Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16 – Ôn Thi HSG

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16

hoatieu.vn xin gửi đến thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16 theo quy định Thông tư 12/2019/TT-BGDĐT về chương trình bồi dưỡng thường xuyên thầy cô giáo măng non để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch có chủ đề tổ chức các hoạt động tăng trưởng tiếng nói/đẩy mạnh tiếng Việt cho trẻ con theo ý kiến giáo dục lấy trẻ con làm trung tâm.
Bài thu hoạch BDTX module GVMN 16
Giáo dục thẩm mỹ là 1 công đoạn ảnh hưởng có mục tiêu, có kế hoạch của nhà giáo dục tới trẻ, nhằm giúp trẻ biết trông thấy cái đẹp, có hứng thú, thích thú cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động tư nhân.
Giáo dục thẩm mỹ nhưng trung tâm là giáo dục cái đẹp và đưa cái đẹp vào trong đời sống 1 cách thông minh, là 1 nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục tư cách tăng trưởng toàn diện.
Tuổi thơ luôn nhìn toàn cầu bằng cặp mắt trong trắng, tất cả đối với trẻ chừng như đặc sắc hơn, mặt trời chói lọi hơn, chị “Hằng Nga” kì bí hơn, bông hoa đặc sắc, dòng sông tung sóng, cơn giông ập tới v.v… chúng biểu lộ cảm xúc thẩm mỹ thật hồn nhiên và trong trẻo. Thế hệ này tiếp thu và tạo nên năng lực thông minh thẩm mỹ lúc đầu rất thiết yếu cho việc tạo nên tài năng thông minh về sau.
Để xây dựng cơ sở lúc đầu cho giáo dục tư cách con người tăng trưởng toàn diện, giáo dục măng non cần phải được thực hiện 1 cách tổng hợp và đồng bộ các mặt sau đây:

Giáo dục thể chất
Giáo dục trí óc
Giáo dục đạo đức
Giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục lao động.

Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ khăng khít với giáo dục đạo đức, giáo dục trí óc, lao động và thể chất. Những xúc cảm thẩm mỹ có tác động to tới gương mặt đạo đức của con người và khiến cho tình cảm con người thêm cao thượng. Những mặt giáo dục trên đây gắn bó, bổ sung cho nhau trong công đoạn tạo nên cơ sở lúc đầu về tư cách con người tăng trưởng toàn diện. Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển và tăng trưởng của trẻ ở mỗi thời gian không giống nhau là không giống nhau, nên cần phải xác định được các nhiệm vụ nội dung, cách thức, giải pháp… chăm nom và giáo dục thích hợp với đặc điểm phát triển và tăng trưởng của từng thời gian.
1. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non
1.1.1. Khái niệm giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục thẩm mĩ, về thực chất là bồi dưỡng lòng khát khao đưa cái đẹp vào cuộc sống, hình thành sự hài hoà giữa xã hội – con người – thiên nhiên, tăng lên năng lực cảm thụ và thông minh cái đẹp ở con người, khiến cho con người được tăng trưởng 1 cách hài hoà trong mọi hoạt động lao động cũng như ngơi nghỉ, trong quan hệ gia đình cũng như xã hội.
Cũng như mọi hoạt động giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ là 1 công đoạn dài lâu, diễn ra 1 cách có hệ thống: từ thấp tới cao, từ dễ ợt tới phức tạp. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non là sự mở màn cho toàn thể công đoạn giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường.
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ măng non là 1 công đoạn sư phạm, nhằm tạo nên và tăng trưởng ở trẻ con năng lực lúc đầu về cảm thụ và nhận thức đúng mực cái đẹp trong đời sống sinh hoạt, xã hội, trong thiên nhiên và trong nghệ thuật, giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp, sống theo cái đẹp và biết tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.
Giáo dục thẩm mĩ là 1 định nghĩa rộng, bao gồm việc giáo dục cho trẻ thái độ thẩm mĩ đối với tự nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với nghệ thuật. Từ việc cho trẻ có được sự hiểu biết đúng mực thế nào là đẹp, xấu tới sự tạo nên thái độ hăng hái ủng hộ cái đẹp, loại bỏ cái xấu, cùng lúc có hành vi phù hợp với bản thân để phục vụ cái đẹp cho bản thân và cái đẹp trong cuộc sống bao quanh là 1 công đoạn ảnh hưởng sư phạm dài lâu của người to (cô giáo, bố mẹ, ông bà…).
1.1.2. Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non
Giáo dục thẩm mĩ là 1 trong những mặt quan trọng trong giáo dục để con người tăng trưởng toàn diện, cho nên, trong công việc giáo dục măng non chẳng thể thiếu giáo dục thẩm mĩ.Tuổi măng non là quá trình tăng trưởng nhanh nhất các tác dụng tâm lí, là quá trình tạo nên cơ sở lúc đầu về tư cách. Trong ấy phải kể tới những cơ sở để tạo nên sở thích và năng khiếu thẩm mĩ sau này.
Đặc tính của cái đẹp và đặc tính của tuổi thơ rất gần nhau, nên trẻ bé tới cái đẹp như tới với những gì thân thiện, quý mến. Trẻ hăng hái, vui sướng lúc được sống trong toàn cầu của cái đẹp: đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ nghĩnh, màu sắc, âm thanh của cảnh vật bao quanh thu hút… Thành ra, nếu ko giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay kể từ còn bé là bỏ dở 1 thời cơ trong giáo dục con người. Có thể coi ấy là 1 sự phung phá đáng kể trong việc bổ dưỡng những năng khiếu, những phẩm giá tất đẹp cho tâm hồn thơ ấu.
Mặt khác, tình yêu cái đẹp chẳng phải là cái bẩm sinh nhưng nó được phát sinh và tăng trưởng trong công đoạn giáo dục. 1 em nhỏ sẽ chẳng thể có được tình yêu cái đẹp nếu chúng ta ko tạo điều kiện để em nhỏ ấy xúc tiếp với nhiều cái đẹp bao quanh, ko khiến cho những tính chất sinh động và phong phú của cái đẹp tràn vào các cảm quan của trẻ để đánh dấu trong tâm não nó những ấn tượng tươi mát, thoải mái; nếu chúng ta ko biết khơi gợi ở trẻ những cảm xúc tốt lành về con người và làm thức dậy trong trẻ những gì thân thiện, gần gụi lúc xúc tiếp với cái đẹp.
Đừng nên nghĩ rằng, trẻ còn bé ko biết thế nào là đẹp, là xấu nhưng chỉ cần cho ăn no, mặc ấm là được. Đương nhiên ăn no, mặc ấm là nhu cầu chẳng thể thiếu, cần được để đảm bảo cho trẻ sống. Nhưng để to lên thành người, trẻ cần được nhiều nhu cầu ý thức, trong ấy có nhu cầu về cái đẹp và chính những nhu cầu đó mới là động lực tăng trưởng tâm lí, tăng trưởng đời sống ý thức của trẻ.
Lời ru ngọt ngào, giọng nói âu yếm, âm điệu du dương của 1 bản nhạc; bông hoa tươi sắc, đồ chơi nhiều dáng vẻ, màu sắc hài hoà… tất cả đều cần được đưa tới cho trẻ. Thiếu những cái tưởng như phổ biến đó sẽ là nỗi xấu số cho thơ ấu. Sớm xúc tiếp với cái vẻ đẹp ấy sẽ tạo điều kiện cho việc tạo nên ở trẻ những ấn tượng tươi mát, làm phát sinh nhu cầu về cái đẹp, khiến cho hiện trạng ý thức của trẻ được dễ chịu, thoải mái, trẻ sẽ luôn cười vui với mọi người. Nhưng trái lại, những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài như: những lời nói lỗ mãng, những nét mặt quạu quọ, những hành vi lỗ mãng, nơi ăn chốn ở nhếch nhác, dơ bẩn sẽ khiến cho tính nết của trẻ phát triển thành gắt gỏng, khó chịu hoặc nguy hại hơn là trẻ dễ thích ứng với cái xấu ngay từ tấm nhỏ.
Giáo dục thẩm mĩ liên can khăng khít với các mặt giáo dục tư cách con người tăng trưởng toàn diện, đặc thù là giáo dục đạo đức và giáo dục trí óc. Cái đẹp của toàn cầu bao quanh (gia đình, trường lớp măng non, góc sân chơi, màu sắc, hình trạng đồ chơi…) và cái đẹp trong nghệ thuật (hát múa, thơ truyện, tạo hình…) chẳng những tác động trực tiếp tới việc tạo nên nhận thức thẩm mĩ nhưng còn ảnh hưởng tới việc tạo nên tình cảm đạo đức cho trẻ. Những cảm xúc thẩm mĩ có tác động to tới gương mặt đạo đức của con người. Nhờ cảm xúc này nhưng tính cách của trẻ phát triển thành cao thượng, đời sống của trẻ thêm phong phú, trẻ thêm sáng sủa hơn trong cuộc sống… Tất cả những điều ấy ảnh hưởng mạnh bạo tới việc tạo nên mối quan hệ tốt đẹp của trẻ với cuộc sống và con người. Thông qua việc tiếp thu những tác phẩm nghệ thuật trẻ sẽ nhận thức đúng mực về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống… điều ấy tác động to tới việc giáo dục các phẩm giá đạo đức cho trẻ (như lòng bác ái, tính tập thể, hành vi đẹp trong cuộc sống xã hội…).
Qua giáo dục thẩm mĩ nhưng trẻ có được cảm thụ thẩm mĩ và nhận thức thâm thúy hơn những hiện tượng của cuộc sống, nhờ ấy mở mang tầm nhìn của trẻ, khiến cho các biểu trưng về toàn cầu bao quanh càng thêm thâm thúy hơn, cùng lúc khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết. Chẳng hạn, những đồ dùng, đồ chơi đẹp, màu sắc hài hoà… sẽ giúp trẻ tri giác sự vật mau lẹ hơn, đơn giản hơn, cho nên nhưng dễ tạo nên được biểu trưng về vật dụng ấy trong đầu. Mặt khác, trên cơ sở những biểu trưng phong phú về toàn cầu bao quanh được tạo nên sẽ tạo điều kiện cho trẻ cảm thụ cái đẹp thâm thúy hơn, cảm xúc thẩm mĩ của trẻ phát triển thành mạnh bạo hơn. Thật vậy, cảm xúc thẩm mĩ ko chỉ được xây dựng trên cơ sở cảm thụ cái đẹp, nhưng còn được dựa trên cơ sở hiểu biết thâm thúy hơn nội dung cái đẹp.
Có thể nói, cái đẹp là dòng suối nuôi dưỡng lòng tốt và trí sáng dạ. Chính thành ra nhưng các nhà giáo dục học đã coi giáo dục thẩm mĩ là 1 mặt rất quan trọng trong việc tạo nên và tăng trưởng tư cách ở trẻ măng non. Thiếu cái đẹp, đứa trẻ sẽ rầu rĩ, già trước tuổi, toàn cầu ý thức sẽ nghèo khó, làm thui chột năng khiếu và những phẩm giá tốt đẹp của trẻ.
Cuộc sống ý thức trong toàn cầu cái đẹp khơi dậy ở trẻ nhu cầu muốn khiến cho mình phát triển thành đẹp hơn, nhu cầu khám phá cái đẹp ở bao quanh. Đứa trẻ càng sớm thấy được vẻ đẹp ấy bao lăm thì sự tăng trưởng đời sống ý thức và thể chất của nó càng thuận tiện bấy nhiêu.
Tóm lại, giáo dục thẩm mĩ là việc làm chẳng thể thiếu được trong công việc chăm nom – giáo dục trẻ con thế hệ măng non. Giáo dục thẩm mĩ cần được thực hiện ngay từ bé với những dụng cụ nhiều chủng loại, phong phú.
1.2. Nhiệm vụ, nội dung và cách thức giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ vườn trẻ
1.2.1. Nhiệm vụ
Cũng như các mặt giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là 1 công đoạn dài lâu và mang tính hệ thống. Mỗi thế hệ có những nhiệm vụ giáo dục chi tiết thích hợp với đặc điểm tăng trưởng của thế hệ ấy ở thế hệ vườn trẻ, giáo dục thẩm mĩ bao gồm 3 nhiệm vụ căn bản sau:
a) Cung cấp và làm giàu ấn tượng bao quanh cho trẻ, trên cơ sở ấy tăng trưởng tri giác thẩm mĩ cho chúng
Quá trình tăng trưởng thẩm mĩ của con người diễn ra ngay kể từ còn bé. Khi nhưng thị giác và thính giác là dụng cụ căn bản giúp trẻ liên hệ với thế giời bên ngoài. Nhờ cặp mắt và đôi tai đứa trẻ tích luỹ được những ấn tượng về toàn cầu.
Trẻ bé thường hứng thú và có ấn tượng với những vật dụng, đồ chơi có màu sắc tươi sáng, chân thực, phát ra âm thanh, những hiện tượng tự nhiên “kín đáo”, thu hút (mặt trời mọc, giọt sương long lanh, tiếng chim hót lăng líu, những bông hoa đua sắc…), những hành vi, việc làm của mọi người gây cho trẻ tò mò, ham thích… Người to cần giúp cho trẻ xúc tiếp với toàn cầu bao quanh để giúp trẻ có những ấn tượng phong phú, tốt đẹp về toàn cầu bao quanh. Bởi thành ra giới màu sắc âm thanh, hình trạng, động tác càng phong phú, đẹp tươi bao lăm thì việc giáo dục thẩm mĩ càng có cơ sở tốt bấy nhiêu.
Trong công đoạn cho trẻ xúc tiếp với toàn cầu bao quanh, người to cần dạy trẻ biết nhìn và phát xuất hiện vẻ đẹp của toàn cầu bao quanh: (của đồ chơi, đồ dùng, của tự nhiên và cuộc sống con người). Đối với trẻ con thế hệ vườn trẻ, đây là 1 việc làm gieo neo, vì trẻ chưa tinh thần được cái đẹp trong cuộc sống bao quanh, chưa có tiêu chuẩn bình chọn cái đẹp… nhưng chỉ là sự nhận diện cảm tính vẻ hình thức của sự vật, hiện tượng.
b) Bước đầu tăng trưởng ở trẻ năng lực xúc cảm thẩm mĩ và hứng thú với nghệ thuật
Những xúc cảm thẩm mĩ của con người chẳng phải là những xúc cảm dễ ợt, chúng diễn ra trên cơ sở những kiến thức nhưng con người có được về cái đẹp. Bởi thế, công đoạn tiếp nhận kiến thức về cái đẹp và tạo nên xúc cảm thẩm mĩ diễn ra 1 cách hợp nhất, liên tiếp. Khi xúc cảm thẩm mĩ được tạo nên sẽ xúc tiến con người hoạt động hăng hái hơn, sáng sủa hơn trong cuộc sống. Thành ra, tạo nên và tăng trưởng xúc cảm thẩm mĩ cho trẻ là 1 nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ vườn trẻ.
Ở thế hệ vườn trẻ, trẻ con thường biểu lộ xúc cảm của mình 1 cách trực tiếp: qua nụ cười, qua những phản ứng, qua những câu nói biểu hiện sự ham thích hay ko thích. Do vậy, người to có thể phán đoán được cảm xúc, tình cảm của trẻ, qua ấy nhưng khơi sâu và làm phong phú những xúc cảm dương tính và uốn nắn những xúc cảm âm tính cho trẻ, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng xúc cảm của trẻ thích hợp với nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ.
Theo N. Kiiasenco: “Chất dinh dưỡng tạo ra bản lĩnh nghệ thuật là cái đẹp trong nghệ thuật… Nhờ nghệ thuật nhưng con người hiểu được vẻ đẹp của cuộc sống, do ấy mở mang được lĩnh vực cái đẹp. Vì nghệ thuật chân chính ko bao giờ thoát li cuộc sống, nhưng ngược lại, nó khát khao mày mò ý nghĩa nghệ thuật cuộc sống, nên trong nghệ thuật toàn thể kinh nghiệm thẩm mĩ của dân chúng”.
Như vậy, nghệ thuật là 1 dụng cụ, trục đường giáo dục và tăng trưởng xúc cảm thẩm mĩ có hiệu quả cho trẻ con. Bằng những nhạc điệu ngọt ngào của những bài hát, những câu thơ, những câu ca dao giàu nhạc tính, những tác phẩm hội hoạ rực rỡ… người to đã đưa trẻ vào những trị giá văn hoá loài người, dân tộc, tạo cho trẻ những xúc cảm mang tính thẩm mĩ, làm phát sinh nhu cầu về cái đẹp trong cuộc sống bao quanh.
c) Bước đầu giáo dục sở thích thẩm mĩ và tăng trưởng năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ
Thị hiếu thẩm mĩ là thái độ, tình cảm khiến người ta phản ứng nhanh lẹ trước những cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống và nghệ thuật là 1 bộ phận quan trọng của tình cảm thẩm mĩ, sở thích thẩm mĩ đã tạo điều kiện cho con người tiến sâu hơn vào toàn cầu thẩm mĩ bằng những nhạy cảm đặc thù và những khát vọng khẩn thiết. Khi thưởng thức cái đẹp, căm giận cái xấu, xót xa trước cái bi thảm, thán phục cái cao cả, định hướng các trị giá thẩm mĩ, tận hưởng và thông minh thẩm mĩ… Thị hiếu thẩm mĩ tốt sẽ hướng mỗi người nỗ lực cho những cái đẹp, cái tốt, cái đúng. Không có sở thích thẩm mĩ lành mạnh, đúng mực thì ko có cuộc sống đẹp. Thành ra, giáo dục sở thích thẩm mĩ cho trẻ con ngay từ khi thế hệ vườn trẻ là việc làm rất quan trọng trong công việc giáo dục thẩm mĩ cho thơ ấu.
Thị hiếu thẩm mĩ của trẻ bé thường trình bày ở việc bình chọn cái đẹp phân biệt cái xấu, cái đẹp. Trường măng non cần dạy trẻ biết phân biệt cái đẹp với cái ko đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giúp trẻ biết thể hiện rõ vì sao thích bài hát, bức tranh, truyện cổ tích hay 1 đối tượng nào ấy trong tác phẩm. Phcửa ải giúp trẻ biết cảm thụ cái đẹp ở bao quanh và biết tạo tạo ra cái đẹp trong cuộc sống hằng ngày. 1 bông hoa đẹp trong khóm hoa, 1 lớp học sạch bong, êm ấm trang hoàng trong nhà phải được trẻ yêu mến. Trẻ ko vứt rác lộn xộn, biết xếp gọn đồ chơi, đồ dùng để luôn giữ được vẻ đẹp của trường lớp, mang đến nguồn vui cho mọi người.
Thị hiếu thẩm mĩ của mỗi trẻ có sự không giống nhau. Thành ra, trong việc giáo dục sở thích thẩm mĩ cho trẻ, người to, cô giáo cần tôn trọng và phát huy ý thích thẩm mĩ lành mạnh của trẻ, tránh gò bó, áp đặt làm thui chột óc thẩm mĩ và sở thích thẩm mĩ của trẻ.
Hoạt động tạo hình rất thu hút với trẻ, vì thành phầm tạo thành với màu sắc, đường nét, hình khối, dáng vẻ đã ảnh hưởng trực tiếp tới thị giác và xúc giác của trẻ. Ngay từ những 5 tháng trước tiên của đời người, đôi mắt thơ ấu đã hoạt động để tiếp thu ánh sáng, màu sắc. Đứa trẻ 3 – 4 tháng tuổi đã cảm thấy lúc nhận ra màu sắc đặc sắc từ những giải lụa hay chùm bóng treo trên nôi, 5 – 6 tháng tuổi đã biết vờn theo vật dụng, đồ chơi có màu sắc và có hình thù thu hút. Trẻ 3 tuổi đã có thể trông thấy con gà, con vịt, hay những người trong tranh… và bằng cách ấy nhưng trẻ đi vào toàn cầu tạo hình 1 cách thiên nhiên. Do vậy, người to cần để ý giáo dục và tạo nên năng lực tạo hình cho trẻ, trước tiên là chỉ dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của những thành phầm tạo hình, sau ấy tập cho trẻ 1 kỹ năng nặn, vẽ… những thứ nhưng trẻ thích thú.
1.2.2. Nội dung và cách thức giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ vườn trẻ
a) Dạy trẻ quan sát, cảm thụ vẻ đẹp của tự nhiên
Thiên nhiên ko chỉ đem lại cho trẻ con những thứ thiết yếu để sống nhưng còn thu hút chúng bởi những điều thần kì nhưng ko có gì thay thế nổi. Tới với tự nhiên là thị hiếu vốn có của trẻ, nhưng mà chẳng phải cứ tới với tự nhiên, sống trong lòng tự nhiên là các em phát hiện và cảm thụ được vẻ đẹp của nó. Nhiều trẻ tới với tự nhiên là để chơi đùa cho tha hồ, nhiều lúc còn có những hành động phá phách nữa. Do ấy, người to cần dạy trẻ biết ngắm nhìn, quan sát tự nhiên với thái độ đam mê, trân trọng – Thái độ thẩm mĩ đối với tự nhiên.
Khi còn bé, trẻ được người to bế ra ngoài trời ngắm những màu sắc của hoa lá trong vườn, lắng tai tiếng chim hót, tiếng con mèo kêu, chó sủa…; to hơn 1 chút, trẻ được người to chỉ cho xem ông trăng minh bạch trên trời, bầu trời sao nhấp nhánh vào buổi tối, ánh rạng đông lúc mặt trời mọc, con vịt bơi trên hồ nước, con cá vàng phơ phất cái đuôi như lá cờ, con cua bò ngang, con tôm đi thụt lùi… trẻ vừa ham thích vừa cảm thu được vẻ đẹp kì thú của tự nhiên.Thiên nhiên mãi mãi vẫn dành cho trẻ con những thú vui bất thần và nếu được đoàn luyện óc quan sát từ thuở thơ ấu thì trẻ có bản lĩnh phát xuất hiện bao lăm điều thú vị, cả trong những sự vật tưởng như là phổ biến và tẻ nhạt đối với người to. Thiên nhiên đẹp, tự nó đã là những chất dinh dưỡng cho tâm hồn thơ ấu, nếu được người to chỉ dẫn trẻ nhìn, nghe, màu sắc, âm thanh tuyệt diệu của nó thì cảm giác, tri giác của trẻ phát triển thành nhạy bén, tinh tế hơn. Do vậy, người to, cô giáo măng non cần ân cần giáo dục, dẫn dắt trẻ tới với tự nhiên.
Giúp cho trẻ xúc tiếp với tự nhiên, chỉ dẫn trẻ quan sát tự nhiên là vấn đề mang tính giáo dục to lao và là 1 trong những nội dung giáo dục thẩm mĩ quan trọng cho trẻ. Trường măng non cần có góc tự nhiên, trồng nhiều cây cảnh, hoa lá để trẻ quan sát cần có bể cá cảnh, chuồng gà, chuồng chim, chuồng thỏ… để trẻ chiêm ngưỡng, qua ấy giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.
Thực tế ở nhiều địa phương, nhất là ở thành thị, nhiều trường măng non ko có góc tự nhiên, trẻ ít được xúc tiếp với tự nhiên nhiều chủng loại – 1 thiệt thòi to của tuổi thơ. Nhìn lũ trẻ chơi trên bãi cát, nó đào xới, nghí ngoáy xúc cát ở chỗ này đổ sang chỗ khác 1 cách lí thú; ngỡ ngàng, phấn kích lúc phát hiện con tôm đi thụt lùi, con cua thì lại bò ngang, con cá vàng phơ phất cái đuôi như lá cờ…, ta càng nhận thấy sự thiệt thòi, xấu số của những đứa trẻ ko có điều kiện xúc tiếp với các hiện tượng tự nhiên nhiều chủng loại.
Người to, cô giáo măng non giúp cho trẻ xúc tiếp với các sự vật, hiện tượng nhiều chủng loại, phong phú của tự nhiên và dạy trẻ biết quan sát, cảm thụ được vẻ đẹp muôn màu của tự nhiên, là mang đến hạnh phúc cho tuổi thơ.
b) Giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày
Trẻ em ko chỉ tìm thấy cái đẹp trong tự nhiên nhưng còn tìm thấy cái đẹp trong đời sống xã hội. Đưa cái đẹp vào cuộc sống và giáo dục cái đẹp của cuộc sống cho thơ ấu là phận sự của người to. Vì 1 óc thẩm mĩ tốt hay xấu, 1 sở thích lành mạnh hay thấp hèn, 1 cách cư xử có văn hoá hay thiếu văn hoá… đều bắt nguồn từ đời sống của con người. Do vậy, giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày cho trẻ là 1 nội dung giáo dục thẩm mĩ căn bản cho trẻ con thế hệ vườn trẻ. Vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt của con người rất nhiều chủng loại, phong phú, được trình bày trước tiên ở mối quan hệ giữa con người với con người, trong những hành vi văn hoá – vệ sinh… Dưới đây là 1 số nội dung giáo dục căn bản:
– Giáo dục vẻ đẹp trong mối quan hệ với những người nhà. Đấy là giáo dục cho trẻ biết thương mến, gắn bó, chào hỏi lễ độ với ông bà, bố mẹ, cô giáo…, biết gần gũi với bằng hữu và biết cám ơn người khác đem lại thú vui cho mình, biết xin lỗi lúc gây phiền phức cho người khác.
– Giáo dục cho trẻ những hành vi văn hoá – vệ sinh. Đấy là việc giáo dục trẻ những hành vi, cử chỉ, lời ăn ngôn ngữ đẹp tươi trình bày thái độ đúng mực với mọi người (lễ độ với người to, gần gũi với bằng hữu…).
Giáo dục trẻ lề thói sạch bong, vệ sinh trong ăn uống (rửa tay trước lúc ăn, ngồi ăn ngay ngắn, ko vừa nhai vừa chuyện trò, lau mồm, uống nước sau lúc ăn…) lề thói sạch bong, vệ sinh trong ăn mặc (ko bôi bẩn ra áo quần, đầu tóc ngăn nắp…); giáo dục và đoàn luyện cho trẻ tác phong sinh hoạt văn hoá, tân tiến (đi đứng nhanh nhảu, khoẻ khoắn, tự tin, ăn nói gãy gọn…).
Tất cả những hành vi này cần được giáo dục và đoàn luyện ngay từ bé. Nếu người to, cô giáo măng non ko có tinh thần dạy bảo, đoàn luyện kĩ càng và chăm chút sẽ dễ tạo nên những lề thói hành vi ko mong muốn (như nói tục, chửi bậy, nhếch nhác, dơ bẩn trong ăn, mặc…). Việc tạo nên lề thói tốt là 1 việc làm yêu cầu tính kiên định, và việc phá vỡ lề thói xấu cũng cần yêu cầu sự kiên định.
– Giáo dục cho trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với toàn cầu vật dụng bao quanh
Thế giới vật dụng, đồ chơi là cái thu hút trẻ mạnh bạo. Vật dụng càng đẹp tươi, thu hút trẻ bao lăm thì trẻ càng say sưa khám phá kín đáo của vật dụng và thích chơi với vật dụng ấy bấy nhiêu. Do vậy, để giáo dục trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với toàn cầu vật dụng có hiệu quả, trước tiên người to phải phân phối cho trẻ vật dụng, đồ chơi đẹp. Trong công đoạn trẻ hoạt động với vật dụng, người to cần dạy trẻ biết cách sử dụng vật dụng theo đúng tác dụng của nó, nắm được nguyên lý sử dụng vật dụng và cảm thu được vẻ đẹp của nó.
Trong lúc lĩnh hội được những hành động, thao tác sử dụng vật dụng, thì cùng lúc trẻ cũng lĩnh hội được luật lệ hành vi trong xã hội (tác dụng xã hội của vật dụng, nguyên lý sử dụng nó…). Đây chính là thời cơ để dạy trẻ cách cư xử đẹp, có văn hoá đối với những vật dụng bao quanh.
Trong công đoạn chỉ dẫn trẻ hoạt động với vật dụng, người to cần tỏ thái độ ưng ý hay ko ưng ý với những hành vi, việc làm của trẻ lúc sử dụng vật dụng là rất thiết yếu. Nhờ thái độ ấy của người to, đứa trẻ có thể điều chỉnh hành vi của mình để có được cách xử sự tốt nhất đối với toàn cầu vật dụng. Thí dụ: Người to có thể chấp thuận để trẻ tháo 1 vài bộ phận của chiếc oto đồ chơi để phê chuẩn nó, nhưng mà chẳng thể chấp thuận lúc nhận ra đứa trẻ vặt chân, tay, đầu búp bê.
Khi dạy trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với toàn cầu vật dụng cũng cần tập cho trẻ lề thói gọn gàng, ngăn nắp, sạch bong trong việc bố trí, trang hoàng phòng chơi – tập, phòng ăn, phòng ngủ của chúng. Việc làm này chính là 1 nội dung căn bản của việc giáo dục và đoàn luyện hành vi văn hoá – vệ sinh thẩm mĩ cho trẻ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.
c) Bước đầu cho trẻ làm quen với nghệ thuật
– Bước đầu cho trẻ làm quen với âm nhạc
Thực tiễn cuộc sống và kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng, thơ ấu rất lí thú với nghệ thuật, nhất là âm nhạc. Những nhạc điệu, tiết tấu nhẹ nhõm của âm nhạc đưa trẻ vào toàn cầu của cái đẹp 1 cách êm ái và thu hút. Đối với trẻ bé, những bài hát ru có ý nghĩa cực kì mập to: Lời ru ngập tràn tình mến thương đượm đà của người mẹ chính là những nhạc điệu đẹp tươi trước tiên tới với con người, và cũng có thể nói: nền văn hoá của dân tộc, của nhân loại tới với mỗi chúng ta trước hết qua lời ru của mẹ. Đấy là những âm điệu đượm đà nhất, êm ái nhất, có tính năng giáo dục lòng yêu con người, yêu quê hương quốc gia cho trẻ con từ thuở còn nằm nôi. Những nhạc điệu mượt nhưng, êm dịu của lời ru ảnh hưởng vào đôi tai non nớt của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ có được đôi tai nghe nhạc tinh tế. Do vậy, người to (người mẹ, thầy cô giáo măng non…) cần phải biết hát ru để ru trẻ ngủ, dụ dỗ lúc trẻ khóc, nói chuyện với trẻ bằng những âm thanh hoàn hảo đó. Các bà mẹ, cô giáo măng non lúc hát ru cho trẻ nghe phải hát với cả tấm lòng mình: vừa hát vừa nhìn vào trẻ, bế trẻ vào lòng để ấp ôm, vỗ về cầm tay trẻ để cử động theo nhạc điệu, thích hợp với tình cảm của bài hát để phục vụ 1 cảm giác an toàn cho trẻ đi vào giấc ngủ, thôi khóc hay chịu chơi. Người mẹ, cô giáo măng non ko biết hát ru, hoặc hát 1 cách vô cảm sẽ gặp trắc trở trong giáo dục thơ ấu.
Khi trẻ biết nói, cần khuyến khích trẻ hát và di chuyển theo nhạc. Để giúp trẻ làm quen với tiết tấu, người to cần giúp cho trẻ vỗ tay, gõ mõ, đánh trống… lúc hát.
Người to, cô giáo măng non cần tuyển chọn những bài hát ngắn, vừa có nhạc điệu đẹp, vừa có tiết tấu vui thì trẻ bé nối liền thu được. Tuy nhiên, chẳng phải khi nào cũng cho trẻ xúc tiếp với những bài hát có tiết tấu rộn rã, lại càng nên tránh những bài hát có tiết tấu quá nhộn nhịp tới nhức tai, nhức óc gây khích động có hại cho tâm thần của trẻ.
Giáo dục vẻ đẹp trong thơ ca cho trẻ
Thơ ca là tinh hoa của tiếng nói, là kết tinh vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ thành phầm trí óc và tình cảm của biết bao lứa tuổi nối liền nhau. Thơ ca ko chỉ gieo vào lòng chúng ta vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc nhưng còn ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam, tự nhiên Việt Nam.
Sớm cho trẻ xúc tiếp với thơ ca là điều rất thiết yếu, vì thơ ca là nguồn dinh dưỡng cho tâm hồn thơ ấu về nhiều mặt: giáo dục cho trẻ cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ dân tộc; làm giàu toàn cầu cảm xúc của thơ ấu và nuôi dưỡng trí hình dung của trẻ.
Tính giai điệu của thơ ca giúp trẻ tiếp thu nó 1 cách đơn giản và ham thích. Thật hoàn hảo lúc khởi đầu học nói, trẻ được xúc tiếp với thơ ca, 1 thứ tiếng nói giàu giai điệu, vần điệu và giàu hình tượng. Tất cả những nhân tố ấy xúc tiến tinh thần tiếng nói của trẻ được phát sinh, tạo điều kiện cho lời nói của trẻ được hay hơn, đẹp hơn, toàn cầu cảm xúc của trẻ phong phú hơn, lành mạnh hơn, thăng bằng hơn, trí hình dung của trẻ phong phú, bay bổng, đầy mong ước.
Người to, cô giáo măng non cần tuyển chọn những bài thơ ngắn, giàu giai điệu, dễ nhớ, dễ thuộc mang lại cho thơ ấu. Cùng lúc cần khuyến khích, giúp cho tâm hồn thơ của trẻ được nảy nở lúc giao tiếp với mọi người, lúc xúc tiếp với vẻ đẹp của tự nhiên, cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
Giáo dục vẻ đẹp trong khúc hát đồng dao cho trẻ
Đồng dao là những câu vè ngắn gọn có vần điệu, nhịp độ được thơ ấu thích hát khi mà chơi, trong sinh hoạt tập thể – Đồng dao có tính năng giáo dục mạnh bạo đối với trẻ con, trước tiên là giáo dục thái độ văn hoá đối với 2 mối quan hệ chủ chốt của con người: con người – tự nhiên; con người – xã hội.
Đối với tự nhiên, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu hồn nhiên đối với con ong, con kiến, con cò, con vạc, cỏ cây hoa lá…
Đối với con người, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà, bố mẹ, bà con thôn ấp; đồng cảm với những người có tình cảnh ngang trái, sẵn lòng hỗ trợ người nghèo khó; tật nguyền. Có thể nói, đồng dao là những bài học đạo đức rất nhẹ nhõm và thu hút đối với thơ ấu.
Mặt khác, đồng dao với tính vui nhộn của nó đã đem lại cho trẻ những thú vui sướng không lo nghĩ, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa, chính sự hài hoà, hóm hỉnh của đồng dao đã bồi dưỡng trí óc của trẻ thêm sáng dạ, sắc sảo.
– Giáo dục cái đẹp trong hoạt động tạo hình
Như đã thể hiện trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ vườn trẻ, tạo hình rất thu hút thơ ấu. Ngay từ bé, trẻ đã thích nhìn ngắm những bức tranh màu sắc sặc sỡ, những hình khối nhiều chủng loại, nhưng mà chúng chưa tự nhận diện, chưa tự phát xuất hiện cái đẹp của những tác phẩm đó. Bởi thế, người to cần phải chỉ dẫn trẻ, tổ chức cho trẻ được xúc tiếp với nhiều tác phẩm tạo hình có trị giá như tranh, tượng… và chỉ dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.
Tranh, tượng đưa tới cho trẻ con phải đẹp, rõ ràng, màu sắc tươi sáng, đường nét hài hoà để sao cho trẻ có thể cảm thu được vẻ đẹp của chúng 1 cách đơn giản. Chúng ta có thể tính từ lúc những bức tranh dân gian (gà, lợn, cá) với những đường nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng tới những bức tranh đương đại (của hoạ sĩ và của tuổi thơ). Cho trẻ chơi với những con giống; những đồ chơi dân gian; đồ chơi thường; cho trẻ xem những bức tượng đặt ở công viên, đại lộ… Trẻ rất thích ngắm nhìn những tác phẩm nghệ thuật này, và cũng ham thích hơn lúc người to chỉ dẫn trẻ cảm thu được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.
Cộng với việc chỉ dẫn trẻ cảm thụ vẻ đẹp của tác phẩm tạo hình lúc được xem, rờ mó nó, người to cần giúp cho trẻ tập cầm bút, vẽ những đường căn bản, cho trẻ chơi với đất nặn, tập nặn. Dù rằng trẻ vẽ nguếch ngoác, nặn còn thô kệch chưa có hình thù rõ rệt, nhưng mà dần dần trẻ sẽ có kỹ năng vẽ những tranh dễ ợt (vẽ quả cam, quả thị, quả táo, cái lá…), nặn theo ý định – 1 số cái dễ ợt (đôi đũa, cái thìa, quả cam, quả thị…).
Các hoạt động tạo hình khác như xếp hình, xé dán… cũng là những hoạt động được trẻ ưa chuộng và người to có thể giáo dục thẩm mĩ cho trẻ qua việc tổ chức cho trẻ tham dự những hoạt động này.
Tóm lại, tuổi thơ là quá trình trước tiên của cuộc đời, là thời gian con người tiếp thu cái đẹp 1 cách đơn giản, bởi vì trẻ bé tới với cái đẹp 1 cách thiên nhiên như tới với những gì thân thiện, yêu mến. Thành ra nếu bỏ lỡ tuổi thơ trong việc giáo dục cái đẹp là bỏ dở 1 thời cơ thuận tiện trong giáo dục con người. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ phải phong phú, bao gồm nhiều thể loại, đặc thù là giáo dục cho trẻ cái đẹp gần gụi trong cuộc sống hằng ngày, để tạo nên năng lực thẩm mĩ cho trẻ. Giáo dục thẩm mĩ chẳng thể áp đặt, gò bó, nhưng phải để trẻ thiên nhiên, dễ chịu, giữ được tính hồn nhiên của thơ ấu.
1.3. Nhiệm vụ, nội dung và cách thức giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ mẫu giáo
1.3.1. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ mẫu giáo
– Phát triển tri giác, tình cảm và tạo nên biểu trưng về cái đẹp cho trẻ mẫu giáo.
Giáo dục thẩm mĩ tính từ lúc sự tăng trưởng năng lực tri giác cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, hiểu cái đẹp theo cách người ta thường nói về nghệ thuật.
Theo ý kiến của mĩ học Mác– Lê nin, sự tri giác cái đẹp được hiểu là công đoạn cảm thụ cái đẹp nhưng kết quả của nó là những rung cảm thẩm mĩ, những tình cảm thẩm mĩ.
Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là sự nhận thức cảm tính, chi tiết về mặt thẩm mĩ. Ngay từ những 5 trước tiên của cuộc sống, trẻ đã bị quyến rũ 1 cách vô tinh thần vào tất cả những gì mới lạ, thu hút như vật dụng có màu sắc sặc sỡ, những âm thanh và nhịp độ rộn ràng, tươi vui của toàn cầu bao quanh. Từ “đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ. Trẻ say sưa lắng tai bài hát, nghe truyện cổ tích, xem tranh ảnh. Song ấy chưa phải là tình cảm thẩm mĩ nhưng chỉ là sự biểu lộ của hứng thú nhận thức. Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ là giúp trẻ chuyển từ tri giác tự phát sang sự tri giác có tinh thần về cái đẹp. Cô giáo cần khiến cho trẻ để ý tới những sự vật và hiện tượng của thiên nhiên, tới những hành vi của con người, dạy cho các em biết nhìn ra và tăng trưởng được cái đẹp trong đời sống, trong tự nhiên, trong lao động, trong hành vi và hành động của con người, dạy cho các em biết nhìn nhận về bình diện thẩm mĩ đối với toàn cầu bao quanh.
Sự tri giác thẩm mĩ bao giờ cũng liên can chặt chẽ với xúc cảm và tình cảm thẩm mĩ. Với trẻ con, đặc điểm của tình cảm thẩm mĩ là thú vui không lo nghĩ, là xúc cảm trong trắng hiện ra lúc thấy cái đẹp. Tình cảm thẩm mĩ giữ vai trò rất mập to trong việc bình chọn các sự vật và hiện tượng không giống nhau, trong việc đoàn luyện sở thích thẩm mĩ sau này cho trẻ.
Giáo viên còn có nhiệm vụ dẫn dắt trẻ đi từ sự tri giác cái đẹp, xúc cảm đối với nó, tới chỗ hiểu và tạo nên biểu trưng về cái đẹp, biết nhận xét và bình chọn thế nào là đẹp, thế nào là xấu.
– Phát triển hứng thú và năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ
Năng lực thông minh nghệ thuật chẳng phải là cái bẩm sinh, nó được tạo nên trong công đoạn giáo dục của người to. Mọi trẻ con phổ biến đều có bản lĩnh thông minh nghệ thuật nếu được chỉ dẫn đúng mực về mặt sư phạm. Do vậy, việc tăng trưởng hứng thú và năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ là 1 nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, đây là 1 nhiệm vụ gieo neo và phức tạp. Bởi lẽ, nghệ thuật là 1 hình thái tinh thần xã hội đặc thù, dùng những hình tượng sinh động, chi tiết, gợi cảm để đề đạt hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Song ở thế hệ mẫu giáo, số đông trẻ con đều thích thú các loại hình nghệ thuật và có bản lĩnh tiếp nhận các loại hình nghệ thuật như, múa hát, kể chuyện, đọc thơ, vẽ, nặn, xé dán,… Thành ra, nhiệm vụ của cô giáo măng non là phải khơi gợi hứng thú và giúp cho trẻ tham dự hăng hái, tự giác vào các loại hình nghệ thuật ấy để tăng trưởng năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ.
– Tạo nên những cơ sở của sở thích thẩm mĩ
Sự thụ cảm cái đẹp có liên hệ khăng khít tới năng lực bình chọn cái đẹp 1 cách đúng mực. Thị hiếu thẩm mĩ của con người biểu lộ ở bản lĩnh suy đoán, bình chọn về cái đẹp, cái xấu trong hiện thực bao quanh. Trường mẫu giáo có nhiệm vụ tạo nên cho trẻ những cơ sở của sở thích thẩm mĩ, sở thích nghệ thuật. Cần dạy cho các em phân biệt cái đẹp với cái ko đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giáo dục cho các em năng lực thể hiện rõ lí do vì sao mình thích bài hát, truyện cổ tích hay bức tranh này. Đương nhiên, trường mẫu giáo tạo nên cho trẻ cơ sở lúc đầu về bình chọn, nhưng mà chính điều này có ý nghĩa mập to, vì nó giáo dục trẻ 1 thái độ tự giác hơn với nhân vật thẩm mĩ.
Cần dạy trẻ biết trông thấy và cảm thụ cái đẹp ở cuộc sống bao quanh và biết bảo vệ nó. 1 bông hoa đẹp trong khóm hoa, 1 lớp học trang trí, đẹp tươi, êm ấm và sạch bong, các đồ dùng được xếp, đặt ngăn nắp, gọn gàng v.v… đều là những cái đẹp trong cuộc sống, phải biết bảo vệ, chăm nom và gìn giữ. Cùng lúc, cũng cần giúp trẻ hiểu được thế nào là cái xấu xí, thô kệch cần tránh trong cuộc sống hằng ngày, như áo quần luộm thuộm, dơ bẩn; đầu tóc rối bù; đồ dùng, đồ chơi vứt bề bộn lộn xộn…
Nghiên cứu các nhiệm vụ căn bản của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo cho thấy, chúng có ý nghĩa mập to trong việc tạo nên tư cách của trẻ, cùng lúc cũng thấy được công đoạn giáo dục thẩm mĩ rất phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ và yêu cầu ở nhà giáo dục 1 vốn kiến thức và kỹ năng văn hoá thẩm mĩ nhất mực.
1.3.2. Phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ mẫu giáo
Khái niệm và thuật ngữ “các cách thức giáo dục thẩm mĩ” và “các cách thức dạy nghệ thuật” có những điểm giống nhau và không giống nhau. Các cách thức giáo dục thẩm mĩ ko chỉ nhằm tạo nên thái độ thẩm mĩ đối với toàn cầu thiên nhiên, xã hội, nhân vật thẩm mĩ nhưng còn đối với cả công đoạn dạy nghệ thuật. Khái niệm “các cách thức giáo dục thẩm mĩ” rộng hơn và bao hàm trong nó cả cách thức dạy nghệ thuật.
Có thể coi các cách thức giáo dục thẩm mĩ và dạy nghệ thuật là những phương pháp hành động chung của thầy cô giáo và trẻ con nhằm tạo điều kiện cho trẻ nắm được kinh nghiệm hoạt động thẩm mĩ, nhằm tạo nên những phương thức hành động và tăng trưởng năng lực nghệ thuật ở chúng.
Các cách thức giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với các nhiệm vụ và thực chất của giáo dục thẩm mĩ. Những cách thức giáo dục thẩm mĩ nhằm kích thích trẻ hăng hái nghĩ suy, xúc cảm, hình dung và hoạt động.
Hệ thống cách thức bình thường được phân loại trên cơ sở nguồn phân phối kiến thức, bao gồm:
– Nhóm các cách thức dùng lời: giảng giải, nói chuyện, hướng dẫn, đọc kể…
– Nhóm các cách thức trực giác: quan sát, sử dụng các đồ dùng trực giác.
– Nhóm các cách thức thực hành (hay thực tế) luyện tập.
– Nhóm các cách thức dùng trò chơi.
Các cách thức này được sử dụng trong sự phối hợp hợp nhất với nhau. Trước hết, cô cần tổ chức cho trẻ quan sát vẻ đẹp của cuộc sống, của tự nhiên, như quan sát 1 vườn hoa, cảnh hoàng hôn đầy màu sắc, quang cảnh 1 ngày lễ, hay những tác phẩm nghệ thuật (bức tranh vẽ, bức tượng gỗ…) liên kết với tiếng nói nghệ thuật trong kể chuyện, hướng dẫn, giảng giải… làm tăng bản lĩnh cảm thụ thẩm mĩ và khiến cho trẻ trông thấy cái đẹp và thích thú cái đẹp trong cuộc sống, trong tự nhiên và trong các tác phẩm nghệ thuật.
Những xúc cảm thẩm mĩ phát triển thành thâm thúy và giữ được lâu hơn giả dụ trẻ thông suốt nội dung nhân vật (1 bài hát, 1 câu chuyện cổ tích, 1 bức tranh, 1 bông hoa đẹp, 1 áng mây trôi,…). Do ấy, cô giáo cần giảng giải nội dung tác phẩm đang được tiếp nhận, làm xác thực các biểu trưng của các em. Việc thể hiện 1 cách nghệ thuật những tác phẩm âm nhạc, những ca khúc; việc đọc các tác phẩm văn chương nghệ thuật ảnh hưởng trực tiếp tới trẻ, khơi gợi tình cảm và xúc cảm thẩm mĩ, giúp các em hiểu thâm thúy hơn nội dung và vẻ ngoài tác phẩm.
Khi sử dụng cách thức nói chuyện, bằng những câu hỏi của mình, cô giáo khiến cho trẻ xem xét, nghĩ suy về những điểm chủ chốt (giả dụ các tuyến hành động và các đối tượng), mày mò và tổ chức kinh nghiệm của trẻ, làm thâm thúy những xúc cảm thẩm mĩ của trẻ. Trong lúc nói chuyện, tập cho trẻ nói lên những ấn tượng của mình, bộc bạch thái độ của mình đối với tác phẩm và các hiện tượng trong cuộc sống. Khi nói chuyện phải dùng từ kích thích xúc cảm thẩm mĩ của trẻ đối với tác phẩm nghệ thuật.
Khi trẻ dạy vẽ, nặn, hát, múa, cô ko chỉ chỉ dẫn trẻ cách làm nhưng cần tổ chức cho trẻ thực hành nhằm tạo nên những kĩ năng nhất mực. Bởi thế, thầy cô giáo cần áp dụng cách thức luyện tập. Để trẻ hiểu biết các thao tác, cách biểu lộ, cách sử dụng các đồ dùng học tập (bút chì, bút lông, màu vẽ v.v…) cô cần dùng các giải pháp hướng dẫn, làm mẫu…
Trong giáo dục thẩm mĩ cũng cần dùng cách thức tập dượt hành động có thể gọi ấy là những hành động thẩm mĩ. Ở trẻ có những hành động với tinh thần muốn khiến cho tình cảnh sống bao quanh đẹp hơn, nghĩa là trẻ muốn chuyển đổi nó theo sức mình và bằng cách ấy khiến cho bằng hữu và người to vui thích. Cần giúp trẻ tập dượt hành động phê chuẩn các bài tập không giống nhau. Tập dượt yêu cầu phải có sự lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng khác với việc tập dượt những lề thói trong sinh hoạt, việc tập dượt những hành động thẩm mĩ ko theo 1 trình tự chặt chẽ, giả dụ, trẻ có thể dùng sỏi đá, những tấm bìa bé, những mảnh nhựa màu để xếp thành 1 hình gì ấy (1 con thuyền, 1 ngôi nhà chả hạn…). Thành ra, rất cần giáo dục và tăng trưởng năng lực hành động trong những tình cảnh có vấn đề, năng lực áp dụng những kỹ năng đã nắm được.
Trong giáo dục thẩm mĩ, hoạt động chủ chốt của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Điều quan trọng là cho trẻ xúc tiếp với những phương thức hoạt động nghệ thuật nói chung nhất, tiêu biểu nhất, nghĩa là những phương thức thiết yếu cho mọi biến thể của các loại hình nghệ thuật. Những phương thức chung ấy là: những phương thức định hướng về âm thanh, màu sắc, hình trạng, di chuyển, những phương thức định hướng trong toàn thể những dụng cụ trình bày của mỗi loại hình nghệ thuật (cảm giác), các phương thức xúc tiếp với nội dung tư tưởng, tình cảm của các tác phẩm và cùng cảm xúc với các đối tượng (hình tượng nghệ thuật), sự liên kết những phương thức toàn cục và phân tách.
Về bình diện cảm thụ thẩm mĩ, sự dị biệt tư nhân rất to và biểu lộ ngay từ thế hệ mẫu giáo. I. P. Páplốp có nhắc đến 2 kiểu người căn bản, căn cứ vào kiểu hoạt động tâm thần của họ, ấy là kiểu nghệ sĩ cảm thụ toàn cầu bên ngoài 1 cách mãnh liệt, trực tiếp và chủ chốt dựa vào hệ thống dấu hiệu thứ nhất; kiểu người trí óc nặng về hoạt động phân tách dựa vào hệ thống dấu hiệu thứ 2, dựa vào từ, vào sự phân tách và nói chung các hiện tượng. Bởi thế, cách thức giáo dục thẩm mĩ phải được xác định tuỳ theo đặc điểm thế hệ và tư nhân của trẻ.
Mặt khác, ý kiến tổng hợp yêu cầu phải thiết lập mối quan hệ qua lại giữa các cách thức và giải pháp giáo dục thẩm mĩ, có tính tới những điều kiện sư phạm, các yếu tố của công đoạn sư phạm nhằm mang đến 1 kết quả tối ưu.
1.4. Phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ măng non
Có nhiều dụng cụ để giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non. Dưới đây là 1 số dụng cụ căn bản:
1.4.1. Vẻ đẹp của môi trường bao quanh trẻ
Những đồ đoàn, đồ vật trong gia đình như: nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi… từ hình trạng, kích tấc, màu sắc… tới bài trí nó trong gia đình bảo đảm sự trang nhã, ngăn nắp, sạch bong, thứ tự… biến thành nhân vật thẩm mĩ của trẻ. Bởi vì, chính những cái ấy đã gây ấn tượng thâm thúy ở trẻ và để lại trong sự ghi nhớ và ý tưởng của thơ ấu.
Vẻ đẹp trong sinh hoạt của trường măng non như các tiện dung sinh hoạt, đồ chơi, cách bố trí, bài trí, màu sắc của các đồ vật bảo đảm sự trang nhã, hài hoà đã tạo ra vẻ đẹp của môi trường “học tập” cho trẻ. Điều này có tác động trực tiếp tới việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Người to, cô giáo măng non cần giúp cho cuộc sống sinh hoạt bao quanh trẻ từ nhà ở tới trường, lớp măng non có vẻ đẹp trang nhã, tươi vui có lí, thu hút và mang tính giáo dục thẩm mĩ cao.
Tóm lại: Giáo dục thẩm mỹ trong những nội dung quan trọng của giáo dục toàn diện đối với lứa tuổi trẻ, và là việc cần phải thực hiện 1 cách nghiêm chỉnh từ tuổi mẫu giáo. Có thể coi trẻ mẫu giáo là thời đoạn “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ. Ở thế hệ này, tâm hồn trẻ rất mẫn cảm dễ xúc động đối với con người và cảnh vật bao quanh, trí hình dung của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, năng khiếu nghệ thuật và cũng thường được phát sinh từ thế hệ này.
Khi nó tới giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo, ta thường coi ấy là nhiệm vụ của trường măng non với các “tiết học” tạo hình, múa hát, đóng kịch… nhưng hầu như ít người để ý tới 1 trong những nhà giáo dục chủ chốt nhất và hoàn hảo nhất – ấy chính là gia đình. Sự cảm nhận trước tiên , đặc sắc nhất, ấn tượng nhất về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mỹ của bố mẹ từ mối quan hệ giao tiếp – xử sự tốt đẹp trong gia đình, đây là điều kiện quan trọng nhất để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Mời độc giả cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục tập huấn trong mục biểu mẫu nhé.

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 1
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 9
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 8

[rule_2_plain]
[rule_3_plain]

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Bài #thu #hoạch #bồi #dưỡng #thường #xuyên #module #GVMN

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16

hoatieu.vn xin gửi đến thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16 theo quy định Thông tư 12/2019/TT-BGDĐT về chương trình bồi dưỡng thường xuyên thầy cô giáo măng non để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch có chủ đề tổ chức các hoạt động tăng trưởng tiếng nói/đẩy mạnh tiếng Việt cho trẻ con theo ý kiến giáo dục lấy trẻ con làm trung tâm.
Bài thu hoạch BDTX module GVMN 16
Giáo dục thẩm mỹ là 1 công đoạn ảnh hưởng có mục tiêu, có kế hoạch của nhà giáo dục tới trẻ, nhằm giúp trẻ biết trông thấy cái đẹp, có hứng thú, thích thú cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động tư nhân.
Giáo dục thẩm mỹ nhưng trung tâm là giáo dục cái đẹp và đưa cái đẹp vào trong đời sống 1 cách thông minh, là 1 nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục tư cách tăng trưởng toàn diện.
Tuổi thơ luôn nhìn toàn cầu bằng cặp mắt trong trắng, tất cả đối với trẻ chừng như đặc sắc hơn, mặt trời chói lọi hơn, chị “Hằng Nga” kì bí hơn, bông hoa đặc sắc, dòng sông tung sóng, cơn giông ập tới v.v… chúng biểu lộ cảm xúc thẩm mỹ thật hồn nhiên và trong trẻo. Thế hệ này tiếp thu và tạo nên năng lực thông minh thẩm mỹ lúc đầu rất thiết yếu cho việc tạo nên tài năng thông minh về sau.
Để xây dựng cơ sở lúc đầu cho giáo dục tư cách con người tăng trưởng toàn diện, giáo dục măng non cần phải được thực hiện 1 cách tổng hợp và đồng bộ các mặt sau đây:

Giáo dục thể chất
Giáo dục trí óc
Giáo dục đạo đức
Giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục lao động.

Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ khăng khít với giáo dục đạo đức, giáo dục trí óc, lao động và thể chất. Những xúc cảm thẩm mỹ có tác động to tới gương mặt đạo đức của con người và khiến cho tình cảm con người thêm cao thượng. Những mặt giáo dục trên đây gắn bó, bổ sung cho nhau trong công đoạn tạo nên cơ sở lúc đầu về tư cách con người tăng trưởng toàn diện. Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển và tăng trưởng của trẻ ở mỗi thời gian không giống nhau là không giống nhau, nên cần phải xác định được các nhiệm vụ nội dung, cách thức, giải pháp… chăm nom và giáo dục thích hợp với đặc điểm phát triển và tăng trưởng của từng thời gian.
1. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non
1.1.1. Khái niệm giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục thẩm mĩ, về thực chất là bồi dưỡng lòng khát khao đưa cái đẹp vào cuộc sống, hình thành sự hài hoà giữa xã hội – con người – thiên nhiên, tăng lên năng lực cảm thụ và thông minh cái đẹp ở con người, khiến cho con người được tăng trưởng 1 cách hài hoà trong mọi hoạt động lao động cũng như ngơi nghỉ, trong quan hệ gia đình cũng như xã hội.
Cũng như mọi hoạt động giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ là 1 công đoạn dài lâu, diễn ra 1 cách có hệ thống: từ thấp tới cao, từ dễ ợt tới phức tạp. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non là sự mở màn cho toàn thể công đoạn giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường.
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ măng non là 1 công đoạn sư phạm, nhằm tạo nên và tăng trưởng ở trẻ con năng lực lúc đầu về cảm thụ và nhận thức đúng mực cái đẹp trong đời sống sinh hoạt, xã hội, trong thiên nhiên và trong nghệ thuật, giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp, sống theo cái đẹp và biết tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.
Giáo dục thẩm mĩ là 1 định nghĩa rộng, bao gồm việc giáo dục cho trẻ thái độ thẩm mĩ đối với tự nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với nghệ thuật. Từ việc cho trẻ có được sự hiểu biết đúng mực thế nào là đẹp, xấu tới sự tạo nên thái độ hăng hái ủng hộ cái đẹp, loại bỏ cái xấu, cùng lúc có hành vi phù hợp với bản thân để phục vụ cái đẹp cho bản thân và cái đẹp trong cuộc sống bao quanh là 1 công đoạn ảnh hưởng sư phạm dài lâu của người to (cô giáo, bố mẹ, ông bà…).
1.1.2. Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non
Giáo dục thẩm mĩ là 1 trong những mặt quan trọng trong giáo dục để con người tăng trưởng toàn diện, cho nên, trong công việc giáo dục măng non chẳng thể thiếu giáo dục thẩm mĩ.Tuổi măng non là quá trình tăng trưởng nhanh nhất các tác dụng tâm lí, là quá trình tạo nên cơ sở lúc đầu về tư cách. Trong ấy phải kể tới những cơ sở để tạo nên sở thích và năng khiếu thẩm mĩ sau này.
Đặc tính của cái đẹp và đặc tính của tuổi thơ rất gần nhau, nên trẻ bé tới cái đẹp như tới với những gì thân thiện, quý mến. Trẻ hăng hái, vui sướng lúc được sống trong toàn cầu của cái đẹp: đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ nghĩnh, màu sắc, âm thanh của cảnh vật bao quanh thu hút… Thành ra, nếu ko giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay kể từ còn bé là bỏ dở 1 thời cơ trong giáo dục con người. Có thể coi ấy là 1 sự phung phá đáng kể trong việc bổ dưỡng những năng khiếu, những phẩm giá tất đẹp cho tâm hồn thơ ấu.
Mặt khác, tình yêu cái đẹp chẳng phải là cái bẩm sinh nhưng nó được phát sinh và tăng trưởng trong công đoạn giáo dục. 1 em nhỏ sẽ chẳng thể có được tình yêu cái đẹp nếu chúng ta ko tạo điều kiện để em nhỏ ấy xúc tiếp với nhiều cái đẹp bao quanh, ko khiến cho những tính chất sinh động và phong phú của cái đẹp tràn vào các cảm quan của trẻ để đánh dấu trong tâm não nó những ấn tượng tươi mát, thoải mái; nếu chúng ta ko biết khơi gợi ở trẻ những cảm xúc tốt lành về con người và làm thức dậy trong trẻ những gì thân thiện, gần gụi lúc xúc tiếp với cái đẹp.
Đừng nên nghĩ rằng, trẻ còn bé ko biết thế nào là đẹp, là xấu nhưng chỉ cần cho ăn no, mặc ấm là được. Đương nhiên ăn no, mặc ấm là nhu cầu chẳng thể thiếu, cần được để đảm bảo cho trẻ sống. Nhưng để to lên thành người, trẻ cần được nhiều nhu cầu ý thức, trong ấy có nhu cầu về cái đẹp và chính những nhu cầu đó mới là động lực tăng trưởng tâm lí, tăng trưởng đời sống ý thức của trẻ.
Lời ru ngọt ngào, giọng nói âu yếm, âm điệu du dương của 1 bản nhạc; bông hoa tươi sắc, đồ chơi nhiều dáng vẻ, màu sắc hài hoà… tất cả đều cần được đưa tới cho trẻ. Thiếu những cái tưởng như phổ biến đó sẽ là nỗi xấu số cho thơ ấu. Sớm xúc tiếp với cái vẻ đẹp ấy sẽ tạo điều kiện cho việc tạo nên ở trẻ những ấn tượng tươi mát, làm phát sinh nhu cầu về cái đẹp, khiến cho hiện trạng ý thức của trẻ được dễ chịu, thoải mái, trẻ sẽ luôn cười vui với mọi người. Nhưng trái lại, những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài như: những lời nói lỗ mãng, những nét mặt quạu quọ, những hành vi lỗ mãng, nơi ăn chốn ở nhếch nhác, dơ bẩn sẽ khiến cho tính nết của trẻ phát triển thành gắt gỏng, khó chịu hoặc nguy hại hơn là trẻ dễ thích ứng với cái xấu ngay từ tấm nhỏ.
Giáo dục thẩm mĩ liên can khăng khít với các mặt giáo dục tư cách con người tăng trưởng toàn diện, đặc thù là giáo dục đạo đức và giáo dục trí óc. Cái đẹp của toàn cầu bao quanh (gia đình, trường lớp măng non, góc sân chơi, màu sắc, hình trạng đồ chơi…) và cái đẹp trong nghệ thuật (hát múa, thơ truyện, tạo hình…) chẳng những tác động trực tiếp tới việc tạo nên nhận thức thẩm mĩ nhưng còn ảnh hưởng tới việc tạo nên tình cảm đạo đức cho trẻ. Những cảm xúc thẩm mĩ có tác động to tới gương mặt đạo đức của con người. Nhờ cảm xúc này nhưng tính cách của trẻ phát triển thành cao thượng, đời sống của trẻ thêm phong phú, trẻ thêm sáng sủa hơn trong cuộc sống… Tất cả những điều ấy ảnh hưởng mạnh bạo tới việc tạo nên mối quan hệ tốt đẹp của trẻ với cuộc sống và con người. Thông qua việc tiếp thu những tác phẩm nghệ thuật trẻ sẽ nhận thức đúng mực về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống… điều ấy tác động to tới việc giáo dục các phẩm giá đạo đức cho trẻ (như lòng bác ái, tính tập thể, hành vi đẹp trong cuộc sống xã hội…).
Qua giáo dục thẩm mĩ nhưng trẻ có được cảm thụ thẩm mĩ và nhận thức thâm thúy hơn những hiện tượng của cuộc sống, nhờ ấy mở mang tầm nhìn của trẻ, khiến cho các biểu trưng về toàn cầu bao quanh càng thêm thâm thúy hơn, cùng lúc khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết. Chẳng hạn, những đồ dùng, đồ chơi đẹp, màu sắc hài hoà… sẽ giúp trẻ tri giác sự vật mau lẹ hơn, đơn giản hơn, cho nên nhưng dễ tạo nên được biểu trưng về vật dụng ấy trong đầu. Mặt khác, trên cơ sở những biểu trưng phong phú về toàn cầu bao quanh được tạo nên sẽ tạo điều kiện cho trẻ cảm thụ cái đẹp thâm thúy hơn, cảm xúc thẩm mĩ của trẻ phát triển thành mạnh bạo hơn. Thật vậy, cảm xúc thẩm mĩ ko chỉ được xây dựng trên cơ sở cảm thụ cái đẹp, nhưng còn được dựa trên cơ sở hiểu biết thâm thúy hơn nội dung cái đẹp.
Có thể nói, cái đẹp là dòng suối nuôi dưỡng lòng tốt và trí sáng dạ. Chính thành ra nhưng các nhà giáo dục học đã coi giáo dục thẩm mĩ là 1 mặt rất quan trọng trong việc tạo nên và tăng trưởng tư cách ở trẻ măng non. Thiếu cái đẹp, đứa trẻ sẽ rầu rĩ, già trước tuổi, toàn cầu ý thức sẽ nghèo khó, làm thui chột năng khiếu và những phẩm giá tốt đẹp của trẻ.
Cuộc sống ý thức trong toàn cầu cái đẹp khơi dậy ở trẻ nhu cầu muốn khiến cho mình phát triển thành đẹp hơn, nhu cầu khám phá cái đẹp ở bao quanh. Đứa trẻ càng sớm thấy được vẻ đẹp ấy bao lăm thì sự tăng trưởng đời sống ý thức và thể chất của nó càng thuận tiện bấy nhiêu.
Tóm lại, giáo dục thẩm mĩ là việc làm chẳng thể thiếu được trong công việc chăm nom – giáo dục trẻ con thế hệ măng non. Giáo dục thẩm mĩ cần được thực hiện ngay từ bé với những dụng cụ nhiều chủng loại, phong phú.
1.2. Nhiệm vụ, nội dung và cách thức giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ vườn trẻ
1.2.1. Nhiệm vụ
Cũng như các mặt giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là 1 công đoạn dài lâu và mang tính hệ thống. Mỗi thế hệ có những nhiệm vụ giáo dục chi tiết thích hợp với đặc điểm tăng trưởng của thế hệ ấy ở thế hệ vườn trẻ, giáo dục thẩm mĩ bao gồm 3 nhiệm vụ căn bản sau:
a) Cung cấp và làm giàu ấn tượng bao quanh cho trẻ, trên cơ sở ấy tăng trưởng tri giác thẩm mĩ cho chúng
Quá trình tăng trưởng thẩm mĩ của con người diễn ra ngay kể từ còn bé. Khi nhưng thị giác và thính giác là dụng cụ căn bản giúp trẻ liên hệ với thế giời bên ngoài. Nhờ cặp mắt và đôi tai đứa trẻ tích luỹ được những ấn tượng về toàn cầu.
Trẻ bé thường hứng thú và có ấn tượng với những vật dụng, đồ chơi có màu sắc tươi sáng, chân thực, phát ra âm thanh, những hiện tượng tự nhiên “kín đáo”, thu hút (mặt trời mọc, giọt sương long lanh, tiếng chim hót lăng líu, những bông hoa đua sắc…), những hành vi, việc làm của mọi người gây cho trẻ tò mò, ham thích… Người to cần giúp cho trẻ xúc tiếp với toàn cầu bao quanh để giúp trẻ có những ấn tượng phong phú, tốt đẹp về toàn cầu bao quanh. Bởi thành ra giới màu sắc âm thanh, hình trạng, động tác càng phong phú, đẹp tươi bao lăm thì việc giáo dục thẩm mĩ càng có cơ sở tốt bấy nhiêu.
Trong công đoạn cho trẻ xúc tiếp với toàn cầu bao quanh, người to cần dạy trẻ biết nhìn và phát xuất hiện vẻ đẹp của toàn cầu bao quanh: (của đồ chơi, đồ dùng, của tự nhiên và cuộc sống con người). Đối với trẻ con thế hệ vườn trẻ, đây là 1 việc làm gieo neo, vì trẻ chưa tinh thần được cái đẹp trong cuộc sống bao quanh, chưa có tiêu chuẩn bình chọn cái đẹp… nhưng chỉ là sự nhận diện cảm tính vẻ hình thức của sự vật, hiện tượng.
b) Bước đầu tăng trưởng ở trẻ năng lực xúc cảm thẩm mĩ và hứng thú với nghệ thuật
Những xúc cảm thẩm mĩ của con người chẳng phải là những xúc cảm dễ ợt, chúng diễn ra trên cơ sở những kiến thức nhưng con người có được về cái đẹp. Bởi thế, công đoạn tiếp nhận kiến thức về cái đẹp và tạo nên xúc cảm thẩm mĩ diễn ra 1 cách hợp nhất, liên tiếp. Khi xúc cảm thẩm mĩ được tạo nên sẽ xúc tiến con người hoạt động hăng hái hơn, sáng sủa hơn trong cuộc sống. Thành ra, tạo nên và tăng trưởng xúc cảm thẩm mĩ cho trẻ là 1 nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ vườn trẻ.
Ở thế hệ vườn trẻ, trẻ con thường biểu lộ xúc cảm của mình 1 cách trực tiếp: qua nụ cười, qua những phản ứng, qua những câu nói biểu hiện sự ham thích hay ko thích. Do vậy, người to có thể phán đoán được cảm xúc, tình cảm của trẻ, qua ấy nhưng khơi sâu và làm phong phú những xúc cảm dương tính và uốn nắn những xúc cảm âm tính cho trẻ, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng xúc cảm của trẻ thích hợp với nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ.
Theo N. Kiiasenco: “Chất dinh dưỡng tạo ra bản lĩnh nghệ thuật là cái đẹp trong nghệ thuật… Nhờ nghệ thuật nhưng con người hiểu được vẻ đẹp của cuộc sống, do ấy mở mang được lĩnh vực cái đẹp. Vì nghệ thuật chân chính ko bao giờ thoát li cuộc sống, nhưng ngược lại, nó khát khao mày mò ý nghĩa nghệ thuật cuộc sống, nên trong nghệ thuật toàn thể kinh nghiệm thẩm mĩ của dân chúng”.
Như vậy, nghệ thuật là 1 dụng cụ, trục đường giáo dục và tăng trưởng xúc cảm thẩm mĩ có hiệu quả cho trẻ con. Bằng những nhạc điệu ngọt ngào của những bài hát, những câu thơ, những câu ca dao giàu nhạc tính, những tác phẩm hội hoạ rực rỡ… người to đã đưa trẻ vào những trị giá văn hoá loài người, dân tộc, tạo cho trẻ những xúc cảm mang tính thẩm mĩ, làm phát sinh nhu cầu về cái đẹp trong cuộc sống bao quanh.
c) Bước đầu giáo dục sở thích thẩm mĩ và tăng trưởng năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ
Thị hiếu thẩm mĩ là thái độ, tình cảm khiến người ta phản ứng nhanh lẹ trước những cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống và nghệ thuật là 1 bộ phận quan trọng của tình cảm thẩm mĩ, sở thích thẩm mĩ đã tạo điều kiện cho con người tiến sâu hơn vào toàn cầu thẩm mĩ bằng những nhạy cảm đặc thù và những khát vọng khẩn thiết. Khi thưởng thức cái đẹp, căm giận cái xấu, xót xa trước cái bi thảm, thán phục cái cao cả, định hướng các trị giá thẩm mĩ, tận hưởng và thông minh thẩm mĩ… Thị hiếu thẩm mĩ tốt sẽ hướng mỗi người nỗ lực cho những cái đẹp, cái tốt, cái đúng. Không có sở thích thẩm mĩ lành mạnh, đúng mực thì ko có cuộc sống đẹp. Thành ra, giáo dục sở thích thẩm mĩ cho trẻ con ngay từ khi thế hệ vườn trẻ là việc làm rất quan trọng trong công việc giáo dục thẩm mĩ cho thơ ấu.
Thị hiếu thẩm mĩ của trẻ bé thường trình bày ở việc bình chọn cái đẹp phân biệt cái xấu, cái đẹp. Trường măng non cần dạy trẻ biết phân biệt cái đẹp với cái ko đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giúp trẻ biết thể hiện rõ vì sao thích bài hát, bức tranh, truyện cổ tích hay 1 đối tượng nào ấy trong tác phẩm. Phcửa ải giúp trẻ biết cảm thụ cái đẹp ở bao quanh và biết tạo tạo ra cái đẹp trong cuộc sống hằng ngày. 1 bông hoa đẹp trong khóm hoa, 1 lớp học sạch bong, êm ấm trang hoàng trong nhà phải được trẻ yêu mến. Trẻ ko vứt rác lộn xộn, biết xếp gọn đồ chơi, đồ dùng để luôn giữ được vẻ đẹp của trường lớp, mang đến nguồn vui cho mọi người.
Thị hiếu thẩm mĩ của mỗi trẻ có sự không giống nhau. Thành ra, trong việc giáo dục sở thích thẩm mĩ cho trẻ, người to, cô giáo cần tôn trọng và phát huy ý thích thẩm mĩ lành mạnh của trẻ, tránh gò bó, áp đặt làm thui chột óc thẩm mĩ và sở thích thẩm mĩ của trẻ.
Hoạt động tạo hình rất thu hút với trẻ, vì thành phầm tạo thành với màu sắc, đường nét, hình khối, dáng vẻ đã ảnh hưởng trực tiếp tới thị giác và xúc giác của trẻ. Ngay từ những 5 tháng trước tiên của đời người, đôi mắt thơ ấu đã hoạt động để tiếp thu ánh sáng, màu sắc. Đứa trẻ 3 – 4 tháng tuổi đã cảm thấy lúc nhận ra màu sắc đặc sắc từ những giải lụa hay chùm bóng treo trên nôi, 5 – 6 tháng tuổi đã biết vờn theo vật dụng, đồ chơi có màu sắc và có hình thù thu hút. Trẻ 3 tuổi đã có thể trông thấy con gà, con vịt, hay những người trong tranh… và bằng cách ấy nhưng trẻ đi vào toàn cầu tạo hình 1 cách thiên nhiên. Do vậy, người to cần để ý giáo dục và tạo nên năng lực tạo hình cho trẻ, trước tiên là chỉ dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của những thành phầm tạo hình, sau ấy tập cho trẻ 1 kỹ năng nặn, vẽ… những thứ nhưng trẻ thích thú.
1.2.2. Nội dung và cách thức giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ vườn trẻ
a) Dạy trẻ quan sát, cảm thụ vẻ đẹp của tự nhiên
Thiên nhiên ko chỉ đem lại cho trẻ con những thứ thiết yếu để sống nhưng còn thu hút chúng bởi những điều thần kì nhưng ko có gì thay thế nổi. Tới với tự nhiên là thị hiếu vốn có của trẻ, nhưng mà chẳng phải cứ tới với tự nhiên, sống trong lòng tự nhiên là các em phát hiện và cảm thụ được vẻ đẹp của nó. Nhiều trẻ tới với tự nhiên là để chơi đùa cho tha hồ, nhiều lúc còn có những hành động phá phách nữa. Do ấy, người to cần dạy trẻ biết ngắm nhìn, quan sát tự nhiên với thái độ đam mê, trân trọng – Thái độ thẩm mĩ đối với tự nhiên.
Khi còn bé, trẻ được người to bế ra ngoài trời ngắm những màu sắc của hoa lá trong vườn, lắng tai tiếng chim hót, tiếng con mèo kêu, chó sủa…; to hơn 1 chút, trẻ được người to chỉ cho xem ông trăng minh bạch trên trời, bầu trời sao nhấp nhánh vào buổi tối, ánh rạng đông lúc mặt trời mọc, con vịt bơi trên hồ nước, con cá vàng phơ phất cái đuôi như lá cờ, con cua bò ngang, con tôm đi thụt lùi… trẻ vừa ham thích vừa cảm thu được vẻ đẹp kì thú của tự nhiên.Thiên nhiên mãi mãi vẫn dành cho trẻ con những thú vui bất thần và nếu được đoàn luyện óc quan sát từ thuở thơ ấu thì trẻ có bản lĩnh phát xuất hiện bao lăm điều thú vị, cả trong những sự vật tưởng như là phổ biến và tẻ nhạt đối với người to. Thiên nhiên đẹp, tự nó đã là những chất dinh dưỡng cho tâm hồn thơ ấu, nếu được người to chỉ dẫn trẻ nhìn, nghe, màu sắc, âm thanh tuyệt diệu của nó thì cảm giác, tri giác của trẻ phát triển thành nhạy bén, tinh tế hơn. Do vậy, người to, cô giáo măng non cần ân cần giáo dục, dẫn dắt trẻ tới với tự nhiên.
Giúp cho trẻ xúc tiếp với tự nhiên, chỉ dẫn trẻ quan sát tự nhiên là vấn đề mang tính giáo dục to lao và là 1 trong những nội dung giáo dục thẩm mĩ quan trọng cho trẻ. Trường măng non cần có góc tự nhiên, trồng nhiều cây cảnh, hoa lá để trẻ quan sát cần có bể cá cảnh, chuồng gà, chuồng chim, chuồng thỏ… để trẻ chiêm ngưỡng, qua ấy giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.
Thực tế ở nhiều địa phương, nhất là ở thành thị, nhiều trường măng non ko có góc tự nhiên, trẻ ít được xúc tiếp với tự nhiên nhiều chủng loại – 1 thiệt thòi to của tuổi thơ. Nhìn lũ trẻ chơi trên bãi cát, nó đào xới, nghí ngoáy xúc cát ở chỗ này đổ sang chỗ khác 1 cách lí thú; ngỡ ngàng, phấn kích lúc phát hiện con tôm đi thụt lùi, con cua thì lại bò ngang, con cá vàng phơ phất cái đuôi như lá cờ…, ta càng nhận thấy sự thiệt thòi, xấu số của những đứa trẻ ko có điều kiện xúc tiếp với các hiện tượng tự nhiên nhiều chủng loại.
Người to, cô giáo măng non giúp cho trẻ xúc tiếp với các sự vật, hiện tượng nhiều chủng loại, phong phú của tự nhiên và dạy trẻ biết quan sát, cảm thụ được vẻ đẹp muôn màu của tự nhiên, là mang đến hạnh phúc cho tuổi thơ.
b) Giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày
Trẻ em ko chỉ tìm thấy cái đẹp trong tự nhiên nhưng còn tìm thấy cái đẹp trong đời sống xã hội. Đưa cái đẹp vào cuộc sống và giáo dục cái đẹp của cuộc sống cho thơ ấu là phận sự của người to. Vì 1 óc thẩm mĩ tốt hay xấu, 1 sở thích lành mạnh hay thấp hèn, 1 cách cư xử có văn hoá hay thiếu văn hoá… đều bắt nguồn từ đời sống của con người. Do vậy, giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày cho trẻ là 1 nội dung giáo dục thẩm mĩ căn bản cho trẻ con thế hệ vườn trẻ. Vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt của con người rất nhiều chủng loại, phong phú, được trình bày trước tiên ở mối quan hệ giữa con người với con người, trong những hành vi văn hoá – vệ sinh… Dưới đây là 1 số nội dung giáo dục căn bản:
– Giáo dục vẻ đẹp trong mối quan hệ với những người nhà. Đấy là giáo dục cho trẻ biết thương mến, gắn bó, chào hỏi lễ độ với ông bà, bố mẹ, cô giáo…, biết gần gũi với bằng hữu và biết cám ơn người khác đem lại thú vui cho mình, biết xin lỗi lúc gây phiền phức cho người khác.
– Giáo dục cho trẻ những hành vi văn hoá – vệ sinh. Đấy là việc giáo dục trẻ những hành vi, cử chỉ, lời ăn ngôn ngữ đẹp tươi trình bày thái độ đúng mực với mọi người (lễ độ với người to, gần gũi với bằng hữu…).
Giáo dục trẻ lề thói sạch bong, vệ sinh trong ăn uống (rửa tay trước lúc ăn, ngồi ăn ngay ngắn, ko vừa nhai vừa chuyện trò, lau mồm, uống nước sau lúc ăn…) lề thói sạch bong, vệ sinh trong ăn mặc (ko bôi bẩn ra áo quần, đầu tóc ngăn nắp…); giáo dục và đoàn luyện cho trẻ tác phong sinh hoạt văn hoá, tân tiến (đi đứng nhanh nhảu, khoẻ khoắn, tự tin, ăn nói gãy gọn…).
Tất cả những hành vi này cần được giáo dục và đoàn luyện ngay từ bé. Nếu người to, cô giáo măng non ko có tinh thần dạy bảo, đoàn luyện kĩ càng và chăm chút sẽ dễ tạo nên những lề thói hành vi ko mong muốn (như nói tục, chửi bậy, nhếch nhác, dơ bẩn trong ăn, mặc…). Việc tạo nên lề thói tốt là 1 việc làm yêu cầu tính kiên định, và việc phá vỡ lề thói xấu cũng cần yêu cầu sự kiên định.
– Giáo dục cho trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với toàn cầu vật dụng bao quanh
Thế giới vật dụng, đồ chơi là cái thu hút trẻ mạnh bạo. Vật dụng càng đẹp tươi, thu hút trẻ bao lăm thì trẻ càng say sưa khám phá kín đáo của vật dụng và thích chơi với vật dụng ấy bấy nhiêu. Do vậy, để giáo dục trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với toàn cầu vật dụng có hiệu quả, trước tiên người to phải phân phối cho trẻ vật dụng, đồ chơi đẹp. Trong công đoạn trẻ hoạt động với vật dụng, người to cần dạy trẻ biết cách sử dụng vật dụng theo đúng tác dụng của nó, nắm được nguyên lý sử dụng vật dụng và cảm thu được vẻ đẹp của nó.
Trong lúc lĩnh hội được những hành động, thao tác sử dụng vật dụng, thì cùng lúc trẻ cũng lĩnh hội được luật lệ hành vi trong xã hội (tác dụng xã hội của vật dụng, nguyên lý sử dụng nó…). Đây chính là thời cơ để dạy trẻ cách cư xử đẹp, có văn hoá đối với những vật dụng bao quanh.
Trong công đoạn chỉ dẫn trẻ hoạt động với vật dụng, người to cần tỏ thái độ ưng ý hay ko ưng ý với những hành vi, việc làm của trẻ lúc sử dụng vật dụng là rất thiết yếu. Nhờ thái độ ấy của người to, đứa trẻ có thể điều chỉnh hành vi của mình để có được cách xử sự tốt nhất đối với toàn cầu vật dụng. Thí dụ: Người to có thể chấp thuận để trẻ tháo 1 vài bộ phận của chiếc oto đồ chơi để phê chuẩn nó, nhưng mà chẳng thể chấp thuận lúc nhận ra đứa trẻ vặt chân, tay, đầu búp bê.
Khi dạy trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với toàn cầu vật dụng cũng cần tập cho trẻ lề thói gọn gàng, ngăn nắp, sạch bong trong việc bố trí, trang hoàng phòng chơi – tập, phòng ăn, phòng ngủ của chúng. Việc làm này chính là 1 nội dung căn bản của việc giáo dục và đoàn luyện hành vi văn hoá – vệ sinh thẩm mĩ cho trẻ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.
c) Bước đầu cho trẻ làm quen với nghệ thuật
– Bước đầu cho trẻ làm quen với âm nhạc
Thực tiễn cuộc sống và kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng, thơ ấu rất lí thú với nghệ thuật, nhất là âm nhạc. Những nhạc điệu, tiết tấu nhẹ nhõm của âm nhạc đưa trẻ vào toàn cầu của cái đẹp 1 cách êm ái và thu hút. Đối với trẻ bé, những bài hát ru có ý nghĩa cực kì mập to: Lời ru ngập tràn tình mến thương đượm đà của người mẹ chính là những nhạc điệu đẹp tươi trước tiên tới với con người, và cũng có thể nói: nền văn hoá của dân tộc, của nhân loại tới với mỗi chúng ta trước hết qua lời ru của mẹ. Đấy là những âm điệu đượm đà nhất, êm ái nhất, có tính năng giáo dục lòng yêu con người, yêu quê hương quốc gia cho trẻ con từ thuở còn nằm nôi. Những nhạc điệu mượt nhưng, êm dịu của lời ru ảnh hưởng vào đôi tai non nớt của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ có được đôi tai nghe nhạc tinh tế. Do vậy, người to (người mẹ, thầy cô giáo măng non…) cần phải biết hát ru để ru trẻ ngủ, dụ dỗ lúc trẻ khóc, nói chuyện với trẻ bằng những âm thanh hoàn hảo đó. Các bà mẹ, cô giáo măng non lúc hát ru cho trẻ nghe phải hát với cả tấm lòng mình: vừa hát vừa nhìn vào trẻ, bế trẻ vào lòng để ấp ôm, vỗ về cầm tay trẻ để cử động theo nhạc điệu, thích hợp với tình cảm của bài hát để phục vụ 1 cảm giác an toàn cho trẻ đi vào giấc ngủ, thôi khóc hay chịu chơi. Người mẹ, cô giáo măng non ko biết hát ru, hoặc hát 1 cách vô cảm sẽ gặp trắc trở trong giáo dục thơ ấu.
Khi trẻ biết nói, cần khuyến khích trẻ hát và di chuyển theo nhạc. Để giúp trẻ làm quen với tiết tấu, người to cần giúp cho trẻ vỗ tay, gõ mõ, đánh trống… lúc hát.
Người to, cô giáo măng non cần tuyển chọn những bài hát ngắn, vừa có nhạc điệu đẹp, vừa có tiết tấu vui thì trẻ bé nối liền thu được. Tuy nhiên, chẳng phải khi nào cũng cho trẻ xúc tiếp với những bài hát có tiết tấu rộn rã, lại càng nên tránh những bài hát có tiết tấu quá nhộn nhịp tới nhức tai, nhức óc gây khích động có hại cho tâm thần của trẻ.
Giáo dục vẻ đẹp trong thơ ca cho trẻ
Thơ ca là tinh hoa của tiếng nói, là kết tinh vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ thành phầm trí óc và tình cảm của biết bao lứa tuổi nối liền nhau. Thơ ca ko chỉ gieo vào lòng chúng ta vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc nhưng còn ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam, tự nhiên Việt Nam.
Sớm cho trẻ xúc tiếp với thơ ca là điều rất thiết yếu, vì thơ ca là nguồn dinh dưỡng cho tâm hồn thơ ấu về nhiều mặt: giáo dục cho trẻ cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ dân tộc; làm giàu toàn cầu cảm xúc của thơ ấu và nuôi dưỡng trí hình dung của trẻ.
Tính giai điệu của thơ ca giúp trẻ tiếp thu nó 1 cách đơn giản và ham thích. Thật hoàn hảo lúc khởi đầu học nói, trẻ được xúc tiếp với thơ ca, 1 thứ tiếng nói giàu giai điệu, vần điệu và giàu hình tượng. Tất cả những nhân tố ấy xúc tiến tinh thần tiếng nói của trẻ được phát sinh, tạo điều kiện cho lời nói của trẻ được hay hơn, đẹp hơn, toàn cầu cảm xúc của trẻ phong phú hơn, lành mạnh hơn, thăng bằng hơn, trí hình dung của trẻ phong phú, bay bổng, đầy mong ước.
Người to, cô giáo măng non cần tuyển chọn những bài thơ ngắn, giàu giai điệu, dễ nhớ, dễ thuộc mang lại cho thơ ấu. Cùng lúc cần khuyến khích, giúp cho tâm hồn thơ của trẻ được nảy nở lúc giao tiếp với mọi người, lúc xúc tiếp với vẻ đẹp của tự nhiên, cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
Giáo dục vẻ đẹp trong khúc hát đồng dao cho trẻ
Đồng dao là những câu vè ngắn gọn có vần điệu, nhịp độ được thơ ấu thích hát khi mà chơi, trong sinh hoạt tập thể – Đồng dao có tính năng giáo dục mạnh bạo đối với trẻ con, trước tiên là giáo dục thái độ văn hoá đối với 2 mối quan hệ chủ chốt của con người: con người – tự nhiên; con người – xã hội.
Đối với tự nhiên, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu hồn nhiên đối với con ong, con kiến, con cò, con vạc, cỏ cây hoa lá…
Đối với con người, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà, bố mẹ, bà con thôn ấp; đồng cảm với những người có tình cảnh ngang trái, sẵn lòng hỗ trợ người nghèo khó; tật nguyền. Có thể nói, đồng dao là những bài học đạo đức rất nhẹ nhõm và thu hút đối với thơ ấu.
Mặt khác, đồng dao với tính vui nhộn của nó đã đem lại cho trẻ những thú vui sướng không lo nghĩ, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa, chính sự hài hoà, hóm hỉnh của đồng dao đã bồi dưỡng trí óc của trẻ thêm sáng dạ, sắc sảo.
– Giáo dục cái đẹp trong hoạt động tạo hình
Như đã thể hiện trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ vườn trẻ, tạo hình rất thu hút thơ ấu. Ngay từ bé, trẻ đã thích nhìn ngắm những bức tranh màu sắc sặc sỡ, những hình khối nhiều chủng loại, nhưng mà chúng chưa tự nhận diện, chưa tự phát xuất hiện cái đẹp của những tác phẩm đó. Bởi thế, người to cần phải chỉ dẫn trẻ, tổ chức cho trẻ được xúc tiếp với nhiều tác phẩm tạo hình có trị giá như tranh, tượng… và chỉ dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.
Tranh, tượng đưa tới cho trẻ con phải đẹp, rõ ràng, màu sắc tươi sáng, đường nét hài hoà để sao cho trẻ có thể cảm thu được vẻ đẹp của chúng 1 cách đơn giản. Chúng ta có thể tính từ lúc những bức tranh dân gian (gà, lợn, cá) với những đường nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng tới những bức tranh đương đại (của hoạ sĩ và của tuổi thơ). Cho trẻ chơi với những con giống; những đồ chơi dân gian; đồ chơi thường; cho trẻ xem những bức tượng đặt ở công viên, đại lộ… Trẻ rất thích ngắm nhìn những tác phẩm nghệ thuật này, và cũng ham thích hơn lúc người to chỉ dẫn trẻ cảm thu được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.
Cộng với việc chỉ dẫn trẻ cảm thụ vẻ đẹp của tác phẩm tạo hình lúc được xem, rờ mó nó, người to cần giúp cho trẻ tập cầm bút, vẽ những đường căn bản, cho trẻ chơi với đất nặn, tập nặn. Dù rằng trẻ vẽ nguếch ngoác, nặn còn thô kệch chưa có hình thù rõ rệt, nhưng mà dần dần trẻ sẽ có kỹ năng vẽ những tranh dễ ợt (vẽ quả cam, quả thị, quả táo, cái lá…), nặn theo ý định – 1 số cái dễ ợt (đôi đũa, cái thìa, quả cam, quả thị…).
Các hoạt động tạo hình khác như xếp hình, xé dán… cũng là những hoạt động được trẻ ưa chuộng và người to có thể giáo dục thẩm mĩ cho trẻ qua việc tổ chức cho trẻ tham dự những hoạt động này.
Tóm lại, tuổi thơ là quá trình trước tiên của cuộc đời, là thời gian con người tiếp thu cái đẹp 1 cách đơn giản, bởi vì trẻ bé tới với cái đẹp 1 cách thiên nhiên như tới với những gì thân thiện, yêu mến. Thành ra nếu bỏ lỡ tuổi thơ trong việc giáo dục cái đẹp là bỏ dở 1 thời cơ thuận tiện trong giáo dục con người. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ phải phong phú, bao gồm nhiều thể loại, đặc thù là giáo dục cho trẻ cái đẹp gần gụi trong cuộc sống hằng ngày, để tạo nên năng lực thẩm mĩ cho trẻ. Giáo dục thẩm mĩ chẳng thể áp đặt, gò bó, nhưng phải để trẻ thiên nhiên, dễ chịu, giữ được tính hồn nhiên của thơ ấu.
1.3. Nhiệm vụ, nội dung và cách thức giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ mẫu giáo
1.3.1. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ mẫu giáo
– Phát triển tri giác, tình cảm và tạo nên biểu trưng về cái đẹp cho trẻ mẫu giáo.
Giáo dục thẩm mĩ tính từ lúc sự tăng trưởng năng lực tri giác cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, hiểu cái đẹp theo cách người ta thường nói về nghệ thuật.
Theo ý kiến của mĩ học Mác– Lê nin, sự tri giác cái đẹp được hiểu là công đoạn cảm thụ cái đẹp nhưng kết quả của nó là những rung cảm thẩm mĩ, những tình cảm thẩm mĩ.
Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là sự nhận thức cảm tính, chi tiết về mặt thẩm mĩ. Ngay từ những 5 trước tiên của cuộc sống, trẻ đã bị quyến rũ 1 cách vô tinh thần vào tất cả những gì mới lạ, thu hút như vật dụng có màu sắc sặc sỡ, những âm thanh và nhịp độ rộn ràng, tươi vui của toàn cầu bao quanh. Từ “đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ. Trẻ say sưa lắng tai bài hát, nghe truyện cổ tích, xem tranh ảnh. Song ấy chưa phải là tình cảm thẩm mĩ nhưng chỉ là sự biểu lộ của hứng thú nhận thức. Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ là giúp trẻ chuyển từ tri giác tự phát sang sự tri giác có tinh thần về cái đẹp. Cô giáo cần khiến cho trẻ để ý tới những sự vật và hiện tượng của thiên nhiên, tới những hành vi của con người, dạy cho các em biết nhìn ra và tăng trưởng được cái đẹp trong đời sống, trong tự nhiên, trong lao động, trong hành vi và hành động của con người, dạy cho các em biết nhìn nhận về bình diện thẩm mĩ đối với toàn cầu bao quanh.
Sự tri giác thẩm mĩ bao giờ cũng liên can chặt chẽ với xúc cảm và tình cảm thẩm mĩ. Với trẻ con, đặc điểm của tình cảm thẩm mĩ là thú vui không lo nghĩ, là xúc cảm trong trắng hiện ra lúc thấy cái đẹp. Tình cảm thẩm mĩ giữ vai trò rất mập to trong việc bình chọn các sự vật và hiện tượng không giống nhau, trong việc đoàn luyện sở thích thẩm mĩ sau này cho trẻ.
Giáo viên còn có nhiệm vụ dẫn dắt trẻ đi từ sự tri giác cái đẹp, xúc cảm đối với nó, tới chỗ hiểu và tạo nên biểu trưng về cái đẹp, biết nhận xét và bình chọn thế nào là đẹp, thế nào là xấu.
– Phát triển hứng thú và năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ
Năng lực thông minh nghệ thuật chẳng phải là cái bẩm sinh, nó được tạo nên trong công đoạn giáo dục của người to. Mọi trẻ con phổ biến đều có bản lĩnh thông minh nghệ thuật nếu được chỉ dẫn đúng mực về mặt sư phạm. Do vậy, việc tăng trưởng hứng thú và năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ là 1 nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, đây là 1 nhiệm vụ gieo neo và phức tạp. Bởi lẽ, nghệ thuật là 1 hình thái tinh thần xã hội đặc thù, dùng những hình tượng sinh động, chi tiết, gợi cảm để đề đạt hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Song ở thế hệ mẫu giáo, số đông trẻ con đều thích thú các loại hình nghệ thuật và có bản lĩnh tiếp nhận các loại hình nghệ thuật như, múa hát, kể chuyện, đọc thơ, vẽ, nặn, xé dán,… Thành ra, nhiệm vụ của cô giáo măng non là phải khơi gợi hứng thú và giúp cho trẻ tham dự hăng hái, tự giác vào các loại hình nghệ thuật ấy để tăng trưởng năng lực thông minh nghệ thuật cho trẻ.
– Tạo nên những cơ sở của sở thích thẩm mĩ
Sự thụ cảm cái đẹp có liên hệ khăng khít tới năng lực bình chọn cái đẹp 1 cách đúng mực. Thị hiếu thẩm mĩ của con người biểu lộ ở bản lĩnh suy đoán, bình chọn về cái đẹp, cái xấu trong hiện thực bao quanh. Trường mẫu giáo có nhiệm vụ tạo nên cho trẻ những cơ sở của sở thích thẩm mĩ, sở thích nghệ thuật. Cần dạy cho các em phân biệt cái đẹp với cái ko đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giáo dục cho các em năng lực thể hiện rõ lí do vì sao mình thích bài hát, truyện cổ tích hay bức tranh này. Đương nhiên, trường mẫu giáo tạo nên cho trẻ cơ sở lúc đầu về bình chọn, nhưng mà chính điều này có ý nghĩa mập to, vì nó giáo dục trẻ 1 thái độ tự giác hơn với nhân vật thẩm mĩ.
Cần dạy trẻ biết trông thấy và cảm thụ cái đẹp ở cuộc sống bao quanh và biết bảo vệ nó. 1 bông hoa đẹp trong khóm hoa, 1 lớp học trang trí, đẹp tươi, êm ấm và sạch bong, các đồ dùng được xếp, đặt ngăn nắp, gọn gàng v.v… đều là những cái đẹp trong cuộc sống, phải biết bảo vệ, chăm nom và gìn giữ. Cùng lúc, cũng cần giúp trẻ hiểu được thế nào là cái xấu xí, thô kệch cần tránh trong cuộc sống hằng ngày, như áo quần luộm thuộm, dơ bẩn; đầu tóc rối bù; đồ dùng, đồ chơi vứt bề bộn lộn xộn…
Nghiên cứu các nhiệm vụ căn bản của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo cho thấy, chúng có ý nghĩa mập to trong việc tạo nên tư cách của trẻ, cùng lúc cũng thấy được công đoạn giáo dục thẩm mĩ rất phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ và yêu cầu ở nhà giáo dục 1 vốn kiến thức và kỹ năng văn hoá thẩm mĩ nhất mực.
1.3.2. Phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ mẫu giáo
Khái niệm và thuật ngữ “các cách thức giáo dục thẩm mĩ” và “các cách thức dạy nghệ thuật” có những điểm giống nhau và không giống nhau. Các cách thức giáo dục thẩm mĩ ko chỉ nhằm tạo nên thái độ thẩm mĩ đối với toàn cầu thiên nhiên, xã hội, nhân vật thẩm mĩ nhưng còn đối với cả công đoạn dạy nghệ thuật. Khái niệm “các cách thức giáo dục thẩm mĩ” rộng hơn và bao hàm trong nó cả cách thức dạy nghệ thuật.
Có thể coi các cách thức giáo dục thẩm mĩ và dạy nghệ thuật là những phương pháp hành động chung của thầy cô giáo và trẻ con nhằm tạo điều kiện cho trẻ nắm được kinh nghiệm hoạt động thẩm mĩ, nhằm tạo nên những phương thức hành động và tăng trưởng năng lực nghệ thuật ở chúng.
Các cách thức giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với các nhiệm vụ và thực chất của giáo dục thẩm mĩ. Những cách thức giáo dục thẩm mĩ nhằm kích thích trẻ hăng hái nghĩ suy, xúc cảm, hình dung và hoạt động.
Hệ thống cách thức bình thường được phân loại trên cơ sở nguồn phân phối kiến thức, bao gồm:
– Nhóm các cách thức dùng lời: giảng giải, nói chuyện, hướng dẫn, đọc kể…
– Nhóm các cách thức trực giác: quan sát, sử dụng các đồ dùng trực giác.
– Nhóm các cách thức thực hành (hay thực tế) luyện tập.
– Nhóm các cách thức dùng trò chơi.
Các cách thức này được sử dụng trong sự phối hợp hợp nhất với nhau. Trước hết, cô cần tổ chức cho trẻ quan sát vẻ đẹp của cuộc sống, của tự nhiên, như quan sát 1 vườn hoa, cảnh hoàng hôn đầy màu sắc, quang cảnh 1 ngày lễ, hay những tác phẩm nghệ thuật (bức tranh vẽ, bức tượng gỗ…) liên kết với tiếng nói nghệ thuật trong kể chuyện, hướng dẫn, giảng giải… làm tăng bản lĩnh cảm thụ thẩm mĩ và khiến cho trẻ trông thấy cái đẹp và thích thú cái đẹp trong cuộc sống, trong tự nhiên và trong các tác phẩm nghệ thuật.
Những xúc cảm thẩm mĩ phát triển thành thâm thúy và giữ được lâu hơn giả dụ trẻ thông suốt nội dung nhân vật (1 bài hát, 1 câu chuyện cổ tích, 1 bức tranh, 1 bông hoa đẹp, 1 áng mây trôi,…). Do ấy, cô giáo cần giảng giải nội dung tác phẩm đang được tiếp nhận, làm xác thực các biểu trưng của các em. Việc thể hiện 1 cách nghệ thuật những tác phẩm âm nhạc, những ca khúc; việc đọc các tác phẩm văn chương nghệ thuật ảnh hưởng trực tiếp tới trẻ, khơi gợi tình cảm và xúc cảm thẩm mĩ, giúp các em hiểu thâm thúy hơn nội dung và vẻ ngoài tác phẩm.
Khi sử dụng cách thức nói chuyện, bằng những câu hỏi của mình, cô giáo khiến cho trẻ xem xét, nghĩ suy về những điểm chủ chốt (giả dụ các tuyến hành động và các đối tượng), mày mò và tổ chức kinh nghiệm của trẻ, làm thâm thúy những xúc cảm thẩm mĩ của trẻ. Trong lúc nói chuyện, tập cho trẻ nói lên những ấn tượng của mình, bộc bạch thái độ của mình đối với tác phẩm và các hiện tượng trong cuộc sống. Khi nói chuyện phải dùng từ kích thích xúc cảm thẩm mĩ của trẻ đối với tác phẩm nghệ thuật.
Khi trẻ dạy vẽ, nặn, hát, múa, cô ko chỉ chỉ dẫn trẻ cách làm nhưng cần tổ chức cho trẻ thực hành nhằm tạo nên những kĩ năng nhất mực. Bởi thế, thầy cô giáo cần áp dụng cách thức luyện tập. Để trẻ hiểu biết các thao tác, cách biểu lộ, cách sử dụng các đồ dùng học tập (bút chì, bút lông, màu vẽ v.v…) cô cần dùng các giải pháp hướng dẫn, làm mẫu…
Trong giáo dục thẩm mĩ cũng cần dùng cách thức tập dượt hành động có thể gọi ấy là những hành động thẩm mĩ. Ở trẻ có những hành động với tinh thần muốn khiến cho tình cảnh sống bao quanh đẹp hơn, nghĩa là trẻ muốn chuyển đổi nó theo sức mình và bằng cách ấy khiến cho bằng hữu và người to vui thích. Cần giúp trẻ tập dượt hành động phê chuẩn các bài tập không giống nhau. Tập dượt yêu cầu phải có sự lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng khác với việc tập dượt những lề thói trong sinh hoạt, việc tập dượt những hành động thẩm mĩ ko theo 1 trình tự chặt chẽ, giả dụ, trẻ có thể dùng sỏi đá, những tấm bìa bé, những mảnh nhựa màu để xếp thành 1 hình gì ấy (1 con thuyền, 1 ngôi nhà chả hạn…). Thành ra, rất cần giáo dục và tăng trưởng năng lực hành động trong những tình cảnh có vấn đề, năng lực áp dụng những kỹ năng đã nắm được.
Trong giáo dục thẩm mĩ, hoạt động chủ chốt của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Điều quan trọng là cho trẻ xúc tiếp với những phương thức hoạt động nghệ thuật nói chung nhất, tiêu biểu nhất, nghĩa là những phương thức thiết yếu cho mọi biến thể của các loại hình nghệ thuật. Những phương thức chung ấy là: những phương thức định hướng về âm thanh, màu sắc, hình trạng, di chuyển, những phương thức định hướng trong toàn thể những dụng cụ trình bày của mỗi loại hình nghệ thuật (cảm giác), các phương thức xúc tiếp với nội dung tư tưởng, tình cảm của các tác phẩm và cùng cảm xúc với các đối tượng (hình tượng nghệ thuật), sự liên kết những phương thức toàn cục và phân tách.
Về bình diện cảm thụ thẩm mĩ, sự dị biệt tư nhân rất to và biểu lộ ngay từ thế hệ mẫu giáo. I. P. Páplốp có nhắc đến 2 kiểu người căn bản, căn cứ vào kiểu hoạt động tâm thần của họ, ấy là kiểu nghệ sĩ cảm thụ toàn cầu bên ngoài 1 cách mãnh liệt, trực tiếp và chủ chốt dựa vào hệ thống dấu hiệu thứ nhất; kiểu người trí óc nặng về hoạt động phân tách dựa vào hệ thống dấu hiệu thứ 2, dựa vào từ, vào sự phân tách và nói chung các hiện tượng. Bởi thế, cách thức giáo dục thẩm mĩ phải được xác định tuỳ theo đặc điểm thế hệ và tư nhân của trẻ.
Mặt khác, ý kiến tổng hợp yêu cầu phải thiết lập mối quan hệ qua lại giữa các cách thức và giải pháp giáo dục thẩm mĩ, có tính tới những điều kiện sư phạm, các yếu tố của công đoạn sư phạm nhằm mang đến 1 kết quả tối ưu.
1.4. Phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ con thế hệ măng non
Có nhiều dụng cụ để giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thế hệ măng non. Dưới đây là 1 số dụng cụ căn bản:
1.4.1. Vẻ đẹp của môi trường bao quanh trẻ
Những đồ đoàn, đồ vật trong gia đình như: nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi… từ hình trạng, kích tấc, màu sắc… tới bài trí nó trong gia đình bảo đảm sự trang nhã, ngăn nắp, sạch bong, thứ tự… biến thành nhân vật thẩm mĩ của trẻ. Bởi vì, chính những cái ấy đã gây ấn tượng thâm thúy ở trẻ và để lại trong sự ghi nhớ và ý tưởng của thơ ấu.
Vẻ đẹp trong sinh hoạt của trường măng non như các tiện dung sinh hoạt, đồ chơi, cách bố trí, bài trí, màu sắc của các đồ vật bảo đảm sự trang nhã, hài hoà đã tạo ra vẻ đẹp của môi trường “học tập” cho trẻ. Điều này có tác động trực tiếp tới việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Người to, cô giáo măng non cần giúp cho cuộc sống sinh hoạt bao quanh trẻ từ nhà ở tới trường, lớp măng non có vẻ đẹp trang nhã, tươi vui có lí, thu hút và mang tính giáo dục thẩm mĩ cao.
Tóm lại: Giáo dục thẩm mỹ trong những nội dung quan trọng của giáo dục toàn diện đối với lứa tuổi trẻ, và là việc cần phải thực hiện 1 cách nghiêm chỉnh từ tuổi mẫu giáo. Có thể coi trẻ mẫu giáo là thời đoạn “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ. Ở thế hệ này, tâm hồn trẻ rất mẫn cảm dễ xúc động đối với con người và cảnh vật bao quanh, trí hình dung của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, năng khiếu nghệ thuật và cũng thường được phát sinh từ thế hệ này.
Khi nó tới giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo, ta thường coi ấy là nhiệm vụ của trường măng non với các “tiết học” tạo hình, múa hát, đóng kịch… nhưng hầu như ít người để ý tới 1 trong những nhà giáo dục chủ chốt nhất và hoàn hảo nhất – ấy chính là gia đình. Sự cảm nhận trước tiên , đặc sắc nhất, ấn tượng nhất về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mỹ của bố mẹ từ mối quan hệ giao tiếp – xử sự tốt đẹp trong gia đình, đây là điều kiện quan trọng nhất để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Mời độc giả cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục tập huấn trong mục biểu mẫu nhé.

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 1
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 9
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 8

[rule_2_plain]
[rule_3_plain]

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Bài #thu #hoạch #bồi #dưỡng #thường #xuyên #module #GVMN