Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1 – TRẦN HƯNG ĐẠO

 

BỘ GD-ĐT

TRƯỜNG………………

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

BÀI THU HOẠCH

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN

Module 01 – THPT:  Đặc điểm tâm lý của học trò trung học phổ thông

Năm học: …………..

Họ và tên: …………………………………………………………………………………….

Đơn vị: ………………………………………………………………………………………..

Ở mỗi độ tuổi không giống nhau thì đặc điểm tâm sinh lý cũng có sự khác biết rõ rệt. Việc hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý thế hệ sẽ góp phần xúc tiến sự tăng trưởng của chất lượng giáo dục, nhưng trong đó thầy cô giáo là yếu tố quan trọng nhất. Hiểu được điều đó, các đơn vị quản lý quản lý giáo dục đã tạo điều kiện cho thầy cô giáo được học tập module bồi dưỡng thường xuyên số 1. Với sự chỉ bảo tận tình của thầy cô bản thân tôi đã tiếp thu được nhiều tri thức hữu ích và rút ra bài học cho bản thân.

1.Quá trình tăng trưởng tâm lý tư nhân của học trò trung học phổ thông

 Tâm lý học phân chia toàn thể quá trình tăng trưởng tâm lý tư nhân thành các thời ký (hay các thời đoạn), mỗi thời đoạn được xác định bởi các dấu mốc tương đối về thời kì.

 Học trò trung học phổ thông là thời đoạn cuối của tuổi vị thành niên. Để tìm ra các giải pháp tăng trưởng năng lực hiểu biết, cần hiểu rõ hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng. Hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng được hiểu là tổ hợp các mối quan hệ và tính chất các mối quan hệ mới nhưng trẻ tham gia vào cũng như tính chất của sự tương tác giữa trẻ với các quan hệ xã hội[1]. Ở thời kỳ tăng trưởng trung học phổ thông, hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng được trình bày qua các mối quan hệ. Ở thế hệ này, các mối quan hệ phổ biển của tư nhân đó là quan hệ gia đình, quan hệ bạn hữu, quan hệ thầy trò và các mối quan hệ xã hội khác. Tùy theo sự tương tác của học trò và các chủ thể, hoàn cảnh xã hôi vừa xúc tiến sự tăng trưởng hoặc làm phát sinh các trở ngại đối với sự tăng trưởng. Hoàn cảnh xã hội tác động tới thế hệ học trò trung học phổ thông có tính mở, sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội. Thế hệ học trò, có sự trưởng thành nhất mực về nhận thức, do đó các quan hệ trở thành thuận tiện hơn.  Học trò trung học phổ thông vừa có sự độc lập nhất mực trong tư duy, trong đối nhân xử thế, tuy nhiên các em vẫn còn phụ thuộc vào gia đình về mặt kinh tế. Trong thế hệ này, các em luôn mong muốn được tôn trọng và lắng tai. Do vậy, cha mẹ cần có sự tin tưởng vào các em, tạo điều kiện cho các em được đưa ra các quyết định như lựa chọn nghề nghiệp, học hành, tình cảm. Sự tôn trọng của cha mẹ sẽ tạo điều kiện cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trở thành tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn cần có sự thẳng thắn, giúp các em nhận thức đúng sai để các em có thể hoàn thiện hơn nữa.

Trong quan hệ bạn hữu, học trò trung học phổ thông có mối quan hệ rộng rãi và có nhiều nhóm bạn nhiều chủng loại hơn. Các nhóm tạo nên dựa trên những điểm chung về thị hiếu, sự san sớt và đồng cảm với nhau. Tuy nhiên ở thế hệ này, cha mẹ cần có sự định hướng giúp các em lựa chọn các nhóm chơi thích hợp để tăng trưởng theo chiều hướng tích cực.

Ở độ tuổi này, yếu tố vị thế đã được học trò trung học cơ sở mở đầu coi trọng hơn. Các em thường có xu thế mong muốn được thừa nhận, được nhìn nhận tích cực từ các bạn, hay nói cách khác là mong muốn trình bày bản thân. Do vậy, các nhóm sinh hoạt trong nhà trường cần được thiết kế các nội dung sinh hoạt thu hút nhằm mục tiêu giúp các em thỏa mãn các nhu cầu tâm lý xã hội.

Lúc trưởng thành, các em có nhiều điều kiện để tham gia vào nhiều quan hệ xã hội nhiều chủng loại và phức tạp hơn, xuất hiện nhiều vai trò xã hội mới nhưng trước đây các em chưa có. Học trò ở độ tuổi trung học phổ thông bước đầu có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ nhất mực, có năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự.

2. Hoạt động học tập và hoạt động xã hội của học trò trung học phổ thông

Hoạt động học tập của học trò trung học phổ thông đã có sự định hướng nghề nghiệp, vì vậy các em ý thức rõ hơn động cơ học tập của mình. Học trò có xu thế bỏ qua, ít quan tâm tới những môn học ko phục vụ trực tiếp tới mục tiêu thi vào các trường Đại học và Cao đẳng.

Kế bên hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng dần có vai trò lớn hơn. Học trò trung học phổ thông tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Đây cũng là một vấn đề các nhà trường đặc thù quan tâm trong công việc giáo dục học trò một cách toàn diện. Các hoạt động xã hội ko chỉ giúp học trò có sự trưởng thành về ý thức công dân nhưng còn giúp học trò trình bày được các ý kiến, thái độ của bản thân trước các vấn đề xã hội. Do vậy, khuyến khích các hoạt động xã hội tích cực là hình thức hữu hiệu để tăng trưởng và tạo nên tư cách tốt đẹp cho học trò.

3. Ý nghĩa của thời đoạn trung học phổ thông trong toàn thể cuộc đời của tư nhân

Ở thời đoạn này, các em đã có sự trưởng thành về mặt thể chất, tuy nhiên về mặt tư cách chưa có sự tăng trưởng hoàn thiện. Do vậy, học trò chưa hoàn toàn làm chủ được hành vi của bản thân, việc chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội còn hạn chế. Tuy nhiên, các em ở thế hệ này phải đương đầu với những quyết định quan trọng của cuộc đời đó là lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Quả thực, đây là một thử thách lớn đối với mỗi học trò trung học phổ thông, yêu cầu các em phải rất nỗ lực và phấn đấu.

4. Nhận thức và trí tuệ của học trò trung học phổ thông

Trong tâm lý học hiện đại, lý thuyết đa trí tuệ được coi là có cách hiểu đầy đủ và bao quát hơn về trí tuệ.

Theo đó, có nhiều kiểu trí tuệ không giống nhau, bao gồm:

(1) Trí tuệ tiếng nói trình bày khả năng tiếng nói;

(2) Trí tuệ logic trình bày khả năng tư duy logic – khoa học;

(3) Trí tuệ ko gian trình bày khả năng nắm bắt ko gian;

(4) Trí tuệ vận động – sự uyên bác của thân thể;

(5) Trí tuệ tương tác là khả năng tương tác của con người với người khác và xã hội;

(6) Trí tuệ âm nhạc trình bày khả năng âm nhạc;

(7) Trí tuệ nội tâm, đó là khả năng nhận thức bản thân.

Mỗi tư nhân sẽ nổi trội một kiểu trí tuệ không giống nhau, vì vậy các tư nhân sẽ có khả năng hoạt động và thành công ở những lĩnh vực không giống nhau. Cách hiểu này về trí tuệ cho phép nhìn nhận các năng lực nhiều chủng loại của con người, hỗ trợ cách hiểu và tiếp cận nhân văn, từ dó là các tác động nhiều chủng loại kích thích sự tăng trưởng lạ mắt của mỗi tư nhân.

Do vậy, thầy cô giáo lúc thực hiện công việc giảng dạy cần hiểu rõ khả năng trí tuệ của học trò, từ đó xúc tiến sự tăng trưởng năng lực riêng lẻ của mỗi tư nhân. Từ đó, định hướng xác thực việc lựa chọn nghề nghiệp.

Nhận thức của học trò trung học phổ thông có những đặc điểm nổi trội sau:

Thứ nhất, về mặt phạm vi nhận thức.

Phạm vi nhận thức của học trò trung học phổ thông tương đối rộng bao hàm các nội dung như học tập, các vấn đề xã hội, các vấn đề tự nhiên. Tuy nhiên những nhận thức này còn tương đối tản mạn, ít hệ thống.

Thứ hai, tính độc lập, thông minh trình bày rõ nét, điều đó biểu lộ như sau:

– Học trò có thể nhìn nhận, thẩm định, thậm chí phê phán một vấn đề;

– Học trò tạo nên các kỹ năng phát hiện và khắc phục vấn đề;

– Học trò ko tiếp thu tri thức một chiều nhưng có sự nghi ngờ và tính đầy đủ và đúng mực của lời giảng giải. Vì vậy, học trò trung học phổ thông hứng thú tham gia vào việc nghiên cứu khoa học, tạo ra các sáng chế hữu ích cho cuộc sống.

Thứ ba, học trò trung học phổ thông có sự tăng trưởng đạt tới mức cao về trí tuệ. Có thể khẳng định rằng, trí tuệ của học trò trung học phổ thông ngang bằng với một người trưởng thành. Các em ở thế hệ này có những thao tác trí tuệ ở mức cao hơn so với học trò trung học cơ sở. Các em có khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, đặc thù là thao tác trừu tượng hóa và nói chung hóa ở mức cao. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của học trò ở thế hệ này chưa tăng trưởng một cách toàn diện và đầy đủ.

Thứ tư, sự tăng trưởng trí tuệ của học trò trung học phổ thông có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực thông minh. Như đã nói ở trên, sự tăng trưởng về trí tuệ của các em đã đạt tới mức độ cao hơn. Trí tuệ tăng trưởng mạnh dẫn tới kích thích trí tò mò và óc thông minh của các em. Do vậy, thầy cô giáo cần nắm bắt được đặc điểm tăng trưởng trí tuệ này của học trò, từ đó phát huy tối đa năng lực của các em.

5. Đời sống tình cảm và ý chí của học trò trung học phổ thông

5.1. Đời sống tình cảm của học trò trung học phổ thông

Là môt thầy cô giáo trung học phổ thông, tôi nhận thức rõ rằng, bản thân cần nắm được nhưng đặc điểm tâm lý trong đời sống tình cảm, ý chí của học trò để có thái độ và cách xử sự đúng mực với các em.

Đời sống tình cảm ở trung học phổ thông mở đầu xuất hiện những nét mới lạ và phức tạp hơn. Các quan hệ tình cảm rộng rãi ở thế hệ này ở mức độ cao hơn, chẳng hạn như tình bạn hoặc tình yêu.

Ở độ tuổi từ 15-18, các em có sự tăng trưởng về sinh lý với một số biểu lộ như dậy thì, thay đổi hooc môn, thiếu niên có xu thế tăng hung phấn nhẹ hoặc căng thẳng xúc cảm. Tuy nhiên, sự thay đổi về tình cảm ở mỗi học trò lại không giống nhau. Trong lúc hầu hết các em đều dễ rung cảm trước hành vi đạo đức của người khác thì có một số em lại có thái độ dửng dung với các sự việc xung quanh. Đó chính là kết quả giáo dục ở các bậc học trước. Sự tăng trưởng về sinh lý dẫn tới sự thay đổi nhất mực về tâm lý. Thế hệ thiếu niên, các em có nhu cầu tình cảm lớn hơn so với thế hệ trước. Nhu cầu tình cảm của các em vô cùng nhiều chủng loại chẳng hạn như tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm trách nhiệm, lòng yêu nước, tình bạn, tình yêu,…. Những tình cảm này được các em bộ lộ một cách rõ ràng. Ở các em cũng tạo nên những ý kiến rắn rỏi và biết cách trình bày bản thân. Các em ko chỉ chứng minh bản thân thông qua vẻ đẹp bên ngoài của tư nhân, nhưng còn trình bày bản thân thông qua nét đẹp về đạo đức và trí tuệ. Hơn cả, ở thế hệ này các em còn tạo nên những ý kiến sống riêng lẻ, biết bảo vệ lẽ phải và cái đẹp; phê phán những điều sai trái.

Tình bạn là một dạng tình giác quan trọng và ko thể thiếu ở bất kỳ độ tuổi nào. Khác với các thế hệ khác, tình bạn của học trò trung học phổ thông tăng trưởng mạnh trên cả ba phương diện, đó là mức độ lựa chọn, độ vững bền và độ thân thiết. Việc lựa chọn bạn hữu của các em ko chỉ bị chi phối bởi thị hiếu nhưng bắt nguồn từ sự tương đồng về mục tiêu sống và hoàn cảnh sống. Thông thường định hướng của các nhóm bạn học trò trung học phổ thông tăng trưởng theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Có một số nhóm bạn cùng nỗ lực học tập, theo đuổi ước mơ nhưng một số nhóm khác lại hướng tới việc ăn chơi, học đòi thậm chí lâm vào các tệ nạn xã hội. Do vậy, gia đình và nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ để định hướng sự tăng trưởng cho từng tư nhân, từ đó tạo điều kiện cho các em cùng tăng trưởng trở thành một công dân có ích cho xã hội. Nhờ vào việc các em có xu thế lựa chọn bạn hữu kỹ lưỡng hơn đã tạo nên các mối quan hệ bạn hữu ổn định và vững bền.

Sự tăng trưởng về sinh lý tạo nên sự phân biệt rõ ràng về giới tính. Chính sự khác lạ đó làm cho các em bước đầu tạo nên những xúc cảm nhất mực với người khác giới. Tình cảm đó được gọi là tình yêu. Có thể khẳng định rằng, tình yêu ở tuổi trung học phổ thông là một thế tất của sự tăng trưởng về thân thể, thể chất và xã hội. Học trò ở thế hệ này có nhu cầu được san sớt, được mến thương và được quan tâm. Tình yêu ở thế hệ trung học phổ thông rất thuần tuý và trong sáng. Tình yêu có thể thay đổi các em theo chiều hướng tốt đẹp như tạo nên các kỹ năng san sớt, biết cách mến thương, quan tâm, thông cảm và tương trợ người khác. Nắm bắt được tâm lý này, thầy cô giáo và phụ huynh cần có định hướng và lời khuyên thích hợp, một mặt cần tôn trọng tình cảm của các em mặt khác cần quan tâm sâu sát để các em tương trợ nhau học tập và rèn luyện.

5.2. Đặc điểm ý chí của học trò trung học phổ thông

Ở tuổi này, hồ hết các em có xu thế bộc lộ rõ nét tư cách và phẩm chất ý chí, cường độ ý chí tăng trưởng ở mức độ cao hơn. Điều đó được trình bày qua một số biểu lộ sau:

Thứ nhất, các em nỗ lực hết mình để đạt được ước mơ, hoài bão của bản thân. Nhiều học trò có điều kiện gia đình khó khăn hoặc thành tích học tập yếu, nhưng lúc đã có được ước mơ hoài bão của riêng mình đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, các em có định hướng rõ ràng trong lựa chọn nghề nghiệp. Các em biết đặt mục tiêu, lên kế hoạch, lựa chọn nghề nghiệp thích hợp với khả năng của mình

Tuy nhiên, kế bên các em học trò có ý chí học tập, ý chí quyết tâm cao vẫn tồn tạt các em học trò thụ động và ko có định hướng. Trên thực tiễn, nhiều em học trò bị lôi kéo vào các nhóm tiêu cức, ko tuân thủ nội quy trường lớp, các chuẩn mức đạo đức, thậm chí ngành ngược, chống đối.

Với vai trò là người cố vấn, thầy cô giáo cần nắm rõ đặc điểm tâm lý của từng học trò từ đó phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu của mỗi cá nhẫn

6. Đặc điểm tư cách của học trò trung học phổ thông

Đặc điểm tư cách của học trò trung học phổ thông có bước đầu tạo nên khả năng tự ý thức và tạo nên “cái tôi”.

Tự ý thức là khả năng học trò trung học phổ thông tự tách ra khỏi bản thân, lấy bản thân mình ra làm nhân vật để nhận thức để thẩm định, từ đó tạo nên nên biểu tượng nói chung về chính bản thân. Học trò trung học phổ thông có thể tự nhận thức bản thân và tạo nên hình ảnh của bản thân ở nhiều phương diện như bên ngoài, bên trong, thân thể, năng lực, phẩm chất,… Việc tự ý thức của học trò trung học phổ thông mở đầu bằng việc có sự đối chiếu bản thân với các chuẩn mực xã hội và tạo nên các ý kiến tư nhân. Từ đó, mong muốn bản thân mình tốt hơn.

Tuy nhiên, quá trình tạo nên tư cách bao gồm cả việc tạo nên cái tôi. Cái tôi được hiểu là những tính chất tư nhân và tâm thế xã hội bao gồm nhận thức về bản thân, xúc cảm với bản thân và hành vi – thái độ thực tiễn với bản thân.

Tương tự, ta thấy rằng học trò trung học phổ thông có những đặc điểm tâm sinh lý vô cùng riêng lẻ. Chính vậy, thầy cô giáo cần có thái độ tôn trọng, nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lý học trò. Từ đó, khích lệ học trò nỗ lực học tập, phấn đấu rèn luyện, nhằm trang bị cho các em đầy đủ hành trang vững bước vào đời.

Tải (download) Mẫu Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

Download Tại Đây

->>> Tham khảo thêm : Lịch thi tốt nghiệp THPT quốc gia 2021

xem thêm thông tin chi tiết về
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

Hình Ảnh về:
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

Video về:
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

Wiki về
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1


Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

 

BỘ GD-ĐT

TRƯỜNG………………

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

BÀI THU HOẠCH

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN

Module 01 – THPT:  Đặc điểm tâm lý của học trò trung học phổ thông

Năm học: …………..

Họ và tên: …………………………………………………………………………………….

Đơn vị: ………………………………………………………………………………………..

Ở mỗi độ tuổi không giống nhau thì đặc điểm tâm sinh lý cũng có sự khác biết rõ rệt. Việc hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý thế hệ sẽ góp phần xúc tiến sự tăng trưởng của chất lượng giáo dục, nhưng trong đó thầy cô giáo là yếu tố quan trọng nhất. Hiểu được điều đó, các đơn vị quản lý quản lý giáo dục đã tạo điều kiện cho thầy cô giáo được học tập module bồi dưỡng thường xuyên số 1. Với sự chỉ bảo tận tình của thầy cô bản thân tôi đã tiếp thu được nhiều tri thức hữu ích và rút ra bài học cho bản thân.

1.Quá trình tăng trưởng tâm lý tư nhân của học trò trung học phổ thông

 Tâm lý học phân chia toàn thể quá trình tăng trưởng tâm lý tư nhân thành các thời ký (hay các thời đoạn), mỗi thời đoạn được xác định bởi các dấu mốc tương đối về thời kì.

 Học trò trung học phổ thông là thời đoạn cuối của tuổi vị thành niên. Để tìm ra các giải pháp tăng trưởng năng lực hiểu biết, cần hiểu rõ hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng. Hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng được hiểu là tổ hợp các mối quan hệ và tính chất các mối quan hệ mới nhưng trẻ tham gia vào cũng như tính chất của sự tương tác giữa trẻ với các quan hệ xã hội[1]. Ở thời kỳ tăng trưởng trung học phổ thông, hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng được trình bày qua các mối quan hệ. Ở thế hệ này, các mối quan hệ phổ biển của tư nhân đó là quan hệ gia đình, quan hệ bạn hữu, quan hệ thầy trò và các mối quan hệ xã hội khác. Tùy theo sự tương tác của học trò và các chủ thể, hoàn cảnh xã hôi vừa xúc tiến sự tăng trưởng hoặc làm phát sinh các trở ngại đối với sự tăng trưởng. Hoàn cảnh xã hội tác động tới thế hệ học trò trung học phổ thông có tính mở, sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội. Thế hệ học trò, có sự trưởng thành nhất mực về nhận thức, do đó các quan hệ trở thành thuận tiện hơn.  Học trò trung học phổ thông vừa có sự độc lập nhất mực trong tư duy, trong đối nhân xử thế, tuy nhiên các em vẫn còn phụ thuộc vào gia đình về mặt kinh tế. Trong thế hệ này, các em luôn mong muốn được tôn trọng và lắng tai. Do vậy, cha mẹ cần có sự tin tưởng vào các em, tạo điều kiện cho các em được đưa ra các quyết định như lựa chọn nghề nghiệp, học hành, tình cảm. Sự tôn trọng của cha mẹ sẽ tạo điều kiện cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trở thành tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn cần có sự thẳng thắn, giúp các em nhận thức đúng sai để các em có thể hoàn thiện hơn nữa.

Trong quan hệ bạn hữu, học trò trung học phổ thông có mối quan hệ rộng rãi và có nhiều nhóm bạn nhiều chủng loại hơn. Các nhóm tạo nên dựa trên những điểm chung về thị hiếu, sự san sớt và đồng cảm với nhau. Tuy nhiên ở thế hệ này, cha mẹ cần có sự định hướng giúp các em lựa chọn các nhóm chơi thích hợp để tăng trưởng theo chiều hướng tích cực.

Ở độ tuổi này, yếu tố vị thế đã được học trò trung học cơ sở mở đầu coi trọng hơn. Các em thường có xu thế mong muốn được thừa nhận, được nhìn nhận tích cực từ các bạn, hay nói cách khác là mong muốn trình bày bản thân. Do vậy, các nhóm sinh hoạt trong nhà trường cần được thiết kế các nội dung sinh hoạt thu hút nhằm mục tiêu giúp các em thỏa mãn các nhu cầu tâm lý xã hội.

Lúc trưởng thành, các em có nhiều điều kiện để tham gia vào nhiều quan hệ xã hội nhiều chủng loại và phức tạp hơn, xuất hiện nhiều vai trò xã hội mới nhưng trước đây các em chưa có. Học trò ở độ tuổi trung học phổ thông bước đầu có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ nhất mực, có năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự.

2. Hoạt động học tập và hoạt động xã hội của học trò trung học phổ thông

Hoạt động học tập của học trò trung học phổ thông đã có sự định hướng nghề nghiệp, vì vậy các em ý thức rõ hơn động cơ học tập của mình. Học trò có xu thế bỏ qua, ít quan tâm tới những môn học ko phục vụ trực tiếp tới mục tiêu thi vào các trường Đại học và Cao đẳng.

Kế bên hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng dần có vai trò lớn hơn. Học trò trung học phổ thông tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Đây cũng là một vấn đề các nhà trường đặc thù quan tâm trong công việc giáo dục học trò một cách toàn diện. Các hoạt động xã hội ko chỉ giúp học trò có sự trưởng thành về ý thức công dân nhưng còn giúp học trò trình bày được các ý kiến, thái độ của bản thân trước các vấn đề xã hội. Do vậy, khuyến khích các hoạt động xã hội tích cực là hình thức hữu hiệu để tăng trưởng và tạo nên tư cách tốt đẹp cho học trò.

3. Ý nghĩa của thời đoạn trung học phổ thông trong toàn thể cuộc đời của tư nhân

Ở thời đoạn này, các em đã có sự trưởng thành về mặt thể chất, tuy nhiên về mặt tư cách chưa có sự tăng trưởng hoàn thiện. Do vậy, học trò chưa hoàn toàn làm chủ được hành vi của bản thân, việc chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội còn hạn chế. Tuy nhiên, các em ở thế hệ này phải đương đầu với những quyết định quan trọng của cuộc đời đó là lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Quả thực, đây là một thử thách lớn đối với mỗi học trò trung học phổ thông, yêu cầu các em phải rất nỗ lực và phấn đấu.

4. Nhận thức và trí tuệ của học trò trung học phổ thông

Trong tâm lý học hiện đại, lý thuyết đa trí tuệ được coi là có cách hiểu đầy đủ và bao quát hơn về trí tuệ.

Theo đó, có nhiều kiểu trí tuệ không giống nhau, bao gồm:

(1) Trí tuệ tiếng nói trình bày khả năng tiếng nói;

(2) Trí tuệ logic trình bày khả năng tư duy logic – khoa học;

(3) Trí tuệ ko gian trình bày khả năng nắm bắt ko gian;

(4) Trí tuệ vận động – sự uyên bác của thân thể;

(5) Trí tuệ tương tác là khả năng tương tác của con người với người khác và xã hội;

(6) Trí tuệ âm nhạc trình bày khả năng âm nhạc;

(7) Trí tuệ nội tâm, đó là khả năng nhận thức bản thân.

Mỗi tư nhân sẽ nổi trội một kiểu trí tuệ không giống nhau, vì vậy các tư nhân sẽ có khả năng hoạt động và thành công ở những lĩnh vực không giống nhau. Cách hiểu này về trí tuệ cho phép nhìn nhận các năng lực nhiều chủng loại của con người, hỗ trợ cách hiểu và tiếp cận nhân văn, từ dó là các tác động nhiều chủng loại kích thích sự tăng trưởng lạ mắt của mỗi tư nhân.

Do vậy, thầy cô giáo lúc thực hiện công việc giảng dạy cần hiểu rõ khả năng trí tuệ của học trò, từ đó xúc tiến sự tăng trưởng năng lực riêng lẻ của mỗi tư nhân. Từ đó, định hướng xác thực việc lựa chọn nghề nghiệp.

Nhận thức của học trò trung học phổ thông có những đặc điểm nổi trội sau:

Thứ nhất, về mặt phạm vi nhận thức.

Phạm vi nhận thức của học trò trung học phổ thông tương đối rộng bao hàm các nội dung như học tập, các vấn đề xã hội, các vấn đề tự nhiên. Tuy nhiên những nhận thức này còn tương đối tản mạn, ít hệ thống.

Thứ hai, tính độc lập, thông minh trình bày rõ nét, điều đó biểu lộ như sau:

– Học trò có thể nhìn nhận, thẩm định, thậm chí phê phán một vấn đề;

– Học trò tạo nên các kỹ năng phát hiện và khắc phục vấn đề;

– Học trò ko tiếp thu tri thức một chiều nhưng có sự nghi ngờ và tính đầy đủ và đúng mực của lời giảng giải. Vì vậy, học trò trung học phổ thông hứng thú tham gia vào việc nghiên cứu khoa học, tạo ra các sáng chế hữu ích cho cuộc sống.

Thứ ba, học trò trung học phổ thông có sự tăng trưởng đạt tới mức cao về trí tuệ. Có thể khẳng định rằng, trí tuệ của học trò trung học phổ thông ngang bằng với một người trưởng thành. Các em ở thế hệ này có những thao tác trí tuệ ở mức cao hơn so với học trò trung học cơ sở. Các em có khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, đặc thù là thao tác trừu tượng hóa và nói chung hóa ở mức cao. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của học trò ở thế hệ này chưa tăng trưởng một cách toàn diện và đầy đủ.

Thứ tư, sự tăng trưởng trí tuệ của học trò trung học phổ thông có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực thông minh. Như đã nói ở trên, sự tăng trưởng về trí tuệ của các em đã đạt tới mức độ cao hơn. Trí tuệ tăng trưởng mạnh dẫn tới kích thích trí tò mò và óc thông minh của các em. Do vậy, thầy cô giáo cần nắm bắt được đặc điểm tăng trưởng trí tuệ này của học trò, từ đó phát huy tối đa năng lực của các em.

5. Đời sống tình cảm và ý chí của học trò trung học phổ thông

5.1. Đời sống tình cảm của học trò trung học phổ thông

Là môt thầy cô giáo trung học phổ thông, tôi nhận thức rõ rằng, bản thân cần nắm được nhưng đặc điểm tâm lý trong đời sống tình cảm, ý chí của học trò để có thái độ và cách xử sự đúng mực với các em.

Đời sống tình cảm ở trung học phổ thông mở đầu xuất hiện những nét mới lạ và phức tạp hơn. Các quan hệ tình cảm rộng rãi ở thế hệ này ở mức độ cao hơn, chẳng hạn như tình bạn hoặc tình yêu.

Ở độ tuổi từ 15-18, các em có sự tăng trưởng về sinh lý với một số biểu lộ như dậy thì, thay đổi hooc môn, thiếu niên có xu thế tăng hung phấn nhẹ hoặc căng thẳng xúc cảm. Tuy nhiên, sự thay đổi về tình cảm ở mỗi học trò lại không giống nhau. Trong lúc hầu hết các em đều dễ rung cảm trước hành vi đạo đức của người khác thì có một số em lại có thái độ dửng dung với các sự việc xung quanh. Đó chính là kết quả giáo dục ở các bậc học trước. Sự tăng trưởng về sinh lý dẫn tới sự thay đổi nhất mực về tâm lý. Thế hệ thiếu niên, các em có nhu cầu tình cảm lớn hơn so với thế hệ trước. Nhu cầu tình cảm của các em vô cùng nhiều chủng loại chẳng hạn như tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm trách nhiệm, lòng yêu nước, tình bạn, tình yêu,…. Những tình cảm này được các em bộ lộ một cách rõ ràng. Ở các em cũng tạo nên những ý kiến rắn rỏi và biết cách trình bày bản thân. Các em ko chỉ chứng minh bản thân thông qua vẻ đẹp bên ngoài của tư nhân, nhưng còn trình bày bản thân thông qua nét đẹp về đạo đức và trí tuệ. Hơn cả, ở thế hệ này các em còn tạo nên những ý kiến sống riêng lẻ, biết bảo vệ lẽ phải và cái đẹp; phê phán những điều sai trái.

Tình bạn là một dạng tình giác quan trọng và ko thể thiếu ở bất kỳ độ tuổi nào. Khác với các thế hệ khác, tình bạn của học trò trung học phổ thông tăng trưởng mạnh trên cả ba phương diện, đó là mức độ lựa chọn, độ vững bền và độ thân thiết. Việc lựa chọn bạn hữu của các em ko chỉ bị chi phối bởi thị hiếu nhưng bắt nguồn từ sự tương đồng về mục tiêu sống và hoàn cảnh sống. Thông thường định hướng của các nhóm bạn học trò trung học phổ thông tăng trưởng theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Có một số nhóm bạn cùng nỗ lực học tập, theo đuổi ước mơ nhưng một số nhóm khác lại hướng tới việc ăn chơi, học đòi thậm chí lâm vào các tệ nạn xã hội. Do vậy, gia đình và nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ để định hướng sự tăng trưởng cho từng tư nhân, từ đó tạo điều kiện cho các em cùng tăng trưởng trở thành một công dân có ích cho xã hội. Nhờ vào việc các em có xu thế lựa chọn bạn hữu kỹ lưỡng hơn đã tạo nên các mối quan hệ bạn hữu ổn định và vững bền.

Sự tăng trưởng về sinh lý tạo nên sự phân biệt rõ ràng về giới tính. Chính sự khác lạ đó làm cho các em bước đầu tạo nên những xúc cảm nhất mực với người khác giới. Tình cảm đó được gọi là tình yêu. Có thể khẳng định rằng, tình yêu ở tuổi trung học phổ thông là một thế tất của sự tăng trưởng về thân thể, thể chất và xã hội. Học trò ở thế hệ này có nhu cầu được san sớt, được mến thương và được quan tâm. Tình yêu ở thế hệ trung học phổ thông rất thuần tuý và trong sáng. Tình yêu có thể thay đổi các em theo chiều hướng tốt đẹp như tạo nên các kỹ năng san sớt, biết cách mến thương, quan tâm, thông cảm và tương trợ người khác. Nắm bắt được tâm lý này, thầy cô giáo và phụ huynh cần có định hướng và lời khuyên thích hợp, một mặt cần tôn trọng tình cảm của các em mặt khác cần quan tâm sâu sát để các em tương trợ nhau học tập và rèn luyện.

5.2. Đặc điểm ý chí của học trò trung học phổ thông

Ở tuổi này, hồ hết các em có xu thế bộc lộ rõ nét tư cách và phẩm chất ý chí, cường độ ý chí tăng trưởng ở mức độ cao hơn. Điều đó được trình bày qua một số biểu lộ sau:

Thứ nhất, các em nỗ lực hết mình để đạt được ước mơ, hoài bão của bản thân. Nhiều học trò có điều kiện gia đình khó khăn hoặc thành tích học tập yếu, nhưng lúc đã có được ước mơ hoài bão của riêng mình đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, các em có định hướng rõ ràng trong lựa chọn nghề nghiệp. Các em biết đặt mục tiêu, lên kế hoạch, lựa chọn nghề nghiệp thích hợp với khả năng của mình

Tuy nhiên, kế bên các em học trò có ý chí học tập, ý chí quyết tâm cao vẫn tồn tạt các em học trò thụ động và ko có định hướng. Trên thực tiễn, nhiều em học trò bị lôi kéo vào các nhóm tiêu cức, ko tuân thủ nội quy trường lớp, các chuẩn mức đạo đức, thậm chí ngành ngược, chống đối.

Với vai trò là người cố vấn, thầy cô giáo cần nắm rõ đặc điểm tâm lý của từng học trò từ đó phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu của mỗi cá nhẫn

6. Đặc điểm tư cách của học trò trung học phổ thông

Đặc điểm tư cách của học trò trung học phổ thông có bước đầu tạo nên khả năng tự ý thức và tạo nên “cái tôi”.

Tự ý thức là khả năng học trò trung học phổ thông tự tách ra khỏi bản thân, lấy bản thân mình ra làm nhân vật để nhận thức để thẩm định, từ đó tạo nên nên biểu tượng nói chung về chính bản thân. Học trò trung học phổ thông có thể tự nhận thức bản thân và tạo nên hình ảnh của bản thân ở nhiều phương diện như bên ngoài, bên trong, thân thể, năng lực, phẩm chất,… Việc tự ý thức của học trò trung học phổ thông mở đầu bằng việc có sự đối chiếu bản thân với các chuẩn mực xã hội và tạo nên các ý kiến tư nhân. Từ đó, mong muốn bản thân mình tốt hơn.

Tuy nhiên, quá trình tạo nên tư cách bao gồm cả việc tạo nên cái tôi. Cái tôi được hiểu là những tính chất tư nhân và tâm thế xã hội bao gồm nhận thức về bản thân, xúc cảm với bản thân và hành vi – thái độ thực tiễn với bản thân.

Tương tự, ta thấy rằng học trò trung học phổ thông có những đặc điểm tâm sinh lý vô cùng riêng lẻ. Chính vậy, thầy cô giáo cần có thái độ tôn trọng, nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lý học trò. Từ đó, khích lệ học trò nỗ lực học tập, phấn đấu rèn luyện, nhằm trang bị cho các em đầy đủ hành trang vững bước vào đời.

Tải (download) Mẫu Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

Download Tại Đây

->>> Tham khảo thêm : Lịch thi tốt nghiệp THPT quốc gia 2021

[rule_{ruleNumber}]

. Ở thời kỳ tăng trưởng trung học phổ thông, hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng được trình bày qua các mối quan hệ. Ở thế hệ này, các mối quan hệ phổ biển của tư nhân đó là quan hệ gia đình, quan hệ bạn hữu, quan hệ thầy trò và các mối quan hệ xã hội khác. Tùy theo sự tương tác của học trò và các chủ thể, hoàn cảnh xã hôi vừa xúc tiến sự tăng trưởng hoặc làm phát sinh các trở ngại đối với sự tăng trưởng. Hoàn cảnh xã hội tác động tới thế hệ học trò trung học phổ thông có tính mở, sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội. Thế hệ học trò, có sự trưởng thành nhất mực về nhận thức, do đó các quan hệ trở thành thuận tiện hơn.  Học trò trung học phổ thông vừa có sự độc lập nhất mực trong tư duy, trong đối nhân xử thế, tuy nhiên các em vẫn còn phụ thuộc vào gia đình về mặt kinh tế. Trong thế hệ này, các em luôn mong muốn được tôn trọng và lắng tai. Do vậy, cha mẹ cần có sự tin tưởng vào các em, tạo điều kiện cho các em được đưa ra các quyết định như lựa chọn nghề nghiệp, học hành, tình cảm. Sự tôn trọng của cha mẹ sẽ tạo điều kiện cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trở thành tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn cần có sự thẳng thắn, giúp các em nhận thức đúng sai để các em có thể hoàn thiện hơn nữa.

. Ở thời kỳ tăng trưởng trung học phổ thông, hoàn cảnh xã hội của sự tăng trưởng được trình bày qua các mối quan hệ. Ở thế hệ này, các mối quan hệ phổ biển của tư nhân đó là quan hệ gia đình, quan hệ bạn hữu, quan hệ thầy trò và các mối quan hệ xã hội khác. Tùy theo sự tương tác của học trò và các chủ thể, hoàn cảnh xã hôi vừa xúc tiến sự tăng trưởng hoặc làm phát sinh các trở ngại đối với sự tăng trưởng. Hoàn cảnh xã hội tác động tới thế hệ học trò trung học phổ thông có tính mở, sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội. Thế hệ học trò, có sự trưởng thành nhất mực về nhận thức, do đó các quan hệ trở thành thuận tiện hơn. Học trò trung học phổ thông vừa có sự độc lập nhất mực trong tư duy, trong đối nhân xử thế, tuy nhiên các em vẫn còn phụ thuộc vào gia đình về mặt kinh tế. Trong thế hệ này, các em luôn mong muốn được tôn trọng và lắng tai. Do vậy, cha mẹ cần có sự tin tưởng vào các em, tạo điều kiện cho các em được đưa ra các quyết định như lựa chọn nghề nghiệp, học hành, tình cảm. Sự tôn trọng của cha mẹ sẽ tạo điều kiện cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trở thành tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn cần có sự thẳng thắn, giúp các em nhận thức đúng sai để các em có thể hoàn thiện hơn nữa.

Trong quan hệ bạn hữu, học trò trung học phổ thông có mối quan hệ rộng rãi và có nhiều nhóm bạn nhiều chủng loại hơn. Các nhóm tạo nên dựa trên những điểm chung về thị hiếu, sự san sớt và đồng cảm với nhau. Tuy nhiên ở thế hệ này, cha mẹ cần có sự định hướng giúp các em lựa chọn các nhóm chơi thích hợp để tăng trưởng theo chiều hướng tích cực.

Ở độ tuổi này, yếu tố vị thế đã được học trò trung học cơ sở mở đầu coi trọng hơn. Các em thường có xu thế mong muốn được thừa nhận, được nhìn nhận tích cực từ các bạn, hay nói cách khác là mong muốn trình bày bản thân. Do vậy, các nhóm sinh hoạt trong nhà trường cần được thiết kế các nội dung sinh hoạt thu hút nhằm mục tiêu giúp các em thỏa mãn các nhu cầu tâm lý xã hội.

Lúc trưởng thành, các em có nhiều điều kiện để tham gia vào nhiều quan hệ xã hội nhiều chủng loại và phức tạp hơn, xuất hiện nhiều vai trò xã hội mới nhưng trước đây các em chưa có. Học trò ở độ tuổi trung học phổ thông bước đầu có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ nhất mực, có năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự.

2. Hoạt động học tập và hoạt động xã hội của học trò trung học phổ thông

Hoạt động học tập của học trò trung học phổ thông đã có sự định hướng nghề nghiệp, vì vậy các em ý thức rõ hơn động cơ học tập của mình. Học trò có xu thế bỏ qua, ít quan tâm tới những môn học ko phục vụ trực tiếp tới mục tiêu thi vào các trường Đại học và Cao đẳng.

Kế bên hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng dần có vai trò lớn hơn. Học trò trung học phổ thông tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Đây cũng là một vấn đề các nhà trường đặc thù quan tâm trong công việc giáo dục học trò một cách toàn diện. Các hoạt động xã hội ko chỉ giúp học trò có sự trưởng thành về ý thức công dân nhưng còn giúp học trò trình bày được các ý kiến, thái độ của bản thân trước các vấn đề xã hội. Do vậy, khuyến khích các hoạt động xã hội tích cực là hình thức hữu hiệu để tăng trưởng và tạo nên tư cách tốt đẹp cho học trò.

3. Ý nghĩa của thời đoạn trung học phổ thông trong toàn thể cuộc đời của tư nhân

Ở thời đoạn này, các em đã có sự trưởng thành về mặt thể chất, tuy nhiên về mặt tư cách chưa có sự tăng trưởng hoàn thiện. Do vậy, học trò chưa hoàn toàn làm chủ được hành vi của bản thân, việc chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội còn hạn chế. Tuy nhiên, các em ở thế hệ này phải đương đầu với những quyết định quan trọng của cuộc đời đó là lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Quả thực, đây là một thử thách lớn đối với mỗi học trò trung học phổ thông, yêu cầu các em phải rất nỗ lực và phấn đấu.

4. Nhận thức và trí tuệ của học trò trung học phổ thông

Trong tâm lý học hiện đại, lý thuyết đa trí tuệ được coi là có cách hiểu đầy đủ và bao quát hơn về trí tuệ.

Theo đó, có nhiều kiểu trí tuệ không giống nhau, bao gồm:

(1) Trí tuệ tiếng nói trình bày khả năng tiếng nói;

(2) Trí tuệ logic trình bày khả năng tư duy logic – khoa học;

(3) Trí tuệ ko gian trình bày khả năng nắm bắt ko gian;

(4) Trí tuệ vận động – sự uyên bác của thân thể;

(5) Trí tuệ tương tác là khả năng tương tác của con người với người khác và xã hội;

(6) Trí tuệ âm nhạc trình bày khả năng âm nhạc;

(7) Trí tuệ nội tâm, đó là khả năng nhận thức bản thân.

Mỗi tư nhân sẽ nổi trội một kiểu trí tuệ không giống nhau, vì vậy các tư nhân sẽ có khả năng hoạt động và thành công ở những lĩnh vực không giống nhau. Cách hiểu này về trí tuệ cho phép nhìn nhận các năng lực nhiều chủng loại của con người, hỗ trợ cách hiểu và tiếp cận nhân văn, từ dó là các tác động nhiều chủng loại kích thích sự tăng trưởng lạ mắt của mỗi tư nhân.

Do vậy, thầy cô giáo lúc thực hiện công việc giảng dạy cần hiểu rõ khả năng trí tuệ của học trò, từ đó xúc tiến sự tăng trưởng năng lực riêng lẻ của mỗi tư nhân. Từ đó, định hướng xác thực việc lựa chọn nghề nghiệp.

Nhận thức của học trò trung học phổ thông có những đặc điểm nổi trội sau:

Thứ nhất, về mặt phạm vi nhận thức.

Phạm vi nhận thức của học trò trung học phổ thông tương đối rộng bao hàm các nội dung như học tập, các vấn đề xã hội, các vấn đề tự nhiên. Tuy nhiên những nhận thức này còn tương đối tản mạn, ít hệ thống.

Thứ hai, tính độc lập, thông minh trình bày rõ nét, điều đó biểu lộ như sau:

– Học trò có thể nhìn nhận, thẩm định, thậm chí phê phán một vấn đề;

– Học trò tạo nên các kỹ năng phát hiện và khắc phục vấn đề;

– Học trò ko tiếp thu tri thức một chiều nhưng có sự nghi ngờ và tính đầy đủ và đúng mực của lời giảng giải. Vì vậy, học trò trung học phổ thông hứng thú tham gia vào việc nghiên cứu khoa học, tạo ra các sáng chế hữu ích cho cuộc sống.

Thứ ba, học trò trung học phổ thông có sự tăng trưởng đạt tới mức cao về trí tuệ. Có thể khẳng định rằng, trí tuệ của học trò trung học phổ thông ngang bằng với một người trưởng thành. Các em ở thế hệ này có những thao tác trí tuệ ở mức cao hơn so với học trò trung học cơ sở. Các em có khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, đặc thù là thao tác trừu tượng hóa và nói chung hóa ở mức cao. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của học trò ở thế hệ này chưa tăng trưởng một cách toàn diện và đầy đủ.

Thứ tư, sự tăng trưởng trí tuệ của học trò trung học phổ thông có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực thông minh. Như đã nói ở trên, sự tăng trưởng về trí tuệ của các em đã đạt tới mức độ cao hơn. Trí tuệ tăng trưởng mạnh dẫn tới kích thích trí tò mò và óc thông minh của các em. Do vậy, thầy cô giáo cần nắm bắt được đặc điểm tăng trưởng trí tuệ này của học trò, từ đó phát huy tối đa năng lực của các em.

5. Đời sống tình cảm và ý chí của học trò trung học phổ thông

5.1. Đời sống tình cảm của học trò trung học phổ thông

Là môt thầy cô giáo trung học phổ thông, tôi nhận thức rõ rằng, bản thân cần nắm được nhưng đặc điểm tâm lý trong đời sống tình cảm, ý chí của học trò để có thái độ và cách xử sự đúng mực với các em.

Đời sống tình cảm ở trung học phổ thông mở đầu xuất hiện những nét mới lạ và phức tạp hơn. Các quan hệ tình cảm rộng rãi ở thế hệ này ở mức độ cao hơn, chẳng hạn như tình bạn hoặc tình yêu.

Ở độ tuổi từ 15-18, các em có sự tăng trưởng về sinh lý với một số biểu lộ như dậy thì, thay đổi hooc môn, thiếu niên có xu thế tăng hung phấn nhẹ hoặc căng thẳng xúc cảm. Tuy nhiên, sự thay đổi về tình cảm ở mỗi học trò lại không giống nhau. Trong lúc hầu hết các em đều dễ rung cảm trước hành vi đạo đức của người khác thì có một số em lại có thái độ dửng dung với các sự việc xung quanh. Đó chính là kết quả giáo dục ở các bậc học trước. Sự tăng trưởng về sinh lý dẫn tới sự thay đổi nhất mực về tâm lý. Thế hệ thiếu niên, các em có nhu cầu tình cảm lớn hơn so với thế hệ trước. Nhu cầu tình cảm của các em vô cùng nhiều chủng loại chẳng hạn như tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm trách nhiệm, lòng yêu nước, tình bạn, tình yêu,…. Những tình cảm này được các em bộ lộ một cách rõ ràng. Ở các em cũng tạo nên những ý kiến rắn rỏi và biết cách trình bày bản thân. Các em ko chỉ chứng minh bản thân thông qua vẻ đẹp bên ngoài của tư nhân, nhưng còn trình bày bản thân thông qua nét đẹp về đạo đức và trí tuệ. Hơn cả, ở thế hệ này các em còn tạo nên những ý kiến sống riêng lẻ, biết bảo vệ lẽ phải và cái đẹp; phê phán những điều sai trái.

Tình bạn là một dạng tình giác quan trọng và ko thể thiếu ở bất kỳ độ tuổi nào. Khác với các thế hệ khác, tình bạn của học trò trung học phổ thông tăng trưởng mạnh trên cả ba phương diện, đó là mức độ lựa chọn, độ vững bền và độ thân thiết. Việc lựa chọn bạn hữu của các em ko chỉ bị chi phối bởi thị hiếu nhưng bắt nguồn từ sự tương đồng về mục tiêu sống và hoàn cảnh sống. Thông thường định hướng của các nhóm bạn học trò trung học phổ thông tăng trưởng theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Có một số nhóm bạn cùng nỗ lực học tập, theo đuổi ước mơ nhưng một số nhóm khác lại hướng tới việc ăn chơi, học đòi thậm chí lâm vào các tệ nạn xã hội. Do vậy, gia đình và nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ để định hướng sự tăng trưởng cho từng tư nhân, từ đó tạo điều kiện cho các em cùng tăng trưởng trở thành một công dân có ích cho xã hội. Nhờ vào việc các em có xu thế lựa chọn bạn hữu kỹ lưỡng hơn đã tạo nên các mối quan hệ bạn hữu ổn định và vững bền.

Sự tăng trưởng về sinh lý tạo nên sự phân biệt rõ ràng về giới tính. Chính sự khác lạ đó làm cho các em bước đầu tạo nên những xúc cảm nhất mực với người khác giới. Tình cảm đó được gọi là tình yêu. Có thể khẳng định rằng, tình yêu ở tuổi trung học phổ thông là một thế tất của sự tăng trưởng về thân thể, thể chất và xã hội. Học trò ở thế hệ này có nhu cầu được san sớt, được mến thương và được quan tâm. Tình yêu ở thế hệ trung học phổ thông rất thuần tuý và trong sáng. Tình yêu có thể thay đổi các em theo chiều hướng tốt đẹp như tạo nên các kỹ năng san sớt, biết cách mến thương, quan tâm, thông cảm và tương trợ người khác. Nắm bắt được tâm lý này, thầy cô giáo và phụ huynh cần có định hướng và lời khuyên thích hợp, một mặt cần tôn trọng tình cảm của các em mặt khác cần quan tâm sâu sát để các em tương trợ nhau học tập và rèn luyện.

5.2. Đặc điểm ý chí của học trò trung học phổ thông

Ở tuổi này, hồ hết các em có xu thế bộc lộ rõ nét tư cách và phẩm chất ý chí, cường độ ý chí tăng trưởng ở mức độ cao hơn. Điều đó được trình bày qua một số biểu lộ sau:

Thứ nhất, các em nỗ lực hết mình để đạt được ước mơ, hoài bão của bản thân. Nhiều học trò có điều kiện gia đình khó khăn hoặc thành tích học tập yếu, nhưng lúc đã có được ước mơ hoài bão của riêng mình đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, các em có định hướng rõ ràng trong lựa chọn nghề nghiệp. Các em biết đặt mục tiêu, lên kế hoạch, lựa chọn nghề nghiệp thích hợp với khả năng của mình

Tuy nhiên, kế bên các em học trò có ý chí học tập, ý chí quyết tâm cao vẫn tồn tạt các em học trò thụ động và ko có định hướng. Trên thực tiễn, nhiều em học trò bị lôi kéo vào các nhóm tiêu cức, ko tuân thủ nội quy trường lớp, các chuẩn mức đạo đức, thậm chí ngành ngược, chống đối.

Với vai trò là người cố vấn, thầy cô giáo cần nắm rõ đặc điểm tâm lý của từng học trò từ đó phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu của mỗi cá nhẫn

6. Đặc điểm tư cách của học trò trung học phổ thông

Đặc điểm tư cách của học trò trung học phổ thông có bước đầu tạo nên khả năng tự ý thức và tạo nên “cái tôi”.

Tự ý thức là khả năng học trò trung học phổ thông tự tách ra khỏi bản thân, lấy bản thân mình ra làm nhân vật để nhận thức để thẩm định, từ đó tạo nên nên biểu tượng nói chung về chính bản thân. Học trò trung học phổ thông có thể tự nhận thức bản thân và tạo nên hình ảnh của bản thân ở nhiều phương diện như bên ngoài, bên trong, thân thể, năng lực, phẩm chất,… Việc tự ý thức của học trò trung học phổ thông mở đầu bằng việc có sự đối chiếu bản thân với các chuẩn mực xã hội và tạo nên các ý kiến tư nhân. Từ đó, mong muốn bản thân mình tốt hơn.

Tuy nhiên, quá trình tạo nên tư cách bao gồm cả việc tạo nên cái tôi. Cái tôi được hiểu là những tính chất tư nhân và tâm thế xã hội bao gồm nhận thức về bản thân, xúc cảm với bản thân và hành vi – thái độ thực tiễn với bản thân.

Tương tự, ta thấy rằng học trò trung học phổ thông có những đặc điểm tâm sinh lý vô cùng riêng lẻ. Chính vậy, thầy cô giáo cần có thái độ tôn trọng, nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lý học trò. Từ đó, khích lệ học trò nỗ lực học tập, phấn đấu rèn luyện, nhằm trang bị cho các em đầy đủ hành trang vững bước vào đời.

Tải (download) Mẫu Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

Download Tại Đây

->>> Tham khảo thêm : Lịch thi tốt nghiệp THPT quốc gia 2021

[rule_{ruleNumber}]

#Bài #thu #hoạch #bồi #dưỡng #thường #xuyên #THPT #module

Bạn thấy bài viết
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên THPT module 1

bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo

Phân mục: Giáo dục
#Bài #thu #hoạch #bồi #dưỡng #thường #xuyên #THPT #module