Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GVMN Module 14 – TRẦN HƯNG ĐẠO

Công việc bồi dưỡng, kèm cặp thầy cô giáo là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết để chất lượng dạy học ko ngừng được tăng lên. Chính vì vậy trong bài viết hôm nay tôi xin giới thiệu tới độc giả bài viết huấn luyện, bồi dưỡng thường xuyên module 14

1. Lý do chọn giải pháp:

Như chúng ta đã biết nhiệm vụ giáo dục măng non là cấp học trước tiên của hệ thống giáo dục quốc dân. Thầy cô giáo măng non được coi là những người thầy trước tiên đặt nền tảng cho việc huấn luyện một tư cách con người mới cho xã hội, tùy theo thế hệ nhưng mà nội dung giáo dục có không giống nhau. Trẻ trong độ tuổi măng non đang học nói, nhu cầu của trẻ là giao tiếp bằng lời nói với người lớn, vì vậy việc hỗ trợ tiếng Việt cho trẻ đặc thù là trẻ dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Đa số các em là người dân tộc thiểu số, thường sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp nên lúc tới lớp, cô giáo là người Kinh, các em ko biết tiếng Kinh nên lúc cô dạy bằng tiếng Việt rất khó khăn cho các em. . tiếp thu bài giảng cũng như những lời hướng dẫn, khẩu lệnh của cô ko hiểu để thực hiện, em trở thành rụt rè, thụ động thậm chí tự ti, tự ti dẫn tới khả năng tiếp thu bài rất chậm. Vì vậy, việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số được tất cả chúng ta quan tâm, điều này sẽ góp phần tạo nên và tăng trưởng toàn diện cho trẻ.

Trong thực tiễn, trong cuộc sống hàng ngày, con người chúng ta dùng lời nói để trao đổi, trao đổi, yêu cầu, trò chuyện, bộc bạch, trình diễn, bộc bạch suy nghĩ, hiểu, giảng giải vấn đề. Các vấn đề phát sinh trong cuộc sống: cách nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm, lên tiếng, tương trợ mọi người xung quanh…

Bản thân tôi là thầy cô giáo đang trực tiếp dạy trẻ 5 tuổi từ trường măng non ………… số trẻ hàng năm của lớp tôi là…….. số trẻ là người dân tộc thiểu số. Phụ trách thiểu số…… Đa số là con em đồng bào Ê Đê, nói tiếng mẹ đẻ, ko hiểu tiếng Việt do trình độ văn hóa thấp. Phụ huynh chưa thực sự quan tâm tới việc học tập của con em mình, chưa hiểu rõ tiếng Việt nên các hoạt động trên lớp của cô giáo chưa lôi cuốn, thu hút các em tới lớp đầy đủ.

Cùng một môi trường học tập, cùng một bài học, lượng kiến ​​thức đó, phương pháp đó, vì sao khả năng tiếp thu của trẻ em dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số lại không giống nhau tới vậy? Phải chăng có sự khác lạ về tiếng nói, phải chăng vốn tiếng Việt của trẻ em dân tộc thiểu số quá ít, bởi mọi cử chỉ, hành động của con người đều thông qua tiếng nói để hiểu và tuân theo, nhưng do các em ko hiểu? vì vậy bạn ko biết phải làm gì. .

Trước thực trạng này, tôi rất hoang mang và lo lắng một phần vì ngay từ đầu năm học, thầy cô giáo đã ký cam kết chất lượng với hiệu trưởng về việc thực hiện đúng yêu cầu của mục tiêu giáo dục theo độ tuổi. Lúc trẻ 5 tuổi vào lớp 1, một trong những mục tiêu đặt ra là trẻ phải thuộc 29 chữ cái và 10 số của một số bài thơ, biết kể lại một số câu chuyện… làm sao để trẻ thích nghe. . Các yêu cầu phải được phục vụ theo bộ tiêu chuẩn này là gì? Trẻ em dân tộc thiểu số lúc tới lớp ko nghe, nói, hiểu được tiếng Kinh? Đó là câu hỏi, là sự trằn trọc, trằn trọc nhưng mà tôi trằn trọc hàng đêm, là lương tâm và trách nhiệm của người thầy. Tôi ko thể tới lớp vào cuối ngày mặc dù họ có một chiếc cặp trống. Lúc mới ra trường, tôi thấy cần phải tìm cách nghiên cứu, lựa chọn một số phương pháp và nguồn tài liệu để học trò dân tộc lớp tôi nghe, nói, hiểu tiếng Việt. Để các em ko tự ti, tự ti, hứng thú tới lớp, trau dồi tiếng Việt, giao tiếp bằng tiếng Việt để thu hút các em tham gia các hoạt động trong lớp để cuối mỗi năm học các em đều ngoan. .

2. Nội dung và phương thức thực hiện:

2.1. Nội dung:

Ngay từ đầu năm học, tôi đã có kế hoạch duy trì sĩ số, giữ tỉ lệ chuyên cần đạt 97%. Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã vận động phụ huynh động viên con em tới trường, đồng thời tuyên truyền tới cha mẹ trẻ về nội dung các môn học và hoạt động ở lớp mẫu giáo, đặc thù là khối lớp 5-6. tuổi. . là cơ sở, nền tảng cho trẻ trong chương trình học bậc tiểu học và gần đây nhất là lớp 1 trong năm học tới.

2.2. Đang làm:

Phải làm sao để các cháu thực sự thích tới lớp mỗi ngày để các cháu tiếp thu, tiếp thu đầy đủ kiến ​​thức sẵn sàng vào lớp 1. Trong lúc hồ hết các cháu đều đang học mẫu giáo sớm. 5 tuổi các cháu chưa đi mẫu giáo, vốn tiếng Việt hạn chế, bố mẹ đưa tới lớp khóc đòi về, cô giáo ko hiểu tiếng Kinh nên mới làm vậy. Cha mẹ thấy con khóc, ko muốn con học tiếp nhưng cũng mong con lớn lên có ruộng, có đất để làm ăn. Trước lúc nghĩ tương tự, tôi thực sự lo lắng. Tôi tự răn phải thu hút họ tới lớp. Rồi hàng ngày phụ huynh đưa con tới lớp tôi nói chuyện, kể cho con nghe vài câu chuyện. Năm học 2018-2019, các cháu đã đủ tuổi vào lớp 1, nhưng một thời kì trước lúc các cháu vào mẫu giáo, gia đình đã xin phép cô hiệu trưởng cho cháu vào mẫu giáo. Các cháu ko biết đọc biết viết nên ko được vào lớp 1.

Cô cũng giới thiệu một số gương mặt trẻ dân tộc học nhiều ở lớp 3-4, 4-5 tuổi, nay lớp 5-6, các cháu rất mạnh dạn, trong năm học cô cho các cháu tham gia.

Còn các nhỏ, trong lúc cô nói chuyện với bố mẹ, các cháu cũng dịu đi, nín khóc và thấy cô nói chuyện thân tình với bố mẹ, các cháu dường như cảm thấy an toàn và tin tưởng hơn lúc ở bên. . Lúc bố mẹ đi rồi, tôi đứng ngoài nhìn và khóc, nhưng với tình mến thương, sự tận tâm và một tí kinh nghiệm, mẹ đã ôm tôi vào lòng, xoa đầu tôi và quan tâm, thủ thỉ với tôi. Một số tiếng dân tộc nói trẻ ngừng bước buổi chiều, mẹ tới đón, giờ giúp cô xếp ghế, cho bạn ngồi, giúp cô trải chiếu, thu dọn đồ chơi, dùng kéo cắt hoa, tô màu chiếc oto này. Chiều đẹp trời đem về cho mẹ xem… thế là các con thoải mái, quên đi nỗi sợ hãi, ngại ngùng nhưng mà ngồi tuân theo lời mẹ dạy. Vào cuối buổi học, cha mẹ sẵn sàng đón trẻ, trong lúc trẻ cất đồ chơi mới như túi bóng bay, búp bê có thìa đồ chơi và oto.

– Những công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng đối với các em chưa hiểu tiếng Kinh lại là một thử thách lớn đối với tôi bởi bản thân tôi là thầy cô giáo người Kinh nên phải nhờ cô giáo dạy hộ. ……. (cô giáo chủ nhiệm lớp kế bên) chỉ cho tôi xem mấy câu dân tộc như: “Cố lên, đừng khóc, ngoan ngoãn học hành, bố mẹ đón, muốn tè ko? Ở trường cô ko quên làm những điều này, thường xen kẽ sự thông minh với lời nói và việc làm Đồ chơi tinh nghịch hơn, có lúc là con bướm, con trâu bằng lá, có lúc sắm bột về cho con làm bánh, có lúc thiết kế y phục cho con làm mẫu cho con đo, cắt, cố tình chờ con để chơi Quên đi sự nhút nhát.

Cứ tương tự và kết quả thực đáng ghi nhận là sau 2 tuần tới lớp, các cháu ko còn trằn trọc nữa. Qua trao đổi với phụ huynh tôi được biết các cháu ko còn sợ tới lớp như trước nhưng mà rất hào hứng tới lớp, ko còn đòi quà, bánh trước lúc vào lớp, biết chào cô, giữ nền nếp. . mặt hàng. ở đúng nơi. , vui vẻ với bè bạn.

3. Kết quả thu được sau nghiên cứu:

“Học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị của Bộ Chính trị là nhiệm vụ nhưng mà Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường luôn chỉ huy sâu sát đối với Đảng viên, thầy cô giáo.

Tôi nhận thức đây là tài sản vô giá của dân tộc, là cơ sở vững bền để mỗi đảng viên, cán bộ, thầy cô giáo học tập và noi theo. Tuyệt đối ko vi phạm đạo đức nhà giáo, luôn là tấm gương sáng cho con cháu noi theo “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Vì vậy, tôi rất bối rối ko biết phải làm gì để sẵn sàng tốt nhất cho con vào lớp 1. Đặc thù là trẻ người dân tộc thiểu số, cuối năm học trẻ nhận diện và phát âm đúng 29 chữ cái và 10 số, nói tiếng phổ thông thuần thục, đạt yêu cầu tăng trưởng 5 lĩnh vực, đảm bảo chất lượng cuối năm. để sẵn sàng cho con bạn bước tiếp theo. Trình độ học vấn. Và tôi cũng góp một phần nhỏ nhỏ vào sự thành công của nhà trường, để vấn đề giáo dục măng non của tập thể chúng ta ngày càng tiến lên phục vụ nhu cầu hiện nay. Với nhiều khó khăn lúc trường, lớp xa trung tâm, đa số là đồng bào dân tộc thiểu số trên khu vực, trình độ nhận thức của người dân chưa cao, kinh tế còn nghèo nàn lỗi thời, phụ huynh học trò thậm chí còn phớt lờ. Ở trẻ măng non, trẻ đi học ko đều, khóc trong lớp, tiếng nói giao tiếp hạn chế, trẻ ko hòa đồng với bè bạn, nhút nhát, rụt rè ko dám trình bày mình, thậm chí có trẻ thụ động đều có nguyên nhân. Mấu chốt của họ biết. ngoại ngữ quá ít, hạ tầng quá nghèo nàn, thầy cô giáo ở xa, đi lại khó khăn.

Nhưng trong thời kì ngắn, được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương và nhất là trước sự trằn trọc, lo lắng trước những thiếu thốn, thiệt thòi của các em, các cô đã phát huy sự quyết tâm, nỗ lực của mình. lực lượng của mình. Với cái tâm với nghề, tới nay gia đình đã ổn định cuộc sống. Các em siêng năng học tập, hòa đồng với các bạn, trình bày tốt cái tôi của mình, chất lượng các môn học được nâng lên rõ rệt qua giám định hàng tháng. Tới thời khắc này có trên 95% trẻ nhận diện nhanh và phát âm đúng các chữ cái tiếng Việt đã học. 96% trẻ biết tô các nét cơ bản và tô đúng. 97% các em hiểu tiếng Việt, biết sử dụng tiếng Việt để diễn tả câu có nghĩa, nói thông thuộc tiếng Việt. Ngoài việc học, trẻ mạnh dạn tự tin lúc giao tiếp với cô giáo, với bè bạn ở nhà và mọi nơi.

Theo dõi kết quả sau lúc vận dụng các phương pháp, giải pháp tăng lên tiếng Việt cho trẻ ở lớp tôi, kết quả giám định sự tăng trưởng 5 chiều của lớp tôi cuối tháng 12 như sau:

lớp học
tiến sĩ
nữ giới
điện thoại
NDT
chỉnh sửa viên
Nữ Ê Đê
ĐTK
Nghèo
Gương mặt tăng trưởng

TC
TCH
NN
NT
TM

Lá 1
38
21
31
19
14
số 8
7
thứ mười hai
36
37
37
36
36

PHẦN TRÌNH DIỄN THÀNH CÔNG %
94 %
97%
97%
94%
94%

4. Kết luận:

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của một thầy cô giáo chủ nhiệm, nhất là nhân vật học trò hầu hết là con em đồng bào dân tộc thiểu số thì người thầy cô giáo đó phải là người có tâm với nghề, có chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm giảng dạy. Thầy cô giáo có trách nhiệm cao trong công việc, biết xây dựng kế hoạch giáo dục, tạo môi trường lớp học mới lạ, thích hợp để thu hút học trò, tập thể sư phạm có ý thức kết đoàn, tương trợ lẫn nhau. nhau trong công việc, nhân vật nghiên cứu là trẻ măng non.

Tôi đã nghiên cứu và vận dụng một số nguồn tư liệu để tăng lên tiếng Việt cho học trò và trẻ em dân tộc thiểu số, rèn luyện cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, giúp các em sử dụng thuần thục. Anh Việt. Tìm tòi nội dung, vận dụng linh hoạt tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập mọi lúc, mọi nơi thích hợp với tình hình thực tiễn của lớp và địa phương. Thầy cô giáo luôn tạo niềm tin cho trẻ trong quá trình giao tiếp.

Việc đặt mục tiêu nhận thức tầm quan trọng của việc tăng trưởng tư cách cho trẻ ở trường Măng non là giúp trẻ hiểu được tiếng nói Tiếng Việt. Tôn trọng những hành động, suy nghĩ dù là nhỏ nhất của trẻ và luôn đặt câu hỏi. Luôn lắng tai, luôn thấu hiểu” lên hàng đầu, thực hiện ko ngại khó khăn.

Bạn thấy bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GVMN Module 14 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GVMN Module 14 bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo

Phân mục: Kiến thức chung

Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn