Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GV THCS Module 3

Hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn về Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GV THCS Module 3 để giúp bạn hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục học sinh cá biệt trong trường học.

    1. Tầm quan trọng của việc giáo dục HS cá biệt:

    Có thể nói, hầu như trường học nào, từ cấp tiểu học trở đi, đều có học sinh “cá biệt”. Chỉ là nhiều hay ít, nặng hay nhẹ. Điều đó không quá lạ. Bởi các em học sinh đang ở lứa tuổi “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”. Những học sinh “cá biệt” ít nhiều đã gây khó khăn cho việc giảng dạy, ảnh hưởng đến việc học chung của cả lớp, làm đau đầu thầy cô, nhất là giáo viên chủ nhiệm. Đã xảy ra những vụ việc nghiêm trọng do trẻ em gây ra, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, gây dư luận xấu trong xã hội.

    Vì vậy, việc giáo dục học sinh “cá biệt” cần được coi trọng, nhận thức đúng đắn, xử lý đúng đắn với một nghệ thuật sư phạm cao. Thực tế vẫn còn nhiều giáo viên còn nóng vội, đôi khi chưa làm chủ được bản thân, phương pháp giáo dục còn nghèo nàn, đơn điệu, thiếu tính sư phạm dẫn đến hiệu quả giáo dục học sinh, thậm chí một số giáo viên chưa cao, buộc thôi việc do thiếu tự chủ. Việc giáo dục học sinh “cá biệt” thực sự là phép thử tư cách, bản lĩnh, năng lực sư phạm, lòng yêu nghề, yêu người của người giáo viên.

    Chỉ những thầy cô kiên nhẫn, yêu nghề, hết lòng thương yêu học trò mới có thể chuyển hóa thành những học sinh “gương mẫu”. Trước hết, giáo viên cần tìm hiểu kỹ hoàn cảnh của từng em để có biện pháp giáo dục phù hợp, sinh động, sáng tạo, tránh sự đơn điệu lặp đi lặp lại như phạt chép, phạt chép, kiểm tra. điểm. Có nhiều giáo viên trừng phạt mọi lúc.

    Trẻ em ở độ tuổi này vốn hiếu động, tò mò, dễ bị kích động, chỉ huy và tự quyết. Một số trẻ do ảnh hưởng của phim ảnh bạo lực, thích làm “anh hùng” nên gia đình thường xuyên tăng cường giáo dục, định hướng những hành vi chuẩn mực trong hành vi, nhận thức cho trẻ nhưng không quá máy móc, áp đặt, thô bạo. Nhiều năm quản lý, giảng dạy cho chúng tôi thấy nguyên nhân chính khiến học sinh bỏ học là do gia đình các em. Nếu gia đình tạo ra bầu không khí thiếu đạo đức, không lành mạnh như cha mẹ ly hôn, vợ chồng mâu thuẫn, người trong gia đình nghiện hút, rượu chè, cờ bạc… thì con cái sẽ bị đối xử thô bạo. Tỷ lệ học sinh vi phạm nội quy, vi phạm đạo đức rất cao. Một số cha mẹ chỉ biết nuông chiều, thỏa mãn tính tò mò, ham muốn kỳ quặc của con cái. Điều này khiến trẻ dễ trốn tránh công việc và đạt được thành tựu cũng như đấu tranh với những lời phàn nàn hoặc từ chối. Có thể điều này sẽ khiến họ trở thành những người tiêu xài hoang phí, hoặc trở thành những người lạnh lùng và ích kỷ.

    Dạy con tính tự lập từ nhỏ, biết chịu đựng và vượt qua khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống hàng ngày. Bạn phải cho họ thấy kiếm tiền khó như thế nào và sử dụng nó như thế nào cho hiệu quả.

    2. Thực trạng việc giáo dục học sinh cá biệt hiện nay:

    Trong các nhà trường, công tác giáo dục học sinh cá biệt luôn được đề ra và quan tâm thực hiện nhưng đôi khi, ở một số nơi hiệu quả chưa cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến một số học sinh hư trở thành học sinh cá biệt.

    Nguyên nhân chủ yếu do gia đình thiếu quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở, động viên trẻ trong học tập cũng như vui chơi. Một số gia đình phó thác việc học hành của con cái cho giáo viên và nhà trường. Một số gia đình thiếu biện pháp giáo dục, thiếu sự phối hợp với nhà trường và các lực lượng giáo dục khác. Nhiều gia đình chỉ lo làm ăn, đầu tư kinh tế mà bỏ qua việc học hành của con cái. Nếu có thông tin về con cái thì cũng rất chung chung, một chiều.

    Thực tế cho thấy, nếu có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa ba lực lượng giáo dục là gia đình – nhà trường – xã hội thì hiện tượng học sinh bỏ học sẽ giảm đi rất nhiều.

    Về phía nhà trường, lực lượng giáo dục rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách học sinh, sự phối hợp chặt chẽ với hai lực lượng giáo dục gia đình và xã hội chưa cao, chưa tạo được sự đồng bộ, đồng thuận. Trong việc giáo dục con cái còn xem nhẹ kỷ cương – tình thương – trách nhiệm.

    Giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm phải có thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về học sinh của mình, nhất là học sinh phổ thông để có biện pháp giáo dục phù hợp. Việc dành quá ít thời gian để tiếp cận học sinh trên lớp cũng là một hạn chế trong việc giáo dục học sinh cá biệt, ngăn chặn tình trạng học sinh bỏ học.

    Thực tế ở các trường phổ thông hiện nay, việc giáo dục học sinh phổ thông chủ yếu do giáo viên chủ nhiệm phụ trách. Có giáo viên tiếp xúc với lớp chủ nhiệm khoảng 7 tiết/tuần, nhưng cũng có giáo viên chỉ tiếp xúc với lớp không quá 3 tiết/tuần. Trong khi công việc của giáo viên chủ nhiệm không chỉ là giáo dục học sinh.

    Thực tế cho thấy, các hoạt động, phong trào trong nhà trường hiện nay (trừ hoạt động dạy học) nhìn chung còn nghèo nàn, chưa phong phú và mang tính hình thức. Các phong trào chưa lôi cuốn, hấp dẫn, chưa huy động được đông đảo học sinh tham gia. Vì vậy, nhà trường cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục khác bên cạnh hoạt động dạy và học như đố vui, khám phá tri thức, sinh hoạt văn nghệ, cắm trại, ngoại khóa, chính những hoạt động này đã bổ sung rất nhiều cho hoạt động dạy và học, góp phần thu hút học sinh đến các hàng quán, điểm vui chơi giải trí như bi da, điện máy,… nhưng thực tế những nơi này lại tiềm ẩn những tác động tiêu cực đến tâm lý của các em học tập. Điều này đã được nhiều phương tiện truyền thông, báo chí và truyền hình đưa tin.

    3. Những biểu hiện của học sinh cá biệt:

    Học sinh cá biệt: là những học sinh thường có những bất thường về nhân cách, không có động cơ học tập, tâm lý không ổn định. Ví dụ, trong lớp, khi họ đang yên lặng làm bài tập, họ đột nhiên hét lên khi họ hoàn thành bài tập. Thích học thì học, không thích thì đùa giỡn, quậy phá hàng xóm, giễu cợt bạn bè, nói xấu nhau.

    Chúng tôi biết rằng những học sinh được gọi là “cá biệt” thường có hoàn cảnh đặc biệt. Môi trường sống không ổn định gây ra vấn đề với lòng tự trọng của họ. Học sinh cá biệt (HSCB) là những học sinh có tư cách đạo đức xấu, lười học, những em này thường rất lười học, hay gian lận trong học tập; lừa dối cha mẹ, thầy cô; đe dọa bạn bè; Tránh các hoạt động nhóm. Học phí do cha mẹ học sinh đóng góp cho nhà trường; giả mạo chữ ký của phụ huynh trong sổ liên lạc hoặc giấy phép. Tính tình quậy phá, ý thức kỷ luật kém, thích “nghịch ngợm” theo kiểu con nhà giàu chống đối trong lớp. Họ thích chơi ngu hơn là học giỏi. Thông minh, nhanh trí trong những trò nghịch ngợm được thầy cô và bạn bè. Hay coi thường, trêu chọc, khiêu khích trước mặt thầy cô, bạn bè để thỏa mãn những nhu cầu tinh quái được sắp đặt sẵn trong đầu. Có cách nói chuyện, ăn mặc, đi đứng và hành động khác thường để gây sự chú ý. Kết quả học tập thất thường, kém, luôn xếp “đầu bảng” dẫn đến tâm lý chán nản.

    Ở những học sinh này, uy tín của cha mẹ, thầy cô có thể bị thay thế bằng những “đại ca” cầm đầu, côn đồ, liều lĩnh nên các em rất dễ mắc bẫy, bị xúi giục, được các “đàn anh, đàn chị” khích bác.

    * Các triệu chứng điển hình học sinh thường gặp:

    – Đối tượng đặc thù về học lực (có 3 loại):

    + Một là các em có trí tuệ và khả năng nhận thức bình thường nhưng lại rất uể oải, lười biếng, học “nghiệp dư” dẫn đến hổng kiến thức, hay ăn cắp vặt trong học tập. Kết quả học tập thất thường, kém, luôn xếp “đầu bảng” dẫn đến tâm lý chán nản.

    + Thứ hai, trẻ chậm phát triển trí tuệ: Là những trẻ nhìn bề ngoài bình thường, hơi đần độn, trong học tập và giảng dạy không tiếp thu được gì (hay nói cách khác là “chậm hiểu”).

    + Thứ ba, các em bị khuyết tật (nói ngọng hoặc không nói được, mắt, tai, tay chân…) dẫn đến không có đủ các giác quan và phương tiện để học tập bình thường như các học sinh khác.

    – Chủ thể hành vi cá nhân: Thường có các biểu hiện như:

    + Hoặc nhà trường đưa lên mạng, lừa dối phụ huynh và giáo viên, giả chữ ký của phụ huynh trong sổ liên lạc hoặc giấy phép;

    + Đe dọa bạn bè thậm chí đánh nhau; tránh các hoạt động nhóm;

    + Các khoản phí cha mẹ học sinh đóng góp cho nhà trường; ; Tính tình quậy phá, ý thức kỷ luật kém, thích “nghịch ngợm” theo kiểu con nhà giàu chống đối trong lớp. Họ thích chơi ngu hơn là học giỏi. Thậm chí có tình trạng kẻ trộm đột nhập, “đội lốt” không chỉ tài sản của mình mà còn “mượn” tài sản của người khác;

    + Thông minh, nhanh trí trong những trò nghịch ngợm với thầy cô, bạn bè; Hay coi thường, trêu chọc, khiêu khích trước mặt thầy cô, bạn bè để thỏa mãn những nhu cầu tinh quái được sắp đặt sẵn trong đầu. Có cách nói chuyện, ăn mặc, đi đứng và hành động khác thường để gây sự chú ý.