Bài thu hoạch bồi dưỡng giáo viên THPT hạng 2 – trường Đại học sư phạm 2

PAGE \* MERGEFORMAT 3

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

BÀI THU HOẠCH

BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP

GIÁO VIÊN THPT HẠNG II

Người thực hiện: HOÀNG VĂN CHIẾN

Trường THPT Quang Hà

Thị trấn Gia khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vính Phúc

Hà Nội, 12 /2018

Vĩnh phúc, năm 2018

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

BÀI THU HOẠCH

BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP

GIÁO VIÊN THPT HẠNG II

Người thực hiện: HOÀNG VĂN CHIẾN

Trường THPT Quang Hà

Thị trấn Gia khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vính Phúc

ĐỀ BÀI

Từ những kinh nghiệm thực tiễn và những kiến thức đã học trong khóa học bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THPT hạng 2, Anh (Chị) hãy rút ra bài học để phát triển chuyên môn và phát triển đơn vị công tác của mình?

BÀI LÀM

PHẦN I. MỞ ĐẦU

Thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 theo định hướng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Bộ GD đã ban hành thông tư  23/2015/TTLT-BGDĐT-BNV thông tư liên tịch quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông.

Nhằm cập nhật kiến thức và các kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phát triển năng lực nghề nghiệp nhằm đáp ứng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THPT hạng II. Nắm bắt xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục trung học phổ thông; Hiểu rõ chương trình và kế hoạch giáo dục trung học phổ thông; Năm bắt các phương pháp dạy học mới, phương pháp kiểm tra, đánh giá năng lực của người học theo xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Tường tận nhiệm vụ, vai trò và hoạt động của tổ chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn để xây dựng tổ chuyên môn hiệu quả làm nồng cốt, cùng với nhà trường xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường. Tôi đã tham gia lớp bồi dưỡng chuẩn nghề nghiệp giáo viên hạng II do trường ĐHSP Hà Nội 2 tổ chức.

Khi tham gia khóa học này tôi đã được trang bị và rèn luyện kỹ năng phân tích các yêu cầu đổi mới giáo dục để có cơ sở xác định những yêu cầu phát triển năng lực của giáo viên, có biện pháp tự rèn luyện các năng lực hiện đại, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Có thái độ tích cực để rèn luyện tích cực không ngừng nâng cao năng lực nghề nghiệp, trong đó chú trọng đến việc tích cực tiếp cận các phương pháp dạy học hiện đại.

Chương trình đạo tạo đã giúp tôi tự nâng cao được những kiến thức cơ bản nhất về dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh, một số phương pháp dạy học hiệu quả, thiết kế và vận dụng dạy học tích hợp theo chủ đề liên môn. Không những vậy, sau khóa học, tôi đã có được nhận thức được đầy đủ và toàn diện về vai trò và nhiệm vụ của nhà trường trong công tác xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập, cách phát triển mối mối quan hệ với cộng đồng nghề nghiệp để thúc đẩy sự hợp tác với các đồng nghiệp để trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ…

PHẦN II. NỘI DUNG

Chương I. Những kiến thức đã thu nhận được từ các chuyên đề bồi dưỡng

Sau khi học xong 10 chuyên đề thuộc chương trình bồi dưỡng chuẩn nghề nghiệp giáo viên hạng II do trường ĐHSP Hà Nội 2 tổ chức tôi đã thu nhận được những kiến thức cụ thể như sau:

1. Chuyên đề 1: “Lí luận về nhà nước và hành chính nhà nước”

Khái niệm quản lí: Sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội đảm bảo hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung, phù hợp với quy luật khách quan.

Khái niệm quản lí nhà nước: Sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước tác động đến các đối tượng quản lí bằng công cụ quyền lực của mình (các cơ quan quyền lực nhà nước và hệ thống pháp luật) nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.

Các chức năng cơ bản của hành chính nhà nước:

Chức năng hành chính nhà nước là những phương diện hoạt động chuyên biệt của hành chính nhà nước, là sản phẩm của quá trình phân công, chuyên môn hoá hoạt động trong lĩnh vực thực thi quyên hành pháp. Chức năng hành chính của mỗi quốc gia có những đặc trung riêng tuỳ thuộc vào địa vị pháp lí của hệ thống hành pháp trong mối tương quan với cơ quan lập pháp và tư pháp. Các chức năng hành chính đều được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và được phân cấp cho các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở.

— Chức năng bên trong (nội bộ, vận hành)

+ Chức năng xây dựng quy hoạch, kể hoạch tù’ các quyết sách của Đảng và cụ thể hoá thông qua luật của Quốc hội (trong đó phải xây dựng kế hoạch dựa trên việc xác định hệ thống mục tiêu và tốc độ phát triển, xây dựng chương trình hành động).

Việc lập kế hoạch là rất cần thiết để thống nhất mục tiêu, và chỉ rõ các bước để hoàn thành mục tiêu, dễ dàng kiểm soát hoạt động và ứng phó với những biến động bất thường, giảm thiểu rủi ro, tiết kiệm nguồn lực.

+ Chức năng tổ chức bộ máy hành chính là một tiến trình gồm các hoạt động nhằm thiết lập một cơ cấu tổ chức hành chính họp lí, phù họp với mục tiêu, nguồn lực, ngân sách và đảm bảo tính họp lí của các mối quan hệ

bên trong tô chức. Việc tô chức bộ máy hành chính cân theo hướng tinh giản, xây dựng bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả.

+ Chức năng xây dựng đội ngũ nhân sự hành chính là quá trình tuyển dụng, sử dụng và tạo điều kiện để đội ngũ công chức, viên chức trực tiếp làm việc trong các quan hành chính nhà nước, trong các đơn vị sự nghiệp hành chính công có thể phát huy tối đa khả năng của mình để đạt mục tiêu đã đặt ra. Yêu cầu sử dụng đúng người, đúng việc, đảm bảo lấy hiệu quả công việc làm đầu.

+ Chức năng ra quyết định hành chính là một trong những công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều công đoạn quan trọng như: Xác định vấn đề; Nghiên cứu, thu thập và xử lí thông tin; Lập phương án và lựa chọn phương án tốt nhất; Soạn thảo quyết định hành chính; Thông qua quyết định hành chính; Ban hành quyết định hành chính.

+ Chức năng lãnh đạo, điều hành, hướng dẫn thi hành là hoạt động chính của những người đúng đầu các cơ quan hành chính nhà nước. Họ có trách nhiệm chỉ huy, hướng dẫn, điều hành cấp dưới thực hiện các bước, các công đoạn trong việc thực hiện các quyết định hành chính đã ban hành (thông qua các chỉ thị, mệnh lệnh).

+ Chức năng phối hợp giữa các sở, ban, ngành để thực thi quyết định hành chính là chức năng điều hoà hoạt động của các đơn vị lệ thuộc. Muốn vậy, cần có: cơ chế phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong cơ quan và các cơ quan hũn quan khác (nội quy, quy chế); Thiết lập mối quan hệ liên lạc, thông tin thường xuyên (họp giao ban định kì, thông báo, báo cáo).

+ Chức năng tài chính là quá trình tiến hành các hoạt động liên quan đến việc hình thành và sử dụng các nguồn tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước. Để đảm bảo làm tốt chức năng này, cần đảm bảo làm tốt các yếu tố sau: Dự trù kinh phí hoạt động hàng năm theo các chương trình, dự án được duyệt; Sử dụng ngân sách một cách hiệu quả, tiết kiệm; Ngân sách được phân cấp đúng chế độ, đúng chủ trương phân cấp; Quản lí chặt chẽ công sản bao gồm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và những vật tư cần thiết khác.

+ Chức năng theo dõi, giám sát, kiểm tra là việc thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả và hiệu quả công việc so với mục tiêu ban đầu, và sẵn sang áp dụng các biện pháp điều chỉnh để giảm thiểu những sai lệch, tránh những thiệt hại và tổn thất không đáng có.

+ Chức năng tổng kết, đánh giá và báo cáo: cần thiết lập các báo cáo theo định kì (tháng, quý, năm) và các báo cáo dài hạn (5 năm, 10 năm, 20 năm) để đánh giá hoạt động của cấp dưới, để rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các mục tiêu hành chính khác, đảm bảo công việc quản lí hành chính ngày càng hiệu quả hơn.

— Chức năng bên ngoài (điều tiết, can thiệp)

+ Chức năng quản lí hành chính đối với các ngành và các lĩnh vực trong đời sống xã hội: định hướng phát triển, xây dựng và ban hành các chính sách cụ thể để quản lí và điều hành hoạt động của các ngành và các lĩnh vực; thống nhất quản lí và thực hiện từ trung ương đến địa phương; đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên của Chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp và của các sở, ban, ngành đối với các tổ chức và công dân trong công tác quản lí theo ngành và lĩnh vực.

+ Chức năng cung ứng dịch vụ công: đảm bảo cung ứng đầy đủ các dịch vụ phục vụ các lợi ích chung, thiết yếu, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức trong xã hội do Nhà nước trực tiếp hoặc giao cho các tổ chức ngoài Nhà nước cung ứng. Dịch vụ công gồm: dịch vụ công cộng (phục vụ nhu cầu về giáo dục, y tế, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí; giao thông vận tải; điện nước; buu chính viễn thông…); Dịch vụ hành chính công (dịch vụ cho phép, cấp phép: cấp phép kinh doanh, xây dựng; Dịch vụ đăng kí: khai sinh, kết hôn…; Ngăn chặn, phòng ngừa: kiểm tra tạm vắng, tạm trú…; Dịch vụ công chứng, chứng thực).

+ Chức năng định hướng hoạt động cung ứng dịch vụ công bằng chủ trương, chính sách: quy định rõ lĩnh vực nào nhà nước trực tiếp cung ứng, lĩnh vực nào nhà nước không. Những lĩnh vực nhà nước trực tiếp cung ứng thường là những lĩnh vực cần sử dụng nguồn lực lớn mà các tổ chức bên ngoài nhà nước không thể làm được; hoặc là những lĩnh vực ít lợi nhuận và các tổ chức bên ngoài nhà nước không muốn làm; hoặc là nhũng lĩnh vực liên quan đến bí mật quốc gia mà Nhà nước chưa thể chuyển giao.

+ Điều tiết, can thiệp việc cung ứng dịch vụ công của các chủ thể ngoài nhà nước: nếu việc cung ứng dịch vụ công của các tổ chức ngoài nhà nước có dấu hiệu sai lệch, vi phạm hoặc làm tổn hại đến đời sống của người dân, đến môi trường, hoặc an ninh quốc gia thì Nhà nước sẽ phải can thiệp nhanh chóng và kịp thời.

+ Kiểm soát chặt chẽ việc cung ứng dịch vụ công của chủ thể ngoài nhà nước: mặc dù tin tưởng và giao quyền cung ứng một phần dịch vụ công cho các tổ chức bên ngoài nhà nước nhưng không được buông lỏng mà phải thường xuyên thanh tra, kiếm tra và kiếm soát các hoạt động cũng như các dịch vụ công mà các to chức tư nhân cung ứng.

2. Chuyên đề 2: “Chiến lược và chính sách phát triển giáo dục, đào tạo”

Sự phát triển của các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, công nghệ tin học tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hoá, nhưng cũng tạo điều kiện cho sự du nhập những giá trị xa lạ ở mỗi quốc gia. Điều này đang góp phần tạo nên những cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, ngăn chặn nhũng yếu tố ảnh hưỏng đến an ninh của mỗi nước.

Thứ nhất, trong thời đại ngày nay, giáo dục ở tất cả các nước đang đứng trước các cặp mâu thuẫn tiến thoái lưỡng nan:

Giữa toàn cầu và cục bộ;

Giữa phổ biến và cá biệt;

Giữa truyền thống và hiện đại;

Giữa cách nhìn dài hạn và ngắn hạn;

Giữa cạnh tranh cần thiết và bình đẳng về cơ hội;

– Giữa sự phát triển đến chóng mặt của tri thức và khả năng có hạn của con người;

Giữa trí tuệ và vật chất…

Trước hiện thực đó, nếu giữ tư duy nhị nguyên, loại trừ hoặc cái này hoặc cái kia thì không bao. giờ giải quyết được mâu thuẫn, và cần phải chấp nhận cả cái này và cả cái kia theo quan điểm hệ thống.

Thứ hai, lấy học thưòng xuyên, học suốt đời làm nền móng.

Giáo dục cần được xây dựng dựa trên 4 trụ cột: Học để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống; Học để khẳng định mình. Nhiều quốc gia hiện đang có nhũng chính sách mạnh mẽ để xây dựng xã hội học tập.

Thứ ba, trong quá trình toàn cầu hoá, chắc chắn sẽ diễn ra toàn cầu hoá về nhân lực, sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết đào tạo, trao đổi nội dung chương trình, quy trình và điều kiện đảm bảo cho đào tạo, và việc kí kết tương đương bằng cấp…

Cuối thế kỉ XX, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ, đặc biệt sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức đang bắt đầu hình thành, bối cảnh đó tạo nên những biến đối mạnh mẽ và sâu sắc cho xã hội nói chung và giáo dục nói riêng trên phạm vi toàn thế giới. UNESCO đã tổ chức những hoạt động tập trung trí tuệ suy nghĩ về một nền giáo dục cho thế kỉ XXL

Đường lối, quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và phát triển giáo dục phổ thông trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước

Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 và Nghị quyết Trung ưoug số 29 đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục của Việt Nam nhu sau:

Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục – đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với tòng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.

Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục tù’ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.

Đôi mới hệ thông giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.

Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hoà, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triến giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hoá, xã hội hoá giáo dục và đào tạo.

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đế phát triến giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đế phát triển đất nước.

Quán triệt sâu sắc và cụ thế hoá các quan điếm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong việc xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Đối mới công tác thông tin và truyền thông đế thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc đồi mới, phát triển giáo dục.

Coi trọng công tác phát triển Đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các trường đại học có đảng bộ. cấp uỷ trong các cơ sở giáo dục – đào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa phương để xây dựng nhà trường.

Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện.

Phát huy sức mạnh tổng họp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

3. Chuyên đề 3: “Quản lí giáo dục và chính sách phát triển giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

QLNN về GD&ĐT là QLNN về một ngành, một lĩnh vực cụ thể nhưng nó cũng có những tính chất của QLNN và QLHCNN nói chung, bao gồm 5 tính chất cần lưu ý, đó là:

+ Tính lệ thuộc vào chính trị: QLNN về giáo dục phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.

+ Tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn xã hội. Trong QLNN về giáo dục cần phải coi trọng tính xã hội hoá và dân chủ hoá giáo dục. GD&ĐT luôn phát triển trong mối quan hệ với sự phát triển của kinh tế – xã hội; vì vậy, QLNN về giáo dục cần luu ý tính chất này để có nhũng điều chỉnh phù hợp.

+ Tính pháp quyền: QLNN là quản lí bằng pháp luật; QLNN về giáo dục cũng phải tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho mọi hoạt động quản lí về GD&ĐT.

+ Tính chuyên môn nghiệp vụ: Công chức hoạt động trong lĩnh vực GD&ĐT cần phải được đào tạo với các trình độ tương ứng với các ngạch, bậc đã được quy định. Việc tuyển chọn công chức cần đáp ứng các chuẩn do nhà nước ban hành.

+ Tính hiệu lực, hiệu quả: Lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để đánh giá cán bộ công chức, viên chức ngành GD&ĐT; Chất lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật tự, kỉ cương trong GD&ĐT là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở GD&ĐT và của các cơ quan QLNN về GD&ĐT.

Ở phần tính chất nêu trên chúng ta đã điểm qua một số tính chất của QLNN về GD&ĐT, tuy nhiên trong mỗi tính chất có những nét đặc biệt riêng có thể được nhấn mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý. Trên cơ sở nhận thức đó cần nhấn mạnh ba đặc điểm chủ yếu sau:

+ Đặc điểm kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt động quản lí giáo dục.

+ Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí.

+ Đặc điểm kết hợp Nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai QLNN về giáo dục.

4. Chuyên đề 4: “Giáo viên Trung học phổ thông với công tác tư vấn học sinh trong trường Trung học phổ thông”

Hỗ trợ tâm lí trong trường học trên thế giới tập trung vào ba mảng nội dung: phòng ngừa, phát hiện sớm, can thiệp; với 3 cấp độ hoạt động hỗ trợ tâm lí trong nhà trường. Đây cũng là xu hướng chính trong hoạt động hỗ trợ tâm lí tại nhiều trường phổ thông hiện nay ở nước ta.

Dựa theo Mô hình phân phối dịch vụ 3 tầng trong trường học của Hoa Kì, chúng tôi kế thừa, xây dựng và sử dụng mô hình chăm sóc tâm lí học sinh, tương ứng với các kĩ năng sau:

Kĩ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động phòng ngừa

Kĩ năng phát hiện sớm

Kĩ năng đánh giá tâm lí học sỉnh

Kĩ năng tư vấn

Khái niệm kĩ năng tư vấn của giáo viên

Tư vấn học đường là hoạt động trợ giúp tất cả các học sinh nâng cao năng lực tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong học tập, quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp; phát hiện sớm và phát triển các chương trình phòng ngừa, can thiệp thích hợp trong nhà trường. Nhiệm vụ chủ yếu của tư vấn học đường là: đánh giá nhu cầu sức khoẻ tâm thần của học sinh; phòng ngừa, hỗ trợ học sinh cha mẹ học sinh giải quyết các vấn đề vướng mắc trong đời sống tâm lí của học sinh; nghiên cứu và phát triển chương trình hỗ trợ, can thiệp cho học sinh.

Kĩ năng tư vấn của giáo viên là sự vận dụng kinh nghiệm, tri thức chuyên môn của nhà tư vấn vào trợ giúp học sinh nâng cao năng lực giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong học tập, quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp; phát hiện sớm và phát triển các chương trình phòng ngừa, can thiệp thích hợp trong nhà trường.

Kĩ năng tư vân của giáo viên được xây dựng trên nên tảng kinh nghiệm, tri thức chuyên môn của nhà tư vấn. Đó là kinh nghiệm xã hội, kinh nghiệm nghề nghiệp; là những hiếu biết căn bản về tham vấn tâm lí, tham vấn học đường, về tâm lí lứa tuổi học sinh.

Kĩ năng tư vấn của giáo viên hướng tới việc thực hiện những nhiệm vụ của tham vấn học đường, đó là trợ giúp học sinh nâng cao năng lực tụ’ giải