư tưởng cơ bản mà Đảng ta đã xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội XI và các Nghị quyết của Đảng ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Nghị quyết Đại hội XII nhận định “tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt”. Nước ta đã tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nên sẽ “hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn”. Đây là những điểm mới so với Nghị quyết Đại hội XI khi nhận định về tình hình những năm tới.
Nghị quyết Đại hội XII xác định mục tiêu tổng quát: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Về mục tiêu tổng quát, So với Nghị quyết Đại hội XI, mục tiêu tổng quát trong Nghị quyết Đại hội XII bổ sung, nhấn mạnh các thành tố, nhiệm vụ: “Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh”, “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Điểm mới nữa là Nghị quyết Đại hội XII tuy vẫn kiên trì mục tiêu “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, nhưng không xác định mốc thời gian “đến năm 2020” như Nghị quyết Đại hội XI xác định.
Nghị quyết Đại hội XII cũng đề ra các chỉ tiêu cụ thể cần đạt được trong nhiệm kỳ như Nghị quyết các đại hội trước. Đáng chú ý là các chỉ tiêu:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 – 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 – 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 – 35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 – 1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 – 40%.
Về xã hội: Đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; có 9 – 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 – 1,5%/năm; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số.
Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 95 – 100% chất thải y tế được xử lý, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Về nhiệm vụ, NQ Đại hội XII yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo Chính trị và Báo cáo Kinh tế – xã hội, trong đó cần tập trung vào 6 nhiệm vụ trọng tâm (Nghị quyết Đại hội XI có 7 nhiệm vụ trọng tâm). So với Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh các nhiệm vụ trọng tâm:
Thứ nhất, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ hai, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Thứ ba, tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước,
Thứ tư, kiên trì, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Thứ năm, thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh con người, an ninh xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ sáu, tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Đại hội kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đồng bào ta ở nước ngoài phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội, mở ra thời kỳ phát triển mới, tốt đẹp, vẻ vang của đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Liên hệ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và bản thân.
Về phía địa phương:
Tiếp tục duy trì tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, tăng trưởng cao; tập trung thực hiện các giải pháp đồng bộ để phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững. Tập trung các nguồn lực cho việc xây dựng nông thôn mới.
Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lịch sử truyền thống của địa phương; Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, làm tốt công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất văn hóa, thể dục thể thao. Cùng với đó là giải quyết tốt các vấn đề bức xúc xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” bằng những hành động, việc làm cụ thể, thiết thực.
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân; sẵn sàng đập tan âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội.
Xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh và hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, thường xuyên xây dựng chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI);
Huy động mọi nguồn lực cho đầu tư cho phát triển giáo dục của địa phương để đáp ứng với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
Vận động các tổ chức, cá nhân, đoàn thể ở địa phương thường xuyên phối, kết hợp với nhà trường và gia đình trong quá trình giáo dục học sinh, tham gia tích cực xã hội hóa giáo dục.
Về phía nhà trường:
Đổi mới căn bản công tác bảo đảm dân chủ, thống nhất, quản lý giáo dục; coi trọng quản lý chất lượng.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.
Đẩy mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn.
Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo của nhà trường phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Tuyên truyền cho phụ huynh học sinh về nhiệm vụ của mình trong việc phối kết hợp với nhà trường và xã hội trong việc giúp đỡ, giáo dục học sinh về mọi mặt; tích cực tham gia phong trào xã hội hóa giáo dục.
Về bản thân:
Hoàn thành tốt các nhiệm vụ được phân công.
Luôn đổi mới và vận dụng tốt các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành.
Thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí; Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo; Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học;
Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học. Kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
Tham gia tích cực các hoạt động phong trào của đơn vị và địa phương nơi cư trú. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng; biết quan tâm đến những người xung quanh.
3. Đề xuất, kiến nghị giải pháp hiệu quả để thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội của cấp mình.
Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết đến toàn thể giáo viên, nhân viên, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức, nhằm nâng cao nhận thức sâu sắc của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc thực hiện Nghị quyết của Đảng.
Thực hiện tốt việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị “Tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, đạo đức, phong cách đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực hiện tốt các nguyên tắc sinh hoạt Đảng.
Lựa chọn đúng các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay để ra kế hoạch triển khai thực hiện phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của đảng viên cán bộ và nhân dân.
Việc chỉ đạo và và triển khai thực hiện đồng bộ ở các cấp ủy, chi bộ, tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị đều xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghiêm túc, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết TW 4 khoá XI, phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình. Sau kiểm điểm có kết luận ưu, khuyết điểm của tập thể, cá nhân và các tập thể, cá nhân phải xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, nêu cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu.
Chương trình về phát triển kinh tế – xã hội, Quốc phòng – an ninh của địa phương phải được tiến hành khẩn trương, chu đáo, đồng bộ, đảm bảo chất lượng và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những chủ trương đã ban hành nhưng chưa phù hợp với thực tiễn.
4. Những vấn đề cần đề xuất – kiến nghị với Trung ương, Tỉnh, Huyện và cấp ủy cơ sở.
Khi tổ chức triển khai hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết phải cung cấp tài liệu kịp thời cho cán bộ, đảng viên để tiếp thu, nghiên cứu và thực hiện một cách hiệu quả và thiết thực hơn./.
Người viết thu hoạch
Xem thêm: Bài thu hoạch quốc phòng an ninh mới nhất (Liên hệ bản thân)
2. Hướng dẫn viết bài thu hoạch Nghị quyết 12 của Đảng:
Bài thu hoạch Nghị quyết 12 thì mỗi Đảng viên cần hoàn thiện bài thu hoạch riêng cho bản thân, cơ bản nội dung của bài thu hoạch cần phải đảm bảo được các nội dung cơ bản như sau: cần nêu rõ thông tin cá nhân, chức vụ, nghề nghiệp cụ thể, trình bày đúng theo mẫu, cụ thể:
1) Thông tin họ tên cán bộ Đảng viên tham gia viết bài thu hoạch Nghị quyết 12;
2) Chức vụ Đảng hiện đang nắm giữ;
3) Đơn vị, cơ quan công tác;
4) Phần nội dung:
Nội dung bài thu hoạch Nghị quyết 12 là tổng kết lại những kiến thức mà các Đảng viên đã tiếp thu được, khi nắm được kiến thức cơ bản về Nghị quyết, Đảng Viên trình bày nội dung của bài thu hoạch này phải trình bày rõ ràng và đúng đắn nhất từ những thông tin chi tiết hay những ý kiến, những quy định hay yêu cầu đều được trình bày cụ thể cho từng phần.
1) Những vấn đề cơ bản, mới trong Nghị quyết đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng mà bản thân nhận thức sâu sắc.
2) Liên hệ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và bản thân.
+ Về phía địa phương;
+ Về phía nhà trường;
+ Về bản thân;
3) Đề xuất, kiến nghị giải pháp hiệu quả để thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội của cấp mình.
4) Những vấn đề cần đề xuất – kiến nghị với Trung ương, Tỉnh, Huyện và cấp ủy cơ sở.