Bài 1: Khái quát về chủ nghĩa Mác – Lênin – Chính trị cao đẳng

 

I. KHÁI NIỆM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

– Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết do
C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ XIX, được V.I.Lênin bổ sung, phát
triển đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác-Lênin
là hệ thống lý luận thống nhất được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản là
triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị học Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa
học. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống lý luận khoa học thống nhất về mục tiêu,
con đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp công
nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.

Từng bộ phận cấu thành của Mác-Lênin có vị trí, vai trò khác nhau nhưng cả học thuyết là một thể thống nhất, nêu rõ mục tiêu, con đường, lực lượng, phương thức giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.

– Chủ nghĩa Mác-Lênin hình thành từ các nguồn gốc:

Về kinh tế-xã
hội:
Nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa giữa thế kỷ XIX phát triển mạnh ở nhiều nước Tây Âu. Sự ra đời và phát
triển của giai cấp công nhân với tính cách là lực lượng chính trị độc lập là
nhân tố quan trọng ra đời chủ nghĩa Mác. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hoá sản xuất đại công nghiệp với chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân đã trở nên rất gay gắt.Hàng loạt cuộc đấu tranh tự phát, quy mô lớn của
giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra, như đấu tranh của công
nhân dệt thành phố Li-ông, Pháp (1831- 1834), phong trào Hiến chương của công
nhân Anh (1838-1848), đấu tranh của công nhân dệt thành phố Xi-lê-di, Đức
(1844), v.v… nhưng đều thất bại. Yêu cầu khách quan cần có học thuyết khoa học
và cách mạng dẫn đường để đưa phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhânđi
đến thắng lợi.

Về
tư tưởng lý luận
là những
đỉnh cao về triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là Can-tơ, Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc;
kinh tế chính trị học cổ điển ở Anh mà tiêu biểu là A-đam Xmít, Đa-vit
Ri-các-đô; các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phánở Pháp và ở Anh mà tiêu
biểu là Xanh Xi-mông, Phu-riê; Ô-oen…

Về
khoa học
là những phát
minh về khoa học tự nhiênnhư thuyết tiến hóa giống loài của Đác-uyn (1859), thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
Lô-mô-nô-xốp(1845); học thuyết về tế bào của các nhà khoa học Đức (1882). Các học
thuyết này là cơ sở củng cố chủ nghĩa duy vật biện chứng- cơ sở phương pháp luận
của học thuyết Mác.

– Vai trò nhân tố chủ quan                                                          

C.Mác (1818-1883), Ph.Ăngghen  (1820-1895) đều người Đức, là những thiên tài
trên nhiều lĩnh vực tự nhiên, chính trị, văn hoá-xã hội… Trong bối cảnh nền
đại công nghiệp giữa thế kỷ XIX đã phát triển, hai ông đã đi sâu nghiên cứu xã
hội tư bản chủ nghĩa; kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề
tư tưởng lý luận, khoa học, phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai
cấp công nhân trong tiến trình cách mạng cách mạng xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.

– Giai đoạn C.Mác, Ph.Ăngghen  (1848-1895)

Các Mác và Ph.Ăngghen bắt đầu gặp
nhau từ năm 1844, sớm thống nhất về tư tưởng chính trị, cùng nhau nghiên cứu, phát
hiện ra sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và từ đó chuyển biến sang lập
trường dân chủ cách mạng.

Tháng 2-1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do hai ông
dự thảo được Đồng minh những người cộng
sản
thông qua và công bố ở Luân Đôn, mở đầu sự ra đời chủ nghĩa Mác. Sau đó
hai ông đã viết nhiều tác phẩm, điển hình là bộ sách Tư bản, xây dựng nên học
thuyết khoa học với ba bộ phận lớn gồm triết học, kinh tế chính trị học và chủ
nghĩa xã hội khoa học.

Các Mác và Ph.Ăngghen sáng lập và là
lãnh tụ của Quốc tế I (1863-1876), đặt nền tảng cho sự ra đời phong trào công
nhân quốc tế. Sau khi C.Mác qua đời (1883), vàonăm 1889 Ph.Ăngghen thành lập
Quốc tế II với sự tham gia của nhiều chính đảng của giai cấp công nhân, mở ra
thời kỳ phát triển theo bề rộng của phong trào công nhân quốc tế.

Sự ra đời chủ
nghĩa Mác đáp ứng yêu cầu khách quan, cấp bách của phong trào công nhân; là kết
quả tất yếu của sự kế thừa, phát triển của trí tuệ nhân loại, đã đưa phong trào
công nhân từ tự phát thành tự giác và phát triển ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa.

– V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa Mác (1895-1924)

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin (1870-1924,
người Nga), đã đấu tranh kiên quyết,bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Người đã phân tích những mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản trong điều kiện mới và khẳng định chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn
tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một
vài nước, thậm chí ở một nước kinh tế chưa phát triển cao. Cách mạng vô sản
muốn thắng lợi, tất yếu phải xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Đảng đó phải được tổ chức chặt chẽ và đi theo lý luận của chủ nghĩa Mác. Cách
mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng khít với
nhau…

V.I.Lênin đã lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga (1917-1921) và sau
đó là Liên Xô (1922-1924). Người đã phát triển nhiều vấn đề lý luận mới về xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là chính sách kinh tế mới, công nghiệp hóa, điện khí
hoá toàn quốc, xây dựng quan hệ sản xuất mới, lý luận về Đảng Cộng sản và Nhà
nước kiểu mới, về thực hành dân chủ, phát triển văn hóa, khoa học-kỹ thuật, về
đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…v.v.

Sau khi V.I.Lênin mất, Quốc tế Cộng sản đã bổ sung,
gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin và khẳng định đây là hệ thống lý luận
thống nhất, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới đấu tranh giành chính quyền và tiến hành xây dựng xã hội mới xã
hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.

– Chủ nghĩa Mác-Lênin từ năm 1924 đến nay

Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mở, không ngừng bổ
sung và phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại, là nền
tảng  tư tưởng của các đảng cộng sản và
công nhân trên thế giới, không ngừng được bổ sung, phát triển trong tiến trình
cách mạng của giai cấp công nhân và các dân tộc trên thế giới .

a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng     

Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập quan niệm mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới rất đa
dạng, khác nhau nhưng bản chất là sự tồn tại của thế giới vật chất. “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng
để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác
”[1]. Định nghĩa khẳng định, mọi sự tồn
tại dưới các hình thức cụ thể của các sự vật, hiện tượng là khách quan, độc lập
với ý thức của con người. Vật chất tồn tại khách quan thông qua các sự vật cụ
thể, tác động vào giác quan, gây ra cảm giác của con người. Vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ýthức, còn ý thức chỉ là sự
phản ánh một phần thế giới vật chất vào đầu óc con người.

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
nên vận động và vật chất không tách rời nhau. Vận động của vật chất là vĩnh
viễn vì đó là sự vận động tự thân, do mâu thuẫn bên trong quyết định; do tác
động qua lại giữa các yếu tố trong cùng một sự vật hay giữa các sự vật với
nhau. Có 5 hình thức cơ bản của vận động là vận động cơ học, lý học, hoá học,
sinh học và vận động xã hội. Vận động xã hội là hình thức vận động cao nhất vì
nó là sự vận động các chế độ xã hội thông qua con người. Vận động là tuyệt đối,
là phương thức tồn tại của vật chất. Đứng im là tương đối, có tính chất cá
biệt, chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định.Trong đứng im vẫn có vận động, nên
đứng im là tương đối. Quan điểm này đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng
trong trạng thái vận động, không nên rập khuôn, cứng nhắc khi tình hình đã thay
đổi.

Không gian, thời gian là thuộc tính tồn tại khách quan và
vô tận của vật chấtvận động và được xác định từ sự hữu hạn của các sự vật, quá
trình riêng lẻ. Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian. Quan
điểm này đòi hỏi xem xét sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian nhất
định, trong bối cảnh lịch sử cụ thể và dự báo sự vận động của nó trong tương
lai.

Ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo
hiện thực khách quan của óc người, gồm ba yếu tố cơ bản nhất là tri thức, tình
cảm và ý chí của con người. Do tâm, sinh lý, mục đích, yêu cầu, động cơ và điều
kiện hoàn cảnh của mỗi người khác nhau nên dù cùng hiện thực khách quan nhưng ý
thức con người có thể khác nhau. Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung, bản chất và sự vận động của ý
thức. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại vật chất. Ý
thức có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành so với hiện thực. Sự tác động của ý
thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Quan
điểm này đòi hỏi phải tôn trọng thực tiễn khách quan kết hợp với phát huy tính
năng động chủ quan của con người để cải biến hiện thực. Con người cần rèn luyện
trong thực tiễn lao động và cuộc sống, phát huy tác động tích cực của ý thức,
không trông chờ, ỷ lại khách quan.

Phép biện chứng duy
vật
là lý luận khoa
học bao gồm hai nguyên lý cơ bản; sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản.

– Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là:

+ Nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến.
Nguyên lý này khẳng định
thế giới có vô vàn các
sự vật, hiện tượng nhưng chúng tồn tại trong mối liên hệ tương hỗ, ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp với nhau. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ giữa các
mặt, các yếu tố trong một sự vật hay một hệ thống. Có mối liên hệ bên ngoài là
mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật kia, hệ thống này với hệ thống kia. Có
mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hệ thống, có mối liên hệ riêng của từng
sự vật; có mối liên hệ trực tiếp không thông qua trung gian và có mối liên hệ
gián tiếp, thông qua trung gian. Có các mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên;
mối liên hệ cơ bản và không cơ bản.v.v… Nguyên lý này đòi hỏi phải có quan
điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể để xem xét các mối liên hệ bản chất,
bên trong sự vật, hiện tượng; cần tránh cách nhìn phiến diện, một chiều trong
thực tiễn cuộc sống và công việc.

+ Nguyên lý về sự
phát triển:
Mọi sự
vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Có những vận động
diễn ra theo khuynh hướng đi lên; có khuynh hướng vận động thụt lùi, đi xuống;
có khuynh hướng vận động theo vòng tròn, lặp lại như cũ. Phát triển là khuynh
hướng vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện tượng. Phát triển là khuynh
hướng chung của thế giới và nó có tính phổ biến, được thể hiện trên mọi lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy cần nhận thức sự vật, hiện tượng theo xu
hướng vận động, đổi mới phát triển, tránh cách nhìn phiến diện với tư tưởng bảo
thủ, định kiến.

– Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, bên trong, có tính phổ biến và được lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu
tố trong cùng một sự vật, hiện tượng, hay giữa các sự vật hiện tượng. Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự
phát, thông qua tác động của lực lượng tự nhiên. Quy luật xã hội được hình
thành và tác động thông qua hoạt động của con người. Con người là chủ thể của
xã hội và của lịch sử, nhận biết quy luật để hướng nó theo hướng có lợi nhất cho
mình. Quy luật của xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả hoạt động của con
người. Con người không thể sáng tạo ra hay xoá bỏ quy luật theo ý muốn chủ quan
của mình.

 Phép
biện chứng duy vật có 3 quy luật cơ bản:

+ Quy luật từ những sự thay
đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại

Theo quy luật này, mọi sự vật, hiện tượng đều
gồm hai mặt đối lập chất và lượng. Chất là các thuộc tính khách quan, vốn có
của các sự vật, hiện tượng; còn lượng là chỉ số các yếu tố cấu thành, quy mô
tồn tại và nhịp điệu biến đổi của chúng. Chất và lượng của mỗi sự vật, hiện
tượng tồn tại quy định lẫn nhau. Tương ứng với một lượng thì cũng có một chất
nhất định và ngược lại. Sự thay đổi về lượng đều có khả năng dẫn tới những sự
thay đổi về chất và ngược lại, những sự biến đổi về chất của sự vật lại có thể
tạo ra những khả năng dẫn tới những biến đổi mới về lượng. Sự tác động qua lại
ấy tạo ra phương thức cơ bản quá trình vận động, phát triển của các sự vật,
hiện tượng.

 Sự thống
nhất giữa lượng và chất, được thể hiện trong giới hạn nhất định gọi là độ. Độ
là giới hạn mà ở đó đã có sự biến đổi về lượng nhưng chưa có sự thay đổi về
chất; sự vật khi đó còn là nó, chưa là cái khác. Đến điểm nút, qua bước nhảy
bắt đầu có sự thay đổi về chất, thành sự vật khác.

Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt
thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi sẽ dẫn đến mâu thuẫn, phá vỡ chất cũ,
chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào
đó lại phá vỡ chất cũ thông qua bước nhảy. Quá trình cứ thế tiếp diễn, tạo nên
cách thức vận động phát triển thống nhất giữa tính liên tục và tính đứt đoạn
của sự vật.

Quy luật này chỉ rõ trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, con người phải tích cực chuẩn bị kỹ mọi điều kiện chủ quan,
tích lũy đủ về lượng để có sự biến đổi về chất. Đề phòng bệnh chủ quan, duy ý
chí, muốn các bước nhảy liên tục. Mặt khác, cũng cần khắc phục tư tưởng hữu
khuynh, ngại khó, lo sợ. Khi có tình thế, thời cơ chín muồi thì kiên quyết tổ
chức thực hiện bước nhảy để giành thắng lợi.

Quy luật này chỉ ra về cách thức vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Quy luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập

Theo quy luật này, mọi sự vật, hiện tượng đều
là thể thống nhất của các mặt đối lập. Các mặt đối lập liên hệ với nhau, thâm
nhập vào nhau, tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, bài
trừ, phủ định lẫn nhau đưa đến sự chuyển hoá, thay đổi lên trình độ cao hơn,
hoặc cả hai mặt đối lập cũ mất đi, hình thành hai mặt đối lập mới. Sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc và động lực cơ bản của mọi
sự vận động và phát triển.

Sự thống nhất các mặt đối lập là tương đối; đấu
tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối. Các mặt đối lập vận động trái chiều
nhau, không ngừng tác động, ảnh hưởng đến nhau, làm sự vật, hiện tượng biến
đổi. Kết quả của quá trình đó chứa đựng các yếu tố tích cực và trở thành nguyên
nhân của sự phát triển.

Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự
phát triển và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật; đòi hỏi trong nhận thức
và thực tiễn phải phát hiện và biết phân loại những mâu thuẫn của sự vật hiện
tượng để có các biện pháp để giải quyết thích hợp.

+ Quy luật phủ định
của phủ định

Theo quy luật này, thế giới vật chất tồn tại,
vận động phát triển không ngừng. Sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện, mất đi,
thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay thế đó gọi là phủ định.

Phủ định biện chứng là sự tự phủ định do mâu
thuẫn bên trong, vốn có của sự vật, do có sự kế thừa cái tích cực của sự vật cũ
và được cải biến cho phù hợp với cái mới. Không có kế thừa thì không có phát
triển, nhưng không phải kế thừa toàn bộ mà có chọn lọc. Cái mới phủ định cái
cũ, nhưng cái mới sẽ không phải là mới mãi, nó sẽ cũ đi và bị cái mới khác phủ
định; không có lần phủ định cuối cùng vì quá trình phủ định là vô tận.

Phủ định biện chứng gắn với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể. Phủ định trong tự nhiên khác với phủ định trong xã hội, và cũng
khác với phủ định trong tư duy.

Trong điều kiện nhất định, cái cũ tuy đã bị
thay thế nhưng vẫn còn có những yếu tố vẫn mạnh hơn cái mới. Cái mới còn non
yếu chưa có khả năng thắng ngay cái cũ. Phép biện chứng duy vật khẳng định vận
động phát triển đi lên, là xu hướng chung của thế giới, nhưng không diễn ra
theo đường thẳng tắp, mà diễn ra theo đường xoáy ốc quanh co phức tạp, đi lên.

Quy
luật này vạch ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, đòi hỏi phải xem
xét sự vận động phát triển của sự vật trong quan hệ cái mới ra đời từ cái cũ,
cái tiến bộ ra đời từ cái lạc hậu, để ủng hộ cái mới tiến bộ. Khi gặp bước
thoái trào cần phân tích kỹnguyên nhân, tìm cách khắc phục để từ đó có niềm tin
vào sự phát triển.

– Lý luận nhận thức

Nhận thức là một hoạt động của con người, là
quá trình phản ánh chủ động, tích cực, sáng tạo thế giới khách quan vào trong
đầu óc người. Hoạt động đó được thực hiện thông qua thực tiễn, lấy thực tiễn
làm cơ sở, là mục đích, động lực và là tiêu chuẩn xác định tính đúng đắn của nhận
thức.

Chủ
thể nhận thức là con người nhưng thường bị chi phối bởi điều kiện lịch sử, về
kinh tế, chính trị-xã hội, truyền thống văn hoá; đặc điểm tâm sinh lý, đặc biệt
là năng lực nhận thức, tư duy của chủ thể. Không có sự vật, hiện tượng nào
trong thế giới khách quan mà con người không thể biết được. Những tri thức của
con người về thế giới được thực tiễn kiểm nghiệm là tri thức xác thực, tin cậy.
Nhận thức của con người không phải là quá trình phản ánh thụ động mà là chủ
động, tích cực, sáng tạo, đi từ biết ít đến biết nhiều, từ biết hiện tượng đến
hiểu bản chất sự vật. Muốn có nhận thức đúng đắn, con người phải không ngừng
học hỏi, tích lũy kiến thức để làm giàu tri thức của mình từ kho tàng tri thức
của nhân loại.

Nhận thức của con người là quá trình biện chứng
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và đến thực tiễn. Ban đầu là nhận
thức trực tiếp, cảm tính từ hiện thực khách quan bằng các giác quan. Tiếp theo
là tri giác, là sự phản ánh đối
tượng tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của sự vật do cảm giác đem lại. Từ
tri giác, nhận thức cảm tính chuyển lên hình thức cao hơn là biểu tượng. Biểu tượng
là hình ảnh về sự vật được tái hiện một cách khái quát, khi không còn tri giác
trực tiếp với sự vật. Tư duy trừu
tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức,
dựa trên cơ sở tài liệu do trực quan sinh động đưa lại. Chỉ qua giai đoạn này,
nhận thức mới nắm được bản chất, quy luật của hiện thực.

Nhận thức lý tính tuy
không phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan, nhưng do sự trừu tượng, khái
quát hóa, đã vạch ra được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai
giai đoạn của một quá trình nhận thức có liên hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau. Giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức hiện thực trực tiếp thế giới
khách quan, nhưng đó chỉ là nhận thức những hiện tượng bề ngoài, giản đơn. Nhận
thức lý tính, tuy không phản ánh trực tiếp sự vật hiện tượng, nhưng vạch ra
những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong, vạch ra quy luật vận động phát
triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận
thức lý tính. Nhận thức lý tính khi đã hình thành sẽ tác động trở lại làm cho
nhận thức cảm tính nhạy bén hơn, chính xác hơn. Tư duy trừu tượng phản ánh gián
tiếp hiện thực nên có thể có sự sai lạc. Do vậy, nhận thức ở tư duy trừu tượng
phải kiểm nghiệm trong thực tiễn để phân biệt nhận thức đúng hay sai lệch.

Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn, là con đường biện chứng vô tận, liên tục
của sự nhận thức thế giới khách quan.

– Thực
tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức

Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, cảm
tính, có tính chất lịch sử-xã hội của con người nhằm cải tạo thế giới khách
quan để phục vụ nhu cầu của con người. Hoạt động thực tiễn rất phong phú thể
hiện qua ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính
trị-xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra
của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát
triển xã hội.

Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức vì nó cung cấp những tài liệu hiện thực,
khách quan, làm cơ sở để con người nhận thức. Thực tiễn thường xuyên vận động,
phát triển nên nó luôn luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới
cho nhận thức, do đó thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
vì nó vừa là hiện thực khách quan chứng minh tính đúng, sai về nhận thức của con
người.

Quan
điểm nêu trên cho ta kết luận phải đảm bảo sự thống nhất lý luận và thực tiễn, nhận
thức xuất phát từ thực tiễn. Mỗi người thường xuyên có ý thức tự kiểm tra nhận
thức của mình thông qua thực tiễn đồng thời phải chống mọi biểu hiện của bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

b) Chủ nghĩa duy vật lịch sử

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ cơ
sở vật chất của đời sống xã hội và những quy luật cơ bản của quá trình vận
động, phát triển của xã hội. Đó là các quy luật:

– Quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Theo quan điểm duy vật lịch sử, con người sáng
tạo ra lịch sử và là chủ thể của lịch sử. Con người hoạt động sản xuất ra của
cải vật chất, tinh thần và sản xuất ra chính con người. Để tồn tại và phát
triển, trước tiên con người phải ăn, uống, ở và mặc trước khi có thể làm chính
trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, sinh sản… Muốn vậy, họ phải lao động sản
xuất ra của cải vật chất.

Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất vật
chất trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất gồm
hai mặt cấu thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên, là trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản
xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng
lao động và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất,
luôn đổi mới theo tiến trình phát triển khách quan của sản xuất vật chất.

Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động; quan hệ
trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, trong
đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định các mối quan
hệ khác.

Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau. Lực lượng sản xuất là nội dung
vật chất, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Lực
lượng sản xuất như­ thế nào về trình độ phát triển thì quan hệ sản xuất phù hợp
như thế ấy. Khi trình độ lực lượng sản xuất phát triển, thay đổi thì quan hệ
sản xuất cũng thay đổi theo. Do con người luôn tích luỹ sáng kiến và kinh
nghiệm, luôn cải tiến công cụ và phương pháp sản xuất nên lực lượng sản xuất
luôn phát triển. Khi khoa học, kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, hiện đại nó sẽ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ
nào đó mà quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa, nó sẽ mâu thuẫn và cản trở
lực lượng sản xuất. Để tiếp tục phát triển, lực lượng sản xuất phải phá vỡ quan
hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ mới, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Quan hệ sản xuất là phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố
của lực lượng sản xuất (người lao động, công cụ, đối tượng lao động) để đưa sản
xuất phát triển. Sự phù hợp đó không phải chỉ thực hiện một lần là xong mà diễn
ra cả một quá trình liên tục. Mỗi khi sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất bị phá vỡ là mỗi lần điều chỉnh, thay bằng sự phù hợp khác ở mức cao
hơn.

Quy luật này cho ta nhận thức, muốn xã hội phát
triển; trước hết phải thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Phải ứng dụng
khoa học công nghệ mới, cải tiến công cụ lao động, không ngừng nâng cao trình
độ, kỹ năng của người lao động, năng suất lao động… Phải làm rõ các quan hệ
sở hữu, cách thức tổ chức quản lý quá trình sản xuất và các hình thức phân phối
phù hợp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

– Quy luật về mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất
hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định, bao gồm
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất còn lại­ của hình thái kinh tế-xã
hội trước đó và quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế-xã hội tương lai. Trong
đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo và chi phối các quan hệ sản
xuất khác.

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng
chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học… và những
thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức quần
chúng…, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định và phản ánh cơ sở hạ
tầng đó.

Cơ sở hạ tầng thế nào thì kiến trúc thượng tầng
được xây dựng tương ứng. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc
thượng tầng chính trị phù hợp với nó. Khi cơ sở hạ tầng biến đổi, kiến trúc
thượng tầng biến đổi theo. Biến đổi cơ sở hạ tầng, sớm hay muộn cũng dẫn tới
biến đổi kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, khi cơ sở hạ tầng mất đi nhưng các
bộ phận của kiến trúc thượng tầng mất theo không đều, có bộ phận vẫn tồn tại,
thậm chí nó còn được sử dụng.

Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại, bảo vệ
cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Kiến trúc thượng tầng là tiên tiến khi nó bảo vệ
cơ sở hạ tầng tiến bộ và tác động thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Kiến trúc
thượng tầng bảo thủ, lạc hậu sẽ tác động kìm hãm nhất thời sự phát triển cơ sở
hạ tầng. Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, Nhà nước có vai trò quan
trọng và có hiệu lực mạnh nhất vì Nhà nước là công cụ quản lý hiệu quả của giai
cấp thống trị đối với xã hội

Quy luật này cho ta nhận thức, kinh tế quyết
định chính trị, muốn hiểu các hiện tượng, quá trình xã hội phải xem xét cơ sở
kinh tế nảy sinh các hiện tượng xã hội đó. Chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế và có khả năng thúc đẩy, phát triển kinh tế.

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, hình thái
kinh tế-xã hội được tạo thành bởi ba bộ phận cơ bản là lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào quan hệ
sản xuất. Quan hệ sản xuất lại phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Do đó, sự phát triển hình thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên, tuy nhiên nó diễn ra không phải tự động mà phải thông qua cách mạng xã
hội.


Cách mạng xã hội
là bước
nhảy vọt về chất trong sự phát triển xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng
hình thái kinh tế-xã hội khác, tiến bộ hơn. Trong cách mạng xã hội, quần chúng
nhân dân là động lực cơ bản. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của
cải vật chất và tinh thần cho xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển xã
hội,… là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử xã hội.

Kinh tế chính trị học Mác-Lênin là khoa học
nghiên cứu các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được
đặt trong sự liên hệ biện chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất nhất định

Nghiên cứu kinh tế chính trị học tập trung vào các nội
dung sau:

a) Học thuyết giá trị và giá trị
thặng dư

– Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của C.Mác. Bằng việc
phân tích hàng hoá, C.Mác đã vạch ra quan hệ giữa người với người thông qua
quan hệ trao đổi hàng hoá, đó chính là lao động, cơ sở của giá trị hàng hoá.

Hàng hoá là sản phẩm của lao động, dùng để thoả mãn nhu
cầu của con người thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản
là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng của hàng hoá là công
dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Giá trị trao đổi là
một tỷ lệ, theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá
trị sử dụng loại khác.

Giá trị của
hàng hoá là lượng lao động xã hội được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết
của người sản xuất hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ là hình thái biểu hiện của
giá trị hàng hoá. Để trao đổi hàng hoá đó với nhau phải căn cứ vào giá trị xã
hội của của hàng hoá đó.

Thời gian lao động xã hội cần thiết
là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường
của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động
trung bình so với điều kiện xã hội nhất định. Thời gian lao động xã hội cần
thiết không phải cố định, nó phụ thuộc vào năng suất lao động xã hội và chất
lượng của lao động.

Năng suất lao động xã hội là năng
lực sản xuất của lao động được tính bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra
trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với thời gian lao động xã hội
để sản xuất ra hàng hoá hay tỷ lệ nghịch với giá trị của hàng hoá. Chất lượng
của lao động hay mức độ phức tạp của lao động tỷ lệ thuận với giá trị của hàng
hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản
đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động của bất kỳ một người
bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức
tạp là lao động đòi hỏi phải được huấn luyện đào tạo thành lao động lành nghề.

Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá
tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện của tiền. Tiền, về bản chất, là một loại hàng
hóa đặc biệt, là vật ngang giá chung, thước đo giá trị trong trao đổi hàng hóa;
là kết quả của quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Tiền
xuất hiện là yếu tố ngang giá chung, là hình thái biểu hiện giá trị của hàng
hóa. Tiền phản ảnh lao động xã hội và mối quan hệ giữa người sản xuất và trao
đổi hàng hóa.

Giá trị của hàng hóa biểu hiện ra
bên ngoài dưới hình thức tiền là giá cả của hàng hóa đó. Giá trị là cơ sở của
giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, phụ thuộc vào giá
trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Tuy
nhiên ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như sức cạnh
tranh, cung cầu, sức mua của người tiêu dùng…

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế
căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó
có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị vì trao đổi hàng hoá
phải theo nguyên tắc ngang giá, dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần
thiết.

– Học thuyết giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ học thuyết
kinh tế của C.Mác, là đóng góp to lớn của ông trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Nó chỉ ra bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Nội dung cơ bản của học thuyết là:
Sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định thì tiền biến thành tư
bản. Công thức của lưu thông hàng hóa giản đơn là Hàng-Tiền-Hàng, nghĩa là bán
một hàng hóa đi để mua một hàng hóa khác….Công thức chung của lưu thông tư
bản là Tiền-Hàng-Tiền nhiều hơn, nghĩa là mua để bán nhằm có thêm lợi nhuận.
Phần tiền tăng thêm so với số tiền lúc đầu bỏ vào lưu thông gọi là giá trị
thặng dư.

 Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đã chỉ
rõ nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản khi nhà tư bản thuê công
nhân, tức mua được loại hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động là toàn bộ
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất, tái sản xuất sức lao động. Giá
trị hàng hoá sức lao động bao gồm giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy
trì sức khoẻ của người lao động ở trạng thái bình thường; chi phí đào tạo tuỳ
theo tính chất phức tạp của lao động; giá trị tư liệu sinh hoạt cho con cái của
người lao động. Trên thực tế, giá trị của hàng hóa sức lao động được thể hiện
bằng tiền công, tiền lương. Tiền công hay tiền lương là sự biểu thị bằng tiền
giá trị sức lao động, hay là giá cả của sức lao động.

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao
động để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao
động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị
dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.

Trên thực tế, nhà tư bản trả tiền
lương cho người công nhân, để công nhân làm việc cho họ, tạo ra sản phẩm trong
khoảng thời gian nhất định. Khi đem bán các sản phẩm đó nhà tư bản thu về một
lượng tiền lớn hơn tiền công đã trả cho người công nhân và các chi phí về máy
móc, nguyên liệu, khấu hao nhà xưởng… Nói cách khác, trong sử dụng hàng hóa
sức lao động của người công nhân, họ đã tạo ra một lượng giá trị mới, lớn hơn
giá trị của bản thân nó. Đó chính là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nguồn gốc
tạo ra lợi nhuận, nguồn gốc ngày càng giàu có của chủ tư bản.

Mục đích của các nhà tư bản là sản
xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Họ thường sử dụng hai phương pháp chủ yếu: Sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối thu được do kéo dài thời gian lao động tất yếu,
trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất
yếu không thay đổi. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu
được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động
thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi, thậm chí rút ngắn. Trong
thực tế, việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật,
nâng cao năng suất lao động xã hội để thu giá trị thặng dư vượt trội hơn, đó là
giá trị thặng dư siêu ngạch, một biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy
luật tuyệt đối, là cơ sở tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Học thuyết giá trị thặng dư đã vạch
rõ bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; chứng minh khoa học về cách thức
bóc lột giai cấp công nhân của giai cấp tư sản và luận chứng những mâu thuẫn
nội tại của chủ nghĩa tư bản. Đây là cơ sở khoa học để phân tích nguyên nhân và
dự báo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xoá bỏ
mọi chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa là tất yếu.

Dưới chủ nghĩa xã hội, nhất là trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị thặng dư vẫn có giá
trị. Nó trang bị cho cả giai cấp công nhân và các chủ doanh nghiệp về nguồn gốc
của giá trị thặng dư, từ đó cần quan tâm ứng dụng khoa học-công nghệ hiện đại,
quan tâm nguồn nhân lực chất lượng cao, không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao
năng suất lao động… để tạo ra nhiều giá trị thặng dư, vừa để nâng cao thu
nhập của mình, vừa mang lại lợi ích, xây dựng cơ sở vật chất nhiều hơn choxã
hội.

b) Về chủ nghĩa tư bản độc quyền

Đầu thế kỷ XX, khoa học, kỹ thuật phát triển dẫn đến sự phát triển nhanh
của lực lượng sản xuất. Nhờ vận dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
công nghệ mới vào sản xuất, nhất là sự chuyển đổi từ kỹ thuật cơ khí sang kỹ
thuật điện, với các quá trình chuyển biến trong lòng phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XX,
V.I.Lênin đã đưa ra lý luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền với 5 đặc điểm kinh
tế cơ bản:

Một
là,
sự tích tụ, tập trung sản xuất và tập trung tư
bản với quy mô lớn với sự liên minh giữa các nhà tư bản để nắm trong tay phần
lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hàng hoá nhằm thu lợi nhuận cao- đó làcác tổ
chức độc quyền.

Hai
là,
sự tích tụ và tập trung tư bản ngân hàng ra
đời các tổ chức độc quyền ngân hàng. Tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng hợp
tác hình thành tập đoàn tư bản tài chính, có tiềm lực vốn và lực lượng sản xuất
đủ mạnh, thao túng đời sống kinh tế-chính trị ở các nước.

Ba
là,
xuất khẩu tư bản là thủ đoạn để các nhà tư bản
tài chính tiến hành khai thác sức lao động, tài nguyên thiên nhiên,… ở các
nước chậm phát triển dưới hình thức đầu tư xây dựng nhà máy, doanh nghiệp, tổ
chức sản xuất hoặc cho vay.

Bốn
là,
sự phân chia thị trường thế giới về kinh tế
giữa các tổ chức độc quyền. Khi lượng hàng hoá sản xuất tăng, nảy sinh nhu cầu
thị trường và nguyên liệu ngoài nước; đồng thời việc đầu tư tư bản ở các nước
chậm phát triển thu được lợi nhuận lớn hơn so với đầu tư trong nước nên giữa
các nhà tư bản tài chính diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giành thị trường thế
giới, tạo nên những tổ chức độc quyền quốc tế. Đó là liên minh giữa các tổ chức
độc quyền lớn của các nước để phân chia thị trường thế giới, độc chiếm nguồn
nguyên liệu, quy định quy mô sản xuất, định ra giá cả độc quyền nhằm thu lợi
nhuận độc quyền cao.

Năm
là,
sự phân chia thế giới về lãnh thổ, thực chất là
phân chia thế giới về kinh tế giữa các cường quốc tư bản. Biểu hiện ở việc các
nước đế quốc xâm chiếm thuộc địa, độc chiếm nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu
thụ hàng hoá và thiết lập căn cứ quân sự khống chế các nước khác. Quá trình
phát triển kinh tế không đều giữa các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra sự tranh
chấp thị trường, tất yếu dẫn đến chiến tranh đế quốc để phân chia lại thị
trường thế giới.

Sự xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai
đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, nhưng cơ bản vẫn dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động của người công nhân, thu lợi
nhuận độc quyền cao.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền ra đời đã thúc đẩy nền sản
xuất hàng hoá phát triển ngày càng cao trong nền sản xuất của nhân loại. Đồng
thời, sự ra đời chủ nghĩa tư bản độc quyền gắn với quá trình bóc lột chiếm lợi
nhuận cao dưới nhiều hình thức. Các mâu thuẫn xã hội vốn có trong xã hội tư bản
trước đây, nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã
hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt
hơn. Các cuộc khủng hoảng kinh tế trong xã hội tư bản hiện đại kéo dài, trầm
trọng hơn. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động
với giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc. Sự cạnh tranh kinh tế quyết liệt giữa
các nước tư bản với nhau, các nước tư bản với các nước đang phát triển là nguy
cơ tiềm ẩn dẫn đến xung đột và chiến tranh đe dọa hòa bình và ổn định của thế
giới.

Dưới chủ nghĩa xã hội, nhất là trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn có giá trị. Việc tập trung sản xuất và tập trung vốn với quy mô
lớn thành lập các tập đoàn sản xuất có tính chất quốc gia, giúp cho việc ứng
dụng khoa học-công nghệ hiện đại, nhất là khoa học quản lý, nâng cao sức cạnh
tranh sản phẩm, cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh tranh quốc gia, để tăng trưởng
kinh tế nâng cao tổng sản phẩm thu nhập quốc dân, tạo cơ sở xây dựng cơ sở vật
chất, rút ngắn nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trên thế
giới.

Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy
luật chính trị-xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của
hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã
hội; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, những con đường và hình thức,
phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
nhằm thực hiên sự chuyển hóa từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.

a) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin
đã dùng khái niệm giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện
đại để chỉ lực lượng những người lao động không
phải chủ sở hữu của tư liệu sản xuất mà phải bán sức lao động, nhận tiền lương; tạo ra giá trị thặng dư làm giàu
cho nhà tư bản và xã hội. Giai cấp công nhân ra đời, phát triển cùng với sự
phát triển của nền sản
xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thế kỷ XIX.

Ngày nay, trong bối cảnh cách mạng
khoa học và công nghệ và kinh tế tri thức, khái niệm giai cấp công nhân được mở
rộng hơn, “là một lực lượng xã hội to
lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công
hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”
.

– Đặc điểm của giai cấp công nhân

Giai cấp công nhân ra đời và lớn lên
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp và cách mạng khoa học và công nghệ,
họ đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, có tính chất tiên tiến, gắn với xu hướng phát triển của xã hội.

Trong cuộc đấu tranh của mình, giai
cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để không chỉ để giải phóng mình mà
còn giải phóng toàn bộ xã hội…

Giai cấp công nhân lao động trong hệ
thống sản xuất có tính chất dây chuyền công nghiệp, có thói quen của lối sống ở
đô thị tập trung, tuân thủ các quy định của cộng đồng, pháp luật của nhà nước
nên họ có tính chất tổ chức kỷ luật cao.

Sản xuất công nghiệp và khoa học và
công nghệ có tính chất quốc tế nên giai cấp công nhân có tính chất quốc tế.

– Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công hình thái kinh tế-xã
hội xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là cộng sản chủ nghĩa.

Về kinh tế,
giai cấp công nhân là người đại diện phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về
xu thế phát triển xã hội. Giai cấp công nhân là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao và quan hệ sản xuất mới phù hợp dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Do không có tư liệu sản xuất, là vô
sản làm thuê trong xã hội tư bản, chịu sự cạnh tranh, tác động của thị trường
nên nguyện vọng và lợi ích căn bản của giai cấp công nhân đối lập với nguyện
vọng và lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân có điều kiện đoàn kết
với nhau trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, thiết lập chế động công hữu xã hội chủ nghĩa.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai
cấp công nhân đã trở thành người chủ đất nước, là lực lượng đi đầu lãnh đạo
nhân dân lao động thực hiện cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức bất công và
nghèo nàn lạc hậu bằng đẩy mạnh công nghiệp hóa, thực hiện một kiểu tổ chức mới
về lao động, có năng suất ngày càng cao, với các nguyên tắc sở hữu tư liệu sản
xuất mới, cách thức quản lý sản xuất và tổ chức phân phối sản phẩm phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Về chính trị,do
có tinh thần cách mạng triệt, lợi ích của giai cấp công nhânphù hợp với lợi ích
của đa số quần chúng lao động nên họ có điều kiện khách quan đứng ở vị trí
trung tâm, lãnh đạo và đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác trong cuộc đấu
tranh chống lại giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, tổ chức xây dựng chế độ
mới, chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa

Về văn hóa, tư tưởng, giai cấp công nhân tiến hành cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, cải tạo
những tư tưởng, tàn dư của xã hội cũ, xây dựng hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin,
xây dựng nền văn hóa mới trở thành nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa có đạo đức, lối sống mới xã hội chủ nghĩa.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam ngày
nay là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng Việt
Nam “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

– Tất yếu hình thành chính đảng của giai cấp công nhân

 Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp công nhân đã
phải đấu tranh với giai cấp tư sản để bảo vệ quyền lợi của mình. Sự thất bại
của phong trào công nhân tự phát giữa thế kỷ XIX khách quan đòi hỏi có lý luận
khoa học dẫn đường và đảng chính trị tiền phong lãnh đạo. Sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin và phong trào công nhân tất yếu ra đời chính đảng của giai cấp công
nhân. Đó là quy luật chung ra đời đảng cộng sản- chính đảng của giai cấp công
nhân ở các nước tư bản phát triển.

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định Đảng
là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng có tổ chức chặt chẽ, bao gồm
những người tiên tiến về mặt nhận thức và gương mẫu về mặt hành động trong giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng cộng sản được xây dựng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; có lý luận tiền phong là chủ nghĩa Mác-Lênin làm
nền tảng tư tưởng. Đảng cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân tự giác nhận thức
rõ mục tiêu, con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình là lãnh đạo toàn xã hội đấu tranh xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng
chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

b) Cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc
cách mạng chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo giành chính quyền, thiết lập
hệ thống chính trị của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Cách mạng xã
hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản
xuất mang tính xã hội hoá cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa, biểu hiện
về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Tuy
nhiên, cách mạng xã hội chủ nghĩa không diễn ra tự phát. Chỉ khi giai cấp công
nhân có lý luận dẫn đường, nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, có đội tiên
phong là đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới có thể tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa.

Động lực của cách mạng xã hội chủ
nghĩa là khối đoàn kết, liên minhcông nông, trí thức và các tầng lớp lao động
khác do giai cấp công nhân lãnh đạo.

 Cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính
trị, chủ yếu là đảng cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân và các lực lượng nhân
dân lao động đấu tranh lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập quyền lực chính trị
về tay mình, xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Trên lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ
trọng tâm là phát triển lực lượng sản xuất, tiến hành công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội; xây dựng quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; xây dựng
và phát huy quyền làm chủ của người lao động đối với tư liệu sản xuất; cải
thiện đời sống nhân dân.

Trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa là
tiến hành giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã
hội, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa; phát triển giáo dục-đào tạo, khoa
học công nghệ, văn học nghệ thuật, thông tin và truyền thông, các thiết chế văn
hoá xã hội chủ nghĩa; phát huy giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng con người mới,xây dựng đạo đức, lối
sống mới xã hội chủ nghĩa.

c) Sự phát triển của hình thái kinh
tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định hình
thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao; giai đoạn
đầu là xã hội chủ nghĩa, giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội có một thời kỳ quá độ để cải biến cách mạng từ xã hội
trước sang xã hội sau.

– Về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, quá trình chuyển biến từ xã hội tư bản chủ
nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ để cải
biến toàn diện và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tồn tại đan xen những yếu tố của xã hội cũ chưa
xoá bỏ hết và những nhân tố mới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá-xã hội vừa mới xây dựng chưa đầy đủ, còn non yếu. Xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa là quá trình mới mẻ, chưa có tiền lệ, nhiều khó khăn và phức tạp nên
không thể tiến hành xong trong thời gian ngắn. Cần có thời kỳ quá độ để giai
cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo xây dựng, từng bước hoàn thiện về
chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, con người. Thời kỳ quá độ dài ngắn khác
nhau vì phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, điều kiện, hoàn cảnh
quốc tế và xu thế thời đại.

Về chính trị,
trong thời kỳ quá độ, kẻ thù vừa bị đánh đổ luôn có sự cấu kết trong, ngoài
nước tiếp tục chống phá; đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp tục dưới hình thức
mới, trong điều kiện mới. Cần xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường
quốc phòng, an ninh, xây dựng đảng cộng sản vững mạnh đủ sức lãnh đạo toàn xã
hội đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực và mọi âm mưu, hành động chống phá
cách mạng của các thế lực thù địch, xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa.

Về kinh tế,
do các quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội không tự nảy sinh và phát triển
trong lòng xã hội tư bản, nên cần phải có thời gian để cải tạo quan hệ sản xuất
cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa.Trong thời kỳ quá độ cần thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành
phần, khuyến khích và tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc tự
nguyện, cùng có lợi.Các thành phần kinh tế dưới sự quản lý của nhà nước tồn tại
và phát triển trong mối quan
hệ vừa cạnh tranh, vừa hỗ trợ
nhau thúc đẩy nền sản xuất phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần thực
hiện chính sách thu hút vốn đầu tư của tư bản nước ngoài và sử dụng chuyên gia
tư sản vào sản xuất. Cần phát triển các hợp tác xã,sử dụng và phát triển kinh
tế tư nhân để nó trở thành động lực phát triển kinh tế-xã hội.

Phải phát triển lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng nền công nghiệp,
nông nghiệp hiện đại, có năng suất lao động cao hơn hẳn chủ nghĩa tư
bản. Cần đẩy mạnh công
nghiệp hoá; phát triển mạnh mẽ khoa học kỹ thuật để từng bước xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội với những bước đi hình thức thích hợp.

Về tư tưởng văn hoá, trong thời kỳ
quá độ bên cạnh hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin đang xây dựng, còn tồn tại tư
tưởng tư sản, tiểu tư sản, phong kiến, tiểu nông và các luồng tư tưởng du nhập
từ bên ngoài… Các yếu tố văn hoá cũ và mới tồn tại đan xen, ảnh hưởng, tác
động lẫn nhau. Vì vậy cần có đẩy mạnh hoạt động đấu tranh tư tưởng, khắc phục
những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ
nghĩa, kế thừa tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc giá trị văn hoá
nhân loại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các
tầng lớp dân cư trong xã hội; từng bước xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Theo V.I. Lênin, những nước kinh tế
kém phát triển có thể quá độ tiến thẳnglên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Để thực hiện bước quá độ đó, cần phải có sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, có sự đoàn kết toàn dân tộc và sự giúp đỡ của giai cấp
vô sản các nước tiên tiến.

– Về xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa
xã hội là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản. Tuy chưa chi tiết cụ thể nhưng
C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã dự báo và phác thảo ra xã hội mới tốt đẹp với
những nét lớn, cơ bản.

Xã hội xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản là: Có
cơ sở vật chất-kỹ thuật là nền công nghiệp phát triển ở trình độ hiện đại với
năng suất lao động cao hơn hẳn xã hội tư bản. Có chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất dưới nhiều hình thức; không còn chế độ người bóc lột người. Cách
tổ chức lao động và kỷ luật lao động trên tinh thần tự giác, tự nguyện, bình
đẳng. Có nhiều hình thức phân phối, trong đó thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động và phân phối theo phúc lợi xã hội ngày càng tăng. Có nền văn hóa
mới tiên tiến, phong phú, đa dạng; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện. Các dân tộc đoàn kết, bình
đẳng cùng phát triển. Xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước có tính nhân dân,
tính dân tộc sâu sắc. Có quan hệ quốc tế rộng rãi theo chủ nghĩa quốc tế vô
sản.

– Xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội có những đặc trưng cơ bản sau: Lực
lượng sản xuất với khoa học kỹ thuật phát triển rất cao, của cải xã hội làm ra
rất dồi dào, mọi người “làm theo năng
lực, hưởng theo nhu cầu
”. Con người phát triển tự do và toàn diện năng lực
của mình. Lao động trở thành nhu cầu của con người ngày càng được giảm nhẹ. Xã
hội ngày càng phát triển ở trình độ văn minh; không còn sự khác nhau giữa các
giai cấp, các tầng lớp; không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn,
giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nhân dân làm chủ ở mức độ rất cao.
Những thiết chế chính trị và pháp luật sẽ dần dần mất đi, nhà nước trở thành
không cần thiết, tự tiêu vong.

III. VAI TRÒ

NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

– Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học, thể hiện
trong toàn bộ
ba bộ phận cấu thành học
thuyết

Chủ nghĩa Mác-Lênin gồm ba bộ phận
triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Mỗi bộ phận đóng
vai trò khác nhau trong nhận thức và thực tiễn đời sống xã hội con người.

Triết học Mác-Lênin trang bị cho con
người thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức, cải tạo
và phát triển thế giới. Kinh tế chính trị
học Mác-Lênin
chỉ rõ những quy luật kinh tế chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản,
trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội và và dưới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là lý luận về về cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự hình
thành và phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa; làm rõ lực lượng xã hội to lớn để thực hiện sự nghiệp đó là giai cấp công
nhân và toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, người lãnh đạo toàn xã hội đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.


Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất nêu rõ mục tiêu, con đường, lực
lượng, phương thức giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người

Trên thế giới đã có nhiều học thuyết hướng con
người thoát khỏi mọi khổ đau, đi tới xã hội tự do, bác ái, hạnh phúc, nhưng chỉ
có chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất, nêu rõ mục tiêu xây dựng xã hội
tốt đẹp trên toàn thế giới; chỉ rõ phương hướng, lực lượng, phương thức để thực
hiện giải phóng toàn xã hội khỏi mọi bất công, áp bức;giải phóng mọi giai cấp
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, giải phóng con người khỏi mọi sự ràng buộc của chủ
nghĩa cá nhân, đi tới tự do.

Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ lực lượng để thực hiện công
cuộc giải phóng đó là nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân, thông qua đội tiền phong của mình là đảng cộng sản. Phương pháp để thực
hiện mục tiêu đó là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, biến cải toàn bộ xã
hội cũ, từng bước xây dựng xã hội mới.


Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết mở, sống động, không ngừng tự phê phán,
tự đổi mới, bổ sung và phát triển trong thực tiễn cách mạng

Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mang tính chất
cách mạng, không chỉ
giải thích thế giới, mà còn cải tạo và xây dựng xã hội mới tốt đẹp. Học thuyết
này không phải là một hệ
thống các nguyên lý giáo điều, bất biến mà luôn sống động, gắn với sự phát triển của tri
thức nhân loại. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã từng nói học thuyết của các ông
không phải là cái đã xong xuôi hẳn, có thể có những luận điểm sẽ bị lịch sử
vượt qua và còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện và thực tiễn chứng minh.
Tự phê phán, đổi mới, bổ sung và phát triển chính là yêu cầu bảo đảm sức sống
bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Với mục tiêu cao đẹp, với bản chất khoa học và cách
mạng, phương pháp năng động và linh hoạt, chủ nghĩa Mác-Lênin có sức sống bền
vững. Bổ sung, phát triển hoàn thiện chủ nghĩa Mác-Lênin trong
thực tiễn cách mạng, từng lĩnh vực cụ thể là trách nhiệm của các đảng cộng sản
và công nhân ở từng nước.


Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết
cách mạng,
ý nghĩa thực tiễn, không chỉ giải thích thế giới mà là cải tạo xã hội, xây dựng
chủ nghĩa xã hội hiện thực
.

Từ sau khi Quốc tế Cộng sản ra đời (3-1919) đến
ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lênin đã lan rộng toàn thế giới và trở thành học thuyết
phổ biến trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng
dân tộc. Hàng trăm đảng cộng sản và công nhân được ra đời ở nhiều nước, đưa chủ
nghĩa Mác-Lênin vào quần chúng, trở thành lực lượng vật chất to lớn cho các phong
trào cách mạng. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của các đảng cộng sản trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế phong
trào giải phóng dân tộc.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng, là cơ sở lý luận của các đảng cộng sản trong việc
hoạch định Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo cách mạng; là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là hệ
tư tưởng chủ đạo trong các hoạt động tinh thần của xã hội; là định hướng chủ
đạo trong tư duy mỗi người trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và trong cách
mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Với vai trò là kim chỉ
nam cho hành động, các đảng cộng sản đều lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin làm cơ sở thế giới quan, phương pháp luận nhìn nhận, giải thích xã
hội, tìm ra con đường, lực lượng, phương pháp lãnh đạo phong trào cách mạng của
quần chúng nhân dân để hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của mình.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định,
cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa
Mác-Lênin giúp mỗi người hình thành thế giới quan, phương pháp khoa học để hiểu
rõ mục đích, con đường, bước đi của sự nghiệp quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội;
có tầm nhìn rộng, chủ động sáng tạo trong công việc, khắc phục chủ nghĩa giáo
điều, máy móc, tư tưởng nôn nóng và các sai lầm khác.

 

CÂU HỎI

1. Qua học tập Triết
học Mác-Lênin, em thấy có những gì bổ ích cho nhận thức của mình?

2. Qua học tập Kinh tế
chính trị Mác-Lênin, em thấy có những gì bổ ích cho nhận thức của mình?

3. Qua học tập Chủ
nghĩa xã hội khoa học, em thấy có những gì bổ ích cho nhận thức của mình?