BỒI DƯỠNG GVMN HẠNG II: CHUYÊN ĐỀ 5: QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG | Mầm non Yên Lạc
–Nắm được những nội dung cơ bản liên quan đến chuyên đề: chương trình giáo dục, phát triển chương trình giáo dục, cơ sở lý luận của việc quản lý và phát triển chương trình giáo dục, các bước phát triển chương trình giáo dục.
Nhiệm vụ
Học viên đọc tài liệu kết hợp với hiểu biết cá nhân, trả lời những câu hỏi sau:
-Anh/ chị hiểu như thế nào về chương trình học, phát triển chương trình học?
-Theo anh chị, việc phát triển chương trình học được dựa trên những cơ sở nào?
Hoạt động 2: Tìm hiểu về chương trình giáo dục mầm non, các quan niệm và hình thức thiết kế chương trình giáo dục mầm non
Mục tiêu: Sau hoạt động này, học viên sẽ:
-Hiểu rõ các bước phát triển của chương trình giáo dục mầm non qua các giai đoạn
-Nắm được những điểm cốt lõi của chương trình giáo dục mầm non mới
Nhiệm vụ:
Học viên nghiên cứu tài liệu, kết hợp kinh nghiệm cá nhân, thảo luận nhóm, trả lời các câu hỏi sau:
-Anh chị biết gì về các giai đoạn phát triển của chương trình giáo dục mầm non?
-Chương trình giáo dục mầm non hiện nay có những đặc điểm cốt lõi gì?
Hoạt động 3: Thiết kết 01 chương trình giáo dục mầm non theo chủ đề
Mục tiêu: Từ hoạt động này học viên sẽ:
-Hiểu rõ và thiết kế đươc 01 chương trình giáo dục mầm non, theo chủ đề.
-Giải thích được những nội dung trong bản thiết kế của mình
Nhiệm vụ
-Học viên trao đổi, thảo luận, làm việc nhóm
-Trình bày
-Thảo luận, hiệu chỉnh
B. HỌC LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Chương trình giáo dục mầm non, Nxb Giáo dục.
2.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên mầm non năm học 2009-2010, Nxb Giáo dục.
C. THÔNG TIN PHẢN HỒI
Hoạt động 1: Tìm hiểu một số vấn đề chung
1.1.Chương trình giáo dục
Thuật ngữ chương trình giáo dục xuất hiện từ năm 1820, tuy nhiên phải đến giữa thế kỉ 20, thuật ngữ này mới được sử dụng một cách chuyên nghiệp ở Hoa Kỳ và một số nước có nền giáo dục phát triển. Chương trình giáo dục (Curriculum) có gốc Latinh là Currere, có nghĩa là “to run” (chạy, điều hành hoặc “to run a course” – điều hành một khoá học). Do vậy, định nghĩa truyền thống của chương trình giáo dục là “một khoá học” (Course of Study).
Hầu hết các nhà giáo dục ở giai đoạn đầu xem chương trình giáo dục là một khoá học, một giáo trình – cái hình thành niên một khoá học.
Chương trình học bao gồm các môn học thường xuyên như ngữ pháp, đọc, hùng biện và logic, và toán học (cho các trường tiểu học và trung học) và những môn học tinh tuý nhất của thế giới phương Tây (bắt đầu đưa vào từ trường trung học).
Chương trình học gồm các môn học chủ yếu trong năm lĩnh vực lớn như 1) tiếng mẹ đẻ và ngữ pháp, văn chương và viết; 2) toán học; 3) các môn khoa học; 4) lịch sử; 5) ngoại ngữ.
Chương trình học gồm toàn bộ kiến thức của các môn học. Giáo dục được xem như một quá trình nhằm giúp người học nắm bắt các nội dung kiến thức cấu tạo nên các môn học.
Chương trình học là một hệ thống các khoá học hay môn học cần phải có để được tốt nghiệp hoặc được cấp chứng nhận đã học xong một ngành học.
Chương trình học gồm các môn học cố định như ngữ pháp, đọc, logic, hùng biện, toán và các môn học tinh tuý của thế giới phương Tây.
Định nghĩa chương trình học như là một sản phẩm đã hoàn thiện đã không làm thoả mãn các nhà giáo dục tham gia phát triển chương trình học. Vào đầu thế kỷ này, sự phát triển mạnh mẽ của thông tin đã hàm ý rằng kiến thức không chỉ nằm trong phạm vi các tài liệu in ấn. Với sự phổ biến kiến thức thông qua các phương tiện công nghệ, việc xác định những gì cấu tạo nên các kiến thức thiết yếu là không dễ dàng.
Trong những giai đoạn phát triển tiếp theo, yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, nhiều môn học mới được đưa thêm vào chương trình giáo dục, sự khác biệt giữa người học đã trở nên rõ rệt hơn đối với giáo viên và các nhà quản lí, định nghĩa về chương trình giáo dục bắt đầu được mở rộng. Các chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế chương trình giáo dục bắt đầu phân loại các chương trình giáo dục khác nhau: chương trình giáo dục cho khối cơ bản, khối kĩ thuật, khối thực hành v.v.
Thí dụ: Bobbitt đã viết vào năm 1924
Chương trình giáo dục có thể được định nghĩa theo hai hướng
1. Đó là một loạt các hoạt động nhằm phát hiện khả năng của mỗi người học.
2. Đó là một loạt các hoạt động có chủ định nhằm hoàn thiện người học.
Theo hướng này, vào năm 1935, Hollis và Doak Campbell cho rằng chương trình giáo dục “bao gồm tất cả những hiểu biết và kinh nghiệm mà người học có được sự hướng dẫn của nhà trường”.
Nhiều tác giả khác cũng cho rằng chương trình giáo dục không phải là một sản phẩm được dùng cho lâu dài mà có tính phát triển liên tục, chẳng hạn:
“Chương trình giáo dục là một chuỗi những kinh nghiệm được nhà trường phát triển nhằm giúp người học tăng cường tính kỉ luật, phát triển năng lực tư duy và hành động.”
“Chương trình giáo dục bao gồm tất cả kinh nghiệm mà người học có được dưới sự dẫn dắt của nhà trường.”
“Chương trình giáo dục gồm tất cả những gì người học có được từ một chương trình giáo dục nhằm đạt các mục đích và mục tiêu của nó. Chương trình giáo dục được xây dựng theo khung lí thuyết và nghiên cứu hoặc những thực tiễn nghề nghiệp trong quá khứ hay hiện tại.”
Đến giữa những năm 50 của thế kỉ trước, ảnh hưởng của xã hội tới nhà trường ngày càng rõ hơn, và học sinh không chỉ học được những gì có trong trường học, mà còn tiếp nhận nhiều kinh nghiệm phong phú trong đời sống xã hội. Do vậy, định nghĩa về chương trình giáo dục được mở rộng hơn, không chỉ đơn thuần là những nội dung học được trong nhà trường, chẳng hạn:
“Chương trình giáo dục là tất cả các hoạt động học tập của người học và được kế hoạch hoá bởi trường học nhằm đạt được những mục đích của giáo dục.”
Chương trình giáo dục là một kế hoạch nhằm cung cấp những cơ hội học tập để đạt được những mục đích, mục tiêu cụ thể cho một nhóm đối tượng và ở một nhà trường nào đó.
Vào những năm 60 và tiếp tục sang thế kỷ 21, người ta quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả của chương trình giáo dục. Thí dụ:
Chương trình giáo dục không chỉ quan tâm đến những gì người học phải làm trong quá trình học tập, mà còn là những gì họ sẽ học được từ những việc làm đó. Chương trình giáo dục quan tâm đến những kết quả cuối cùng.
Chương trình giáo dục là những hoạt động học tập được hoạch định và chỉ đạo bởi nhà trường nhằm giúp người học phát triển năng lực cá nhân và xã hội một cách liên tục.
Tóm lại, đối với các nhà chuyên môn nghiên cứu về phát triển chương trình giáo dục đến nửa sau của thế kỷ 20, từ curriculum có thể có những nghĩa sau:
Curriculum – một chương trình học (A program of studies). Ở giai đoạn đầu khi được sử dụng trong giáo dục Hoa Kì, từ curriculum có nghĩa là một chương trình các môn học được tiến hành tuần tự cho một khoá học trong một cơ sở giáo dục.
Curriculum – như một tài liệu (A Document). Một số nhà giáo dục (James McDonald, 1969) xem curriculum như một công cụ để tiến hành giảng dạy và định nghĩa từ này là “những hoạt động giảng dạy được kế hoạch hoá (planned actions for instruction), tức là xem nó là một tài liệu chính thống của nhà trường về hoạt động dạy học.
Curriculum – những kinh nghiệm được kế hoạch hoá (Planned Experiences). Một số nhà giáo dục xem curriculum là những kinh nghiệm được kế hoạch hoá trong nhà trường. Thompson và Gregg (1997) cho rằng curriculum bao gồm mọi khía cạnh được kế hoạch hoá trong chương trình của nhà trường. Caswell và Campbell, 1935 định nghĩa curriculum là “Toàn bộ kinh nghiệm mà học sinh có được dưới sự hướng dẫn của các giáo viên”.
Như vậy, đã có sự chuyển dịch từ việc nhấn mạnh tới nội dung của curriculum sang kinh nghiệm, và đó cũng là sự phản ánh qui trình chuyển đổi tư duy trong giáo dục, từ chỗ lấy nội dung môn học làm trung tâm sang lấy người học làm trung tâm.
Curriculum – là sự kết thúc (as an End). Tất cả những định nghĩa mô tả chương trình như những nội dung cần học hay những kinh nghiệm cần có nêu trên đều có nghĩa là hướng tới một đích cuối cùng nào đó. Ngoài ra còn có định nghĩa “curriculum là tất cả những kết quả đầu ra của quá trình học tập mà nhà trường chịu trách nhiệm”. (Popham & Baker, 1970).
Để có thể có cái nhìn tổng quan về các xu hướng khác nhau trong việc định nghĩa khái niệm curriculum, có thể liệt kê ra đây bảng tổng hợp các định nghĩa về curriculum của Oliva (1977):
Curriculum là tất cả những gì được dạy trong trường.
Curriculum là tập hợp các môn học.
Curriculum là nội dung.
Curriculum là chương trình học tập.
Curriculum là tập hợp các tài liệu học tập.
Curriculum là trình tự các môn học.
Curriculum là tập hợp việc thực hiện các mục tiêu.
Curriculum là khoá học.
Curriculum là tất cả những gì diễn ra trong trường bao gồm cả các hoạt động ngoài giờ học, sự hướng dẫn và các mối quan hệ giữa các cá nhân.
Curriculum là những gì được dùng trong và ngoài trường và do nhà trường điều hành.
Curriculum là tổ hợp các kinh nghiệm mà người học phải trải nghiệm trong nhà trường.
Curriculum là những gì mà một người học trải nghiệm như kết quả của một quá trình học tập.
Tới những năm 90 và kéo dài đến những năm đầu của thế kỷ 21, những quan niệm về chương trình giáo dục có những thay đổi to lớn. Ví dụ, William Doll Jr. (1993) cho rằng một hệ thống giáo dục theo trình tự tuyến tính và định lượng như hiện nay sẽ nhường chỗ cho một hệ thống giáo dục đa dạng và phức tạp hơn, ít có tính ổn định hơn. Một hệ thống như vậy, như chính cuộc sống, sẽ luôn vận động và thay đổi.
Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong việc định nghĩa về chương trình giáo dục. Sự khác nhau đó tuỳ thuộc vào quan niệm của các nhà nghiên cứu và các nhà thực hành khi suy nghĩ và thiết kế chương trình. “Từ điển bách khoa quốc tế về giáo dục” (Oxfofd) đã thống kê 9 định nghĩa khác nhau về chương trình giáo dục. Còn Reisse lại tổng hợp được tới 27 định nghĩa khác nhau về chương trình giáo dục, trong đó ông chia thành 3 nhóm khác nhau về mức độ rộng hẹp, nhiều ít các yếu tố cấu thành chương trình. Tuy nhiên, khuynh hướng chung không chỉ bó hẹp trong hai thành phần là nội dung và mục tiêu dạy học. Chương trình đề cập tới những yếu tố khác của quá trình dạy – học.
Còn theo K.Frey, chương trình giáo dục được định nghĩa như sau: “Chương trình giáo dục là sự trình bày, diễn tả có hệ thống việc dạy – học được dự kiến trong một khoảng thời gian xác định mà sản phẩm của sự trình bày đó là một hệ thống xác định các thành tố khác nhau nhằm chuẩn bị, thực hiện và đánh giá một cách tối ưu việc dạy – học”. Đây là định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu và thực hành quan tâm.
Và mặc dù định nghĩa về chương trình giáo dục luôn thay đổi do tác động của xã hội với những bước tiến khổng lồ về khoa học kĩ thuật và công nghệ, chương trình giáo dục hiện nay được xem như là tập hợp các mục tiêu và giá trị có thể được hình thành ở người học thông qua các hoạt động được kế hoạch hoá và tổ chức trong nhà trường, gắn liền với đời sống xã hội. Mức độ đạt các mục tiêu ấy là thể hiện tính hiệu quả của một chương trình giáo dục. Mục đích của việc thiết kế một chương trình giáo dục phụ thuộc vào đối tượng người học của chương trình giáo dục đó.
Ngày nay, quan niệm về chương trình giáo dục đã rộng hơn, đó không chỉ là việc trình bày mục tiêu cuối cùng và bảng danh mục các nội dung giảng dạy. Chương trình vừa cần cụ thể hơn, bao quát hơn, vừa là một phức hợp bao gồm các bộ phận cấu thành:
– Mục tiêu học tập
– Phạm vi, mức độ và cấu trúc nội dung học tập
– Các phương pháp, hình thức tổ chức học tập
– Đánh giá kết quả học tập.
Như vậy, cấu trúc của chương trình bao gồm hai thành phần chính: sự hình dung trước những thành tích mà người học sẽ đạt được sau một thời gian học tập và cách thức, phương tiện, con đường, điều kiện để mong muốn đó trở thành hiện thực.
Có thể xem định nghĩa sau đây đã bao hàm được những ý đó:
Chương trình giáo dục là sự trình bày có hệ thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt được, đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ nội dung học tập, các phương tiện, phương pháp, cách thức tổ chức học tập, cách đánh giá kết quả học tập v.v nhằm đạt được các mục tiêu học tập đề ra. (Nguyễn Hữu Chí, Viện KHGD 2002).
Như vậy, những thành phần cơ bản của một chương trình giáo dục có thể là:
– Nhu cầu đào tạo
– Mục đích, mục tiêu đào tạo
– Nội dung đào tạo
– Phương thức đào tạo
– Các hình thức tổ chức hoạt động đào tạo
– Các hình thức kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo.
1.2.Phát triển chương trình
Theo nghĩa rộng nhất, phát triển chương trình giáo dục được hiểu là quá trình nghiên cứu, thiết kế, xây dựng và quản lí chương trình giáo dục đào tạo cho một bậc học, ngành học.
Ở mức độ hẹp hơn, chúng ta hiểu sự phát triển chương trình là quá trình nghiên cứu, xây dựng và phát triển chương trình giáo dục đào tạo cụ thể cho một trường từ chương trình khung trên cơ sở tính đến những điều kiện thực tế của từng vùng, miền, từng địa phương, từng trường, đối tượng người học, chứa đựng và thể hiện triết lí riêng của từng trường.
->Điều này sẽ dẫn đến sự khác biệt trong chất lượng sản phẩm đào tạo của các trương. Trong giáo dục mầm non, từ chương trình giáo dục mầm non do bộ giáo dục đào tạo ban hành, từng địa phương hoặc từng trường sẽ triển khai thành chương trình chi tiết, cụ thể phù hợp với địa phương mình hoặc trường mnhf, thể hiện ở sự khác biệt trong xác định mức độ mục tiêu của từng lứa tuổi, ở nội dung phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ và chỉ đạo, tổ chức thực hiện chương trình.
Ví dụ: Khi xác định mục tiêu là giáo dục trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực, hỗ trợ trẻ phát triển tối đa khả năng của mình, đặc biệt là sự tự tin, sáng tạo, độc lập, năng khiếu cá nhân và kĩ năng giao tiết xã hội, tôn trọng đặc điểm riêng của từng trẻ, nuôi dưỡng lòng tự trọng và khả năng tự lập” -> chương trình sẽ đưa nhiều nội dung phát triển tư duy sáng tạo và kĩ năng giao tiếp xã hội.
Mức độ cuối cùng, phát triển chương trình được hiểu là quá trình lên kế hoạch và thực thi chương trình cho một lớp học/ môn học cụ thể do giáo viên đảm nhiệm.
Ví dụ, từ đề cương chi tiết môn học, mỗi giáo viên sẽ dựa vào giáo trình và tài liệu tham khảo để xây dựng kế hoạch giảng dạy, soạn giáo án, lên lớp. Hoặc ở trường mầm non, từ kế hoạch thực hiện chương trình chung của trường, giáo viên mầm non ở mỗi lớp sẽ lựa chọn một nội dung cụ thể (chủ đề cụ thể) để xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện chủ đề cụ thể đó cho từng thời điểm thích hợp với những nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện phù hợp với điều kiện của lớp, và nhu cầu, hứng thú cũng như vốn kinh nghiệm, khả năng của trẻ.
Cuối cùng, phát triển chương trình ở mức độ hẹp nhát là sự điều chỉnh, bổ sung, thay đổi chương trình học, chương trình hoạt động của người học/ của trẻ dựa trên kết quả, khả năng quan sat đánh giá người học/ đánh giá trẻ trong các hoạt động. Như thế, chương trình được hiểu là tất cả những gì diễn ra trong thời gian chúng ta làm việc với trẻ. Có thể mô tả quá trình phát triển chương trình ở mức độ này như sau:
Lập kế hoạch hoạt động -> Tổ chức hoạt động -> Quan sát trẻ và ghi chép -> Phân tích những gì quan sát được -> Đánh giá. (Trung tâm vẫn là trẻ)
->Chất lượng của hai mức độ phát triển chương trình cuối này phụ thuộc chủ yếu vào trình độ, tính sáng tạo, linh hoạt và sự nhạy cảm của giáo viên.
1.3.Một số cách tiếp cận chương trình cơ bản
-Tiếp cận mục tiêu: xuất hiện ở Mỹ những năm 40 và 80 thế kỉ trước. Từ mục tiêu sẽ đưa ra quyết định lựa chọn nội dung giáo dục, phương pháp sư phạm và hình thức đánh giá. Ưu điểm: do xác định được mục tiêu rõ nên đánh giá chất lượng giáo dục tốt. Nhược: không tính đến vai trò tích cực, đặc điểm của người học nên sản phẩm giáo dục mang tính khuôn mẫu, áp đặt.
-Tiếp cận nội dung: Cho rằng giáo dục là truyền thụ nội dung kiến thức. Vì vậy chú ý đến khối lượng và chất lượng kiến thức cần truyền thụ. Ưu điểm: nhìn vào chương trình thấy ngay nội dung kiến thức mà giáo viên sẽ dạy trẻ và trẻ cần học. Nhược điểm: Người học bị động, phụ thuộc người dạy.
-Tiếp cận phát triển: Đây là cách tiếp cận được nhiều người, nhiều nước áp dung. Cách tiếp cận này xem chương trình là quá trình, còn giáo dục là phát triển. Bao gồm phát triển con người, phát triển đứa trẻ. Giáo dục hướng tới phát huy tối đa mọi tiềm năng của đứa trẻ.
-Tiếp cận truyền thống và tiếp cận phù hợp với sự phát triển của trẻ
+Tiếp cận truyền thống nhấn mạnh đến dạy kĩ năng và kiến thức qua môn học riêng rẽ. Ví dụ, trong chương trình cải cách mẫu giáo của Việt Nam, nội dung hoạt động của trẻ ở các độ tuổi phân chia theo môn học như làm quen với môi trường xung quan, biểu tượng toán…
+Tiếp cận thực hành thích hợp với sự phát triển: cách tiếp cận này nhấn mạnh việc học của trẻ mang tính tích hợp và thích hợp. Trẻ học thông qua các hoạt động cá nhân tích cực, qua trải nghiệm và các hành động cụ thể phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi và năng lực của trẻ.
-Tiếp cận dạy học – giáo dục hướng vào trẻ và tiếp cận lấy người lớn làm trung tâm
-Tiếp cận tích hợp, tiếp cận tương hỗ và tiếp cận tách biệt
Hoạt động 2: Tìm hiểu về chương trình giáo dục mầm non, các quan niệm và hình thức thiết kế chương trình giáo dục mầm non
2.1.Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc quản lý phát triển chương trình giáo dục mầm non
2.1.1.Cơ sở lí luận
-Để thiết kế xây dựng và phát triển chương trình giáo dục mầm non phù hợp với sự phát triển của trẻ, chúng ta cần trả lời được câu hỏi: Trẻ học cái gì, học như thế nào, Dạy trẻ như thế nào. Điều này có thể trả lời được khi chúng ta nắm vững về sự phát triển của trẻ nhỏ.
Các học thuyết cơ bản về sự phát triển của trẻ em
–Thuyết xã hội văn hóa của Vư gốt xki
+Khẳng định rằng sự tương tác xã hội đóng vai trò quan trọng với sự học và phát triển của trẻ. Môi trường xã hội được đánh giá cao. Vư gôt xki cho rằng sự phát triển của trẻ vừa là kết quả của sự hòa nhập trẻ vào môi trường văn hóa vừa là sự lĩnh hội của trẻ từ môi trường văn hóa. Người lớn và giáo viên đóng vai trò trung gian hướng dẫn và ủng hộ trẻ.
+Cho rằng giáo viên cần đón trước sự phát riển nhận thức của trẻ, không những cần phải có ý thức dạy trẻ mà còn phải nắm vững khoa học dạy trẻ để dẫn dắt chúng vào vùng phát triển gần nhất.
->Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của giáo viên (nhất là trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ)
-Thuyết tâm lí xã hội của E rik son
+Thuyết này quan tâm đến sự phát triển tình cảm của trẻ. Cho rằng, sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ trong tám năm đầu đời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường xã hội ở gia đình và nhà trường. Cách giao tiếp và ứng xử của người lớn ảnh hưởng lớn đến trẻ. Nếu trẻ sống trong những môi trường xã hội không thuận lợi, nó sẽ mất lòng tin, nghi ngờ, hay mắc lỗi. Vì vậy, giáo viên cần nhạy cảm, làm gowng cư xử hợp lí để trẻ kiềm chế hành vi không phù hợp.
->Khẳng định tầm quan trọng giữa mối quan hệ của người lớn và đứa trẻ và trạng thái tâm lí của những người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ. Từ đây, E rik son đề xuất nhưng yêu cầu đối với các lớp học chuẩn mực
+Tỉ lệ giáo viên – trẻ. Trẻ càng nhỏ thì tỉ lệ càng thấp, vì trẻ nhỏ cần ôm ấp, yêu thương thường xuyên để tạo kra cảm giác an toàn, tin cậy, giúp phát triển tình cảm tốt.
+Cung cấp cho trẻ nhiều cơ hội để nó tự tin lựa chọn các hoạt động chơi, các vật liệu chơi, từ đó phát triển tính độc lập, tự chủ.
-Thuyết hành vi
+Cho rằng bản chất của việc học ở trẻ là thông qua sự bắt chước và quan sát người khác, biến các hành vi quan sát được thành của mình và tái tạo lại hành vi đó. Trẻ có thể học hành vi mới bằng cách bắt chước những bạn đang có hành vi đúng. Đồng thời trẻ cũng quan sát trẻ đang bị phạt vì hành vi không phù hợp để điều chỉnh mình. Thuyết này cũng cho rằng yếu tố quan trọng để trẻ phát triển là tổ chức môi trường và tạo các tình huống gió dục. Việc học diễn ra liên tục là kết quả của việc khích lệ trong môi trường -> Cần khen ngợi trẻ.
–Thuyết phát triển nhận thức của Piaget
+Cho rằng sự phát triển của trẻ thông qua sự giao tiếp qua lại tích cực với cả môi trường vật chất và xã hội.
+Chia nhận thức của con người thành bốn giai đoạn: giai đoạn giác động (nhà trẻ), giai đoạn tiền thao tác (mẫu giáo). Ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ chuyển từ tư duy trực quan hành động sang tư duy trực quan hình tượng.
+Khăng định chơi là hình thức cơ bản giúp trẻ phát triển và khẳng định trong suy nghĩ -> Khuyến khích trẻ chơi.
-Thuyết sinh thái: Nghiên cứu về những môi trường sinh thái và các mối quan hệ qua lại của chúng xung quanh một con người đang trưởng thành. Đối với một đứa trẻ, đó là môi trường trực tiếp như gia đình, trường mầm non, bạn bè rất quan trọng.
-àCác thuyết trên đưa ra sự giải thích về quá trình học và sự nhận thức chiếm lĩnh tri thức của trẻ nhỏ, trả lời câu hỏi trẻ nhỏ học như thế nào.
–Các chuyên gia Unicef tổng kết những nguyên tắc phát triển của trẻ em như sau:
+Sự phát triển của trẻ bắt đầu từ trước khi sinh và việc học xảy ra từ lúc lọt lòng mẹ. Vi vậy, sự quan tâm của người lớn cần bắt đầu từ trước, sau khi sinh và tiếp tục không ngừng.
+Sự phát triển của trẻ gồm nhiều lĩnh vực có quan hệ chặt với nhau, ảnh hưởng qua nhau.
+Sự phát triển diễn ra theo các bước có thể dự doán trước. Điều quan trọng là sử dụng phương pháp phù hợp.
+Sự phát triển và học xảy ra liên tục như là kết quả của sự tương tác, giao tiếp qua lại giữa trẻ và những người xung quanh.
2.1.2.Đặc điểm phát triển của trẻ mầm non
-Quá trình khôn lớn có hai bước: tăng trưởng (các bộ phận cơ thể thay đổi về số đo) và phát triển (Hình thành, hoàn thiện, đa dạng hóa, phức tạp hóa các chức năng). Tăng trưởng và phát triển diễn của trẻ mầm non diễn ra nhanh trên mọi phương diện.
+Tuy nhiên trẻ em lại rất yếu ớt.
+Ngôn ngữ chuyển biến rõ rệt: 1 tuổi bập bẹ, hai tuổi có khoảng 200-300 từ, nói câu ngắn, cuối năm 3 tuổi có thể 1200-1300…
+Hiếu động, tò mò, ham hiểu biết.
2.2.Sự quản lý phát triển chương trình giáo dục mầm non Việt Nam qua các giai đoạn
2.2.1.Giai đoạn từ 1976 – 1986
Lần đầu tiên trong lịch sử của giáo dục Việt Nam đã nghiên cứu xây dựng Chương trình nuôi dạy trẻ nhà trẻ và Chương trình mẫu giáo cải tiến được tiến hành nghiên cứu xây dựng trên cơ sở khoa học giáo dục mầm non theo từng độ tuổi. Trong từng lứa tuổi đã đưa ra mục tiêu, nội dung, phương pháp…, chăm sóc giáo dục trẻ có sự khác nhau. Chương trình này có tác dụng tích cực đến sự phát triển trí tuệ, ngôn ngữ và hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ.
Về Chương trình nuôi dạy trẻ từ 3 đến 36 tháng ở nhà trẻ
Nội dung chương trình được chia theo từng lứa tuổi: từ 3 đến 12 tháng; từ 12 đến 24 tháng; từ 24 đến 36 tháng; Về chăm sóc: rèn luyện ăn ngủ, vệ sinh theo từng độ tuổi, theo thời gian biểu, rèn luyện sức khỏe; Về giáo dục: bao gồm các trò chơi rèn luyện các giác quan, rèn luyện vận động, nhận xét tập nói, một số thể loại trò chơi, hát, múa, kể chuyện, vẽ, nặn, xếp hình, xâu hạt.
Những ưu điểm của chương trình:
Lần đầu tiên trong lịch sử của giáo dục nhà trẻ đã nghiên cứu xây dựng được chương trình nuôi dạy trẻ từ 3 đến 36 tháng; Trong từng lứa tuổi đã đưa ra mục tiêu, nội dung, phương pháp… chăm sóc – giáo dục trẻ có sự khác nhau giữa các năm tuổi; Chương trình có tác dụng tích cực đến sự phát triển trí tuệ, ngôn ngữ và hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ nhỏ; Chương trình đã quy định chặt chẽ toàn bộ thao tác và làm dây chuyền của từng giáo viên trong nhóm trẻ. Do đó đã quản lí được giáo viên về thời gian.
Những tồn tại của chương trình: Mục tiêu chung, mục tiêu riêng trong từng lứa tuổi mang tính chung chung chưa rõ ràng, chưa cụ thể; Nội dung chương trình chưa đề cập đầy đủ 2 nội dung chăm sóc và giáo dục. Sự kết hợp giữa chăm sóc và giáo dục chưa được thể hiện rõ nét; Nội dung của từng mặt giáo dục trong từng năm tuổi còn nghèo nàn, rời rạc. Yêu cầu của một số nội dung đề ra có chỗ cao, có chỗ thấp so với khả năng của trẻ; Chăm sóc và giáo dục trẻ mang nặng tính giáo dục đồng loạt, chưa chú trọng đến sự phát triển cá biệt của từng trẻ. Chưa tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động tích cực; Toàn bộ nội dung chương trình được quy định một cách chặt chẽ, giáo viên không được thay đổi bất kì một nội dung nào. Do đó, giáo viên bị hạn chế khả năng chủ động sáng tạo. Vì phải làm việc theo dây chuyền, thực hiện các thao tác chăm sóc – giáo dục theo đúng quy chế nên các giáo viên không còn đủ sức lực và thời gian để trò chuyện tình cảm với trẻ.
Về Chương trình mẫu giáo cải tiến
Chương trình mẫu giáo gồm 12 môn học được nghiên cứu cải tiến thành chương trình giáo dục mẫu giáo cải tiến 6 môn học.
Những ưu điểm của chương trình: Đây là chương trình lần đầu tiên có nội dung giáo dục được cấu trúc theo hai phương thức: Giáo dục và Giáo dưỡng thông qua tổ chức cuộc sống hàng ngày cho trẻ. Giáo viên chủ động tích cực trong hoạt động với hai phương thức đặc trưng: Quan sát và đàm thoại. Hoạt động vui chơi lần đầu tiên được xem xét và nhìn nhận như một phương tiện giáo dục có hiệu quả đối với trẻ. So với chương trình cũ thì chương trình cải tiến đã có những phương pháp giáo dục phù hợp hơn với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi, đồng thời hướng đến khắc phục tình trạng “phổ thông” hóa giáo dục mẫu giáo. Những hạn chế của chương trình: Phương pháp giáo dục còn mang tính áp đặt từ phía giáo viên (ngay cả đối với tổ chức trò chơi cho trẻ), phương pháp dạy học còn mang nặng dùng lời mô tả, trò chơi là một phương pháp giáo dục dạy học có hiệu quả ở lứa tuổi này ít được sử dụng.
2.2.2.Giai đoạn từ năm 1987 đến đầu thập kỉ 90
Trên cơ sở quán triệt tinh thần Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị khóa IV, Nghị quyết của Trung ương Đảng khóa V và khắc phục những tồn tại của Chương trình nuôi trẻ nhà trẻ và Chương trình mẫu giáo cải tiến, tiếp tục thực hiện những chủ trương đổi mới và phát triển chương trình giáo dục mầm non, Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ em nhà trẻ và trẻ mẫu giáo đã ra đời vào những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX (ban hành năm 1994 theo Quyết định số 1006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Chương trình này chịu ảnh hưởng sâu sắc những thành tựu tiến bộ của nền giáo dục Đông Âu và Liên Xô. Nội dung chương trình được xây dựng theo nguyên tắc cơ bản của giáo dục mầm non, đồng thời chương trình dựa trên các nguyên tắc chỉ đạo chung mang tính khoa học phù hợp với độ tuổi mầm non được dựa trên cơ sở lí thuyết hoạt động cho trẻ phù hợp với đặc điểm phát triển của từng lứa tuổi, kết hợp hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục để trẻ phát triển toàn diện, lấy hoạt động vui chơi làm con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Mặt khác, chương trình còn được xây dựng trên cơ sở chú trọng giáo dục trẻ trong quá trình hoạt động, nhấn mạnh tổ chức các hoạt động chủ đạo phù hợp với từng độ tuổi. Mục tiêu giáo dục nhằm thực hiện giáo dục và phát triển trẻ toàn diện trên các mặt: đức, trí, thể, mĩ. Nội dung giáo dục trong chương trình được cấu trúc lại thành 2 phần, bao gồm: nội dung chăm sóc sức khỏe và nội dung giáo dục – phát triển. Trong phần này, nội dung giáo dục được cấu trúc theo 3 hoạt động cơ bản (hoạt động vui chơi, hoạt động học tập và hoạt động lao động tự phục vụ). Trong đó, hoạt động học tập được cấu trúc không phải là 12 môn học như cũ mà cấu trúc thành 6 “môn học”. Chương trình đã tổ chức theo cách tiếp cận hoạt động và theo nội dung môn học; đảm bảo tính hệ thống, liên tục, kế thừa trong nhiệm vụ chăm sóc – giáo dục trẻ giữa các lớp tuổi.
– Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ (từ 3 đến 36 tháng): Chương trình đã thực hiện được những nguyên tắc cơ bản của giáo dục mầm non như chương trình có mục đích rõ ràng, nội dung chương trình phục vụ cho mục tiêu đào tạo theo Quyết định 55 của Bộ giáo dục và Đào tạo. Chương trình được xây dựng trên cơ sở đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, thể hiện rõ sự kết hợp chặt chẽ Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo từ 3-6 tuổi: Chương trình đã hướng đến thực hiện mục tiêu giáo dục và đảm bảo nội dung giáo dục toàn diện trên các mặt: thể, trí, đức, mĩ. Nội dung giáo dục thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nội dung chăm sóc và giáo dục. Chương trình đã thể hiện việc giáo dục trong trường mẫu giáo là có mục đích, có kế hoạch và được tổ chức thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Chương trình coi trọng hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi nhưng cũng coi trọng việc học tập và hoạt động khác (lễ hội và lao động). Hoạt động học tập được biên soạn theo các môn (Thể dục, Tạo hình, Giáo dục âm nhạc, Làm quen với văn học, Làm quen với môi trường xung quanh, Hình thành các biểu tượng toán sơ đẳng). Các môn học đều được xác định mức độ yêu cầu nội dung cụ thể cho từng độ tuổi. Nội dung giáo dục được sắp xếp theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó giúp cho giáo viên dễ dàng xây dựng kế hoạch và thiết kế triển khai các hoạt động giáo dục. Chương trình cũng đã chú ý đến việc chuẩn bị cho trẻ những kĩ năng cần thiết để sau này dễ dàng thích nghi với việc học tập ở trường phổ thông.
Như vậy, chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 0 đến 6 tuổi được thiết kế và thực hiện trong giai đoạn này đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ, tạo được vị trí cần thiết của giáo dục mầm non trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên chương trình vẫn thể hiện một số hạn chế sau đây:
Về mục tiêu: Chưa chú trọng giáo dục hình thành các giá trị nhân cách như: tính độc lập, tự tin, hành vi văn minh trong giao tiếp, tự giác, năng động, tự chủ, dễ hòa nhập với bạn bè, nhóm lớp… Mục tiêu chưa chú trọng đầy đủ đến nhiệm vụ chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
Về nội dung: Nội dung giáo dục còn nặng về cung cấp kiến thức cho trẻ mà coi nhẹ việc rèn luyện kĩ năng, thói quen cần thiết cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Một số nội dung chưa cập nhật và còn mờ nhạt:
+ Phần chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng chỉ dừng lại ở việc đưa ra yêu cầu cho người chăm sóc trẻ, chưa thành nội dung giáo dục trẻ (như giáo dục dinh dưỡng, giáo dục môi trường).
+ Sự phân phối nội dung trong các hoạt động chưa cân đối, chưa làm rõ vị trí, vai trò, chức năng của hoạt động chủ đạo. Quá trình giáo dục trẻ còn nặng về nội dung dạy học.
+ Chương trình thiếu các nội dung giáo dục mang tính toàn cầu và cấp thiết hiện nay ở nước ta như: giáo dục nhân văn, giáo dục giới tính, giáo dục môi trường, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục pháp luật sơ đẳng phù hợp với trẻ.
+ Nội dung giáo dục mang tính dân tộc, chưa quán triệt trong các hoạt động giáo dục, nhất là các nội dung về truyền thống văn hóa của các địa phương khác nhau, các dân tộc khác nhau trên toàn quốc
– Về phương pháp: Cách thức và cách vận dụng các phương pháp đặc trưng cho lứa tuổi mầm non và các phương pháp nhằm phát huy tư duy tích cực của trẻ còn thấp. Trẻ ít được hoạt động và rất thụ động. Giáo viên nói nhiều hoặc làm mẫu là chính. Phương pháp giáo dục mang tính đồng loạt.
2.2.3.Giai đoạn từ 1995 đến 2002
Trước những yêu cầu của thời kì mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, trước xu thế đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới giáo dục mầm nói riêng trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong xu thế hội nhập vào cộng đồng quốc tế và khu vực, các chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non hiện hành đã bộc lộ những hạn chế, đặc biệt thể hiện ở việc thực hiện các phương pháp chăm sóc – giáo dục trẻ và việc tổ chức các hoạt động giáo dục. Đây cũng là giai đoạn mà xu hướng đổi mới về phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục là những vấn đề cấp bách.
Chương trình đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục
Lần đầu tiên, nội dung chương trình đã tổ chức các nội dung giáo dục theo hướng tích hợp chủ đề và đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục theo hướng tiếp cận tích hợp. Trong đó, mỗi chủ đề đều xác định các đơn vị kiến thức, kĩ năng, thái độ cần cung cấp và hình thành ở trẻ và đều nhằm phát triển tổng thể các mặt: thể lực, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, xã hội. Sử dụng hình thức mạng “mở” giúp giáo viên nhìn rõ các mối liên quan giữa các nội dung kiến thức và các hoạt động mang tính tích hợp trong phạm vi chủ đề này với chủ đề khác. Đồng thời Chương trình còn khuyến khích giáo viên áp dụng các phương pháp dạy học khác nhau một cách sáng tạo. Tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học bằng cách xây dựng các góc hoạt động để có cơ hội sử dụng các phương pháp và kĩ thuật nhằm tích cực hóa hoạt động tư duy của trẻ (giao nhiệm vụ để trẻ suy nghĩ giải quyết vấn đề, gợi mở, sử dụng các câu hỏi mở, động não, trò chơi phân vai theo chủ đề) và phương pháp cùng tham gia (nhóm nhỏ). Giáo viên có thể xác định, lựa chọn và tổ chức nhiều hoạt động để tạo điều kiện cho trẻ có thể “học” qua chơi, “học” qua thực hành. Nhờ đó, trẻ có thể lĩnh hội kiến thức và kĩ năng liên quan đến chủ đề một cách tự nhiên và có được những kinh nghiệm mang tính tích hợp cần cho cuộc sống của trẻ. Khuyến khích giáo viên tận dụng các điều kiện hoàn cảnh ở trong môi trường lớp học và trường học, các nguyên vật liệu sẵn có và các phế liệu thích hợp và an toàn với trẻ để hướng dẫn trẻ tìm hiểu, khám phá và làm các sản phẩm mới mang tính sáng tạo. Khi tổ chức các hoạt động, giáo viên có thể tổ chức lồng ghép, đan cài để tạo thành một chỉnh thể. Chương trình còn nhấn mạnh vào quá trình giáo dục, dạy học và việc đánh giá thường xuyên hoạt động dạy và học dựa vào các mục tiêu, yêu cầu đề ra trong từng chủ đề. Đây cũng là chương trình sử dụng các phương pháp dạy học tích cực có hiệu quả. Qua đó, trẻ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo cơ hội cho trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, phát triển tư duy. Phương pháp này đã khuyến khích trẻ tích cực hoạt động cá nhân và hoạt động trong nhóm/ lớp, đồng thời tạo mối quan hệ giao tiếp giữa trẻ với nhau và giữa trẻ với cô giáo. Để áp dụng tốt phương pháp dạy học tích cực trong giáo dục mầm non, trước hết, giáo viên cần:
-Dựa vào vốn kinh nghiệm của trẻ, khai thác khả năng hoạt động của trẻ, tạo mọi cơ hội để trẻ phát triển khả năng tự khám phá, tìm tòi, trải nghiệm… đối tượng nhận thức.
-Kích thích động cơ bên trong của trẻ, gây hứng thú, lôi cuốn trẻ vào các hoạt động; tạo các tình huống có vấn đề cho trẻ hoạt động, đặc biệt là hoạt động nhận thức.
-Phát hiện những biểu hiện tích cực hoạt động của trẻ để tạo tình huống, cơ hội và kích thích trẻ tham gia hoạt động.
-Khuyến khích trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động và trải nghiệm, tự hoàn thiện. Tôn trọng sự suy nghĩ sáng tạo của trẻ, chống gò ép, áp đặt, áp đặt làm cho trẻ thụ động.
Chương trình đổi mới hình thức các hoạt động giáo dục trẻ là một chương trình có nhiều ưu điểm, cụ thể là:
+Chương trình với hướng tiếp cận chủ đề đã tạo ra sự tác động đồng bộ đến trẻ.
+Nội dung giáo dục sẽ được lặp đi, lặp lại thông qua chủ đề, vì vậy sẽ tác động đến trẻ, hình thành ở trẻ khả năng nhận thức và những kĩ năng bền vững.
+Giảm tải các nội dung đưa vào các hoạt động nhằm phát huy được tính tích cực hoạt động chủ đạo của trẻ.
+Chương trình tạo điều kiện cho giáo viên được học hỏi và trau dồi kinh nghiệm, hình thành những kĩ năng cần thiết cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường mầm non, từ đó giáo viên sẽ trở nên linh hoạt và sáng tạo hơn.
Chương trình chính là khâu đổi mới cơ bản, đổi mới thực hiện từ những năm 2000 đến năm 2009, tạo điều kiện cho đổi mới một cách đồng bộ toàn bộ chương trình, là một bước đệm quan trọng để chuyển sang chương trình Giáo dục mầm non mới.
2.2.4.Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Chương trình Giáo dục mầm non mới được biên soạn trên cơ sở quy định của Luật Giáo dục và đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ban hành theo Thông tư số 17/2009/TT- BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009.
Chương trình được ban hành xuất phát từ những lí do: Thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo nói chung và giáo dục mầm non nói riêng của Đảng và Nhà nước; Sự đổi mới chương trình của các cấp học, đặc biệt là tiểu học; Những bất cập, hạn chế của Chương trình cải cách được ban hành từ năm 1994, 1995 như chương trình chủ yếu tập trung đề cập nội dung giáo dục mà chưa thể hiện đầy đủ các thành tố khác của chương trình, nội dung trong các hoạt động giáo dục chưa mang tính tích hợp, chưa tạo được sự gắn kết, nội dung các hoạt động học tập còn nặng về cung cấp kiến thức riêng lẻ, chưa coi trọng việc hình thành và phát triển các năng lực, kĩ năng sống cho trẻ; Những ưu điểm của Đổi mới hình thức thực hiện từ năm 2000; Những nhu cầu và sự phát triển của trẻ trong những năm gần đây có sự thay đổi; Những xu hướng đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng trên thế giới và trong nước.
Chương trình GDMN được tiến hành nghiên cứu xây dựng từ năm 2002 theo quy trình khoa học với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà sư phạm, cán bộ quản lí, giáo viên mầm non. Chương trình ban hành là chương trình khung có kế thừa những ưu việt của các chương trình chăm sóc giáo dục trẻ trước đây. Chương trình GDMN mới đã tiếp thu những tinh hoa của chương trình GDMN trong và ngoài nước. Tư tưởng cốt lõi của chương trình được thể hiện một cách nhất quán theo các quan điểm sau:
-Chương trình mầm non hướng đến sự phát triển toàn diện của trẻ.
-Chương trình tạo điều kiện cho trẻ phát triển liên tục.
-Chương trình đảm bảo đáp ứng sự đa dạng của các vùng miền, các đối tượng trẻ.
Cấu trúc của chương trình giáo dục mầm non
Cấu trúc của chương trình giáo dục mầm non gồm ba nội dung lớn (3 phần):
-Phần một: Những vấn đề chung.
-Phần hai: Chương trình giáo dục nhà trẻ.
-Phần ba: Chương trình giáo dục mẫu giáo.
Những vấn đề chung, bao gồm các nội dung: Mục tiêu giáo dục mầm non; Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình; Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục mầm non và đánh giá trẻ; Cấu trúc chương trình; Quy định về hướng dẫn thực hiện chương trình.
-Chương trình giáo dục nhà trẻ và Chương trình giáo dục mẫu giáo đều bao gồm:
+Mục tiêu: Phần này đề cập mục tiêu phát triển toàn diện cuối độ tuổi về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội và thẩm mĩ;
+Kế hoạch thực hiện: Phần này đề cập phân phối thời gian trong năm học và chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở các cơ sở Giáo dục mầm non.
-Nội dung:
+ Nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe: Phần này đề cập việc tổ chức ăn uống, ngủ, vệ sinh, sức khỏe và an toàn cho trẻ;
+ Giáo dục: Nội dung giáo dục được xây dựng theo các lĩnh vực phát triển và theo độ tuổi.
Nội dung giáo dục nhà trẻ được chia thành 4 lĩnh vực: giáo dục phát triển thể chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát triển ngôn ngữ, giáo dục phát triển tình cảm – xã hội và thẩm mĩ.
Nội dung giáo dục mẫu giáo được chia thành 5 lĩnh vực: giáo dục phát triển thể chất, giáo dục phát triển nhận thức, giáo dục phát triển ngôn ngữ, giáo dục phát triển tình cảm – xã hội và giáo dục phát triển thẩm mĩ.
– Kết quả mong đợi: Phần này mô tả những gì trẻ trong độ tuổi cần và có thể thực hiện nhằm định hướng cho giáo viên tổ chức hướng dẫn có hiệu quả các hoạt động giáo dục phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội, thẩm mĩ, chuẩn bị tốt cho trẻ khi nhập học ở trường phổ thông.
-Các hoạt động giáo dục, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục: Phần này đề cập các hoạt động giáo dục cơ bản, các hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục trẻ.
-Đánh giáo sự phát triển của trẻ: Phần này đề cập mục đích, nội dung, phương pháp, thời điểm, cách đánh giá trẻ hàng ngày và đánh giá sự phát triển của trẻ theo giai đoạn.
Những điểm mới của chương trình
-Chương trình giáo dục trẻ nhà trẻ và trẻ mẫu giáo được cấu trúc thành một chương trình chung với tên gọi: Chương trình giáo dục mầm non.
-Chương trình giáo dục mầm non cấp quốc gia mang tính chất khung :
+ Nội dung chương trình gồm những nội dung cốt lõi, cơ bản phù hợp theo từng độ tuổi.
+ Chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ động của giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể phù hợp với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương.
+ Các hoạt động giáo dục, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục; đánh giá sự phát triển của trẻ được đưa vào như là một thành tố của chương trình.
+ Kết quả mong đợi được đưa vào chương trình nhằm định hướng cho giáo viên tổ chức, hướng dẫn có hiệu quả các hoạt động giáo dục phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội, thẩm mĩ, chuẩn bị tốt cho trẻ khi vào học ở trường phổ thông.
-Mục tiêu:
+ Mục tiêu được xây dựng cho trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ và cuối độ tuổi mẫu giáo theo lĩnh vực phát triển của trẻ nhằm hướng đến phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội, thẩm mĩ.
+ Chú trọng hình thành ở trẻ những chức năng tâm lí, năng lực chung của con người. Phát triển tối đa tiềm năng vốn có, hình thành những kĩ năng sống cần thiết cho trẻ và phù hợp với yêu cầu của gia đình, cộng đồng, xã hội.
+ Chuẩn bị tốt cho trẻ vào học giai đoạn sau.
– Nội dung giáo dục:
+ Nội dung giáo dục xây dựng theo các lĩnh vực phát triển của trẻ: 4 lĩnh vực phát triển với chương trình nhà trẻ và 5 lĩnh vực phát triển với chương trình mẫu giáo. Nội dung chăm sóc giáo dục trẻ được đổi mới theo hướng đảm bảo tính tích hợp giữa nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe với giáo dục phát triển, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non hiện nay. Bổ sung một số nội dung thiết thực đảm bảo giáo dục trẻ toàn diện và gắn với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ. Hệ thống các chủ đề hoặc các vấn đề giáo dục được thiết kế theo sơ đồ hình “mạng lưới” với hình thức mạng mở. Mỗi chủ đề lớn được xây dựng hướng tới thực hiện mục tiêu cụ thể. Mạng hoạt động tích hợp cho phép giáo viên tổ chức, phối hợp các hoạt động giáo dục trong mối liên hệ hỗ trợ tác động qua lại, lẫn nhau giữa hoạt động trọng tâm với các hoạt động có tính chất bổ trợ, nhằm mở rộng và thực hiện nội dung chủ đề có hiệu quả. Các hoạt động và phương tiện giáo dục được tổ chức lồng ghép, đan cài và mang tính tích hợp được lựa chọn phù hợp với chủ đề giáo dục đáp ứng nhu cầu hứng thú và phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương và nhóm lớp.
-Phương pháp giáo dục:
+ Tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động với các hình thức đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu, hứng thú và hoạt động tích cực của trẻ.
+ Tạo cơ hội cho trẻ hoạt động, trải nghiệm, khám phá bằng vận động thân thể và các giác quan dưới nhiều hình thức.
+ Chú trọng tổ chức hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi.
+ Chú trọng đến việc trẻ “học như thế nào” hơn là “học cái gì”, coi trọng quá trình hơn là kết quả hoạt động; học một cách tích cực qua tìm hiểu, trải nghiệm, học thông qua sự hợp tác giữa trẻ với người lớn và giữa trẻ với trẻ.
+ Coi trọng tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động: tạo môi trường kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo và phát triển phù hợp với từng cá nhân trẻ; xây dựng các khu vực hoạt động; tận dụng các điều kiện, hoàn cảnh sẵn có của địa phương; sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương.
+ Chú trọng việc giao tiếp, gắn bó giữa người lớn với trẻ và trẻ với trẻ.
+ Phối hợp các phương pháp hợp lí, nhằm tăng cường ở trẻ tính chủ động, tích cực hoạt động, đảm bảo trẻ “học mà chơi, chơi mà học”.
+ Coi trọng tiếp cận cá nhân trong chăm sóc, giáo dục trẻ.
-Đánh giá sự phát triển của trẻ:
+ Có sự phối hợp nhiều phương pháp, hình thức đánh giá.
+ Chú trọng đánh giá sự tiến bộ của từng trẻ, trên cơ sở đó giúp giáo viên điều chỉnh kế hoạch giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục tiếp theo cho phù hợp với hoạt động thực tế và với trẻ.
+ Coi trọng đánh giá trẻ thường xuyên qua quan sát hoạt động hàng ngày.
Những điểm mới trong cấu trúc cũng như nội dung của chương trình cho thấy chương trình được xây dựng theo hướng đổi mới đã giúp giáo viên có cái nhìn tổng thể về nội dung chương trình, những gì trẻ cần phát triển, cần được phát triển đồng bộ phù hợp với độ tuổi để trẻ phát triển một cách toàn diện. Nội dung giáo dục trong chương trình được thể hiện và cấu trúc theo mạng chương trình và theo các mức độ phù hợp các độ tuổi. Qua đó, giúp giáo viên, các nhà quản lí nhận thấy được các mức độ nội dung khác nhau theo các độ tuổi, giáo viên sẽ chủ động, linh hoạt hơn trong việc thực hiện nội dung chương trình, lựa chọn tích hợp nội dung giáo dục phù hợp với chủ đề và phù hợp với độ tuổi của trẻ. Để thực hiện chương trình này, đòi hỏi giáo viên phải luôn tìm ra cái mới để đáp ứng nhu cầu và hứng thú tìm tòi trải nghiệm của trẻ, giúp trẻ phát triển tốt theo yêu cầu của chương trình; đặc biệt, chương trình còn có thêm phần hướng dẫn dành cho trẻ khuyết tật, nội dung phối hợp với gia đình nhà trường và cộng đồng, các kiến thức về chăm sóc và nuôi dưỡng. Như vậy, chương trình giáo dục mầm non mới là một chương trình mềm dẻo và linh hoạt, có độ mở, giúp giáo viên linh hoạt lựa chọn nội dung, phương pháp để phù hợp với khả năng của trẻ và tình hình thực tế của địa phương. Chương trình giúp giáo viên liên tục được học hỏi và trau dồi kinh nghiệm, từ đó trở thành cá nhân năng động, tích cực, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển giáo dục của nước nhà.
Đổi mới giáo dục mầm non và đổi mới chương trình giáo dục mầm non là tất yếu trong xu hướng đổi mới của giáo dục và đào tạo nói chung. Đây là xu hướng tất yếu phù hợp với điều kiện của đất nước và trình độ của giáo viên, góp phần nâng cao chất lượng của công tác giáo dục.
2.4. Các quan điểm trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non hiện nay
Những năm tuổi nhỏ có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển và học tập sau này của trẻ. Cung cấp những kinh nghiệm có chất lượng tạo nên sự khác biệt trong thành quả sau này của trẻ.
Trẻ nhỏ là người học tự nhiên và tích cực. Chúng thích thú:
Quan sát
Khám phá
Tưởng tượng
Tìm kiếm
Nghiên cứu
Thu thập thông tin
Hợp tác, chia sẻ hiểu biết
Sự giao tiếp tích cực giữa trẻ và người lớn, giữa trẻ với trẻ thúc đẩy thái độ tốt đối với việc học. Điều đó đạt được thông qua cả 2 con đường: chơi và học tập có kế hoạch trong môi trường hấp dẫn và an toàn.
2.4.1.Trẻ là người học tích cực
Sự phát triển của trẻ diễn ra trong quá trình trẻ tương tác với môi trường xung quanh. Trẻ học một cách tự nhiên và tích cực. Trong cuộc sống trẻ rất thích quan sát, thử nghiệm, tưởng tượng, khám phá, thu thập thông tin, luôn chia sẻ khi có điều kiện.
Như vậy, việc học tập sẽ có hiệu quả khi trẻ tích cực tham gia và thu hút vào thực hiện các nhiệm vụ mà chùng cho là có ý nghĩa. Điều đó có nghĩa trẻ phải được hoạt động. Việc tổ chức cho trẻ học chính là tạo các cơ hội để trẻ quan sát, nghiên cứu, khám phá, trải nghiệm các hoạt động thực hành. Những hoạt động này phải dựa trên nhu cầu và hứng thú của trẻ. Nếu việc học được tổ chức như vậy thì trẻ sẽ là người học tích cực trong quá trình đó.
2.4.2.Trẻ học qua chơi
Chơi là sống còn đối với việc học của trẻ. Trò chơi là phương tiện để kích thích trẻ khám phá, tìm kiếm, chấp nhận mạo hiểm, mắc lỗi và vượt qua thất bai. Nó cho phép trẻ tham gia vào tổ chức, đưa ra quyết định, lựa chọn, thực hành, tiếp nhận và thể hiện cảm xúc, tình cảm. Trò chơi khuyến khích trẻ tự nguyện, tưởng tượng và tích cực sử dụng ngôn ngữ.
Điều đó sẽ phát triển và mở rộng:
Tính sáng tạo
Các kỹ năng nghe, nói
Ngôn ngữ liên quan đến toán và hiểu biết môi trường
Các kỹ năng cá nhân và xã hội
Giáo viên cần tôn trọng sự tự do lựa chọn trò chơi của trẻ, không nên ép trẻ chơi theo chủ để một cách gượng ép. Để trẻ chơi một cách tự nguyện giáo viên cần có kế hoạch làm giàu vốn kinh nghiệm của trẻ bằng nhiều cách khác nhau quan sát thực tế, qua các câu chuyện, tranh ảnh… từ vốn kinh nghiệm đó trẻ tự nguyện tái tạo lại trong trò chơi của mình.
2.4.3.Người lớn là người hỗ trợ trẻ trong việc học
Người lớn cần cung cấp cho trẻ các trải nghiệm hỗ trợ và mở rộng kiến thức, kỹ năng, hiểu biết và tính tự tin, và giúp trẻ vượt qua bất kỳ khó khăn nào.
Hoạt động hỗ trợ sự phát triển trước tiên là nhận thức cái gì trẻ biết, có thể làm và sau đó tạo ra các trải nghiệm học tập. Để làm điều đó người lớn là người quan sát tinh tế những nhu cầu và khả năng của trẻ. Người lớn cần phải nhận ra khi nào trẻ cảm thấy căng thẳng với hoạt động khó. Hỗ trợ nên khi tạo điều kiện hình thành tính tự tin qua thực hành và hiểu biết.
Mục tiêu là trẻ cảm thấy thoả mãn và độc lập khi thực hiện các hoạt động. Điều đó chỉ có thể đạt được khi trẻ cảm thấy thoải mái để chấp nhận những mạo hiểm trong học tập. Người lớn có thể chỉ dẫn trẻ đến thử thách tiếp theo hoặc khó hơn.
Mong muốn và yêu cầu đối với trẻ có thể trở nên hiện thực khi dựa trên mức độ phát triển ở tất cả các lĩnh vực. Nhiệm vụ của người lớn là phải khuyến khích thái độ tốt đối với việc học và tiếp nhận mạo hiểm không sợ thất bại. Trẻ học có hiệu quả tốt nhất khi chúng là chủ thể của hoạt động. Điều này có nghĩa là: hỗ trợ việc học của trẻ có nghĩa là giáo viên là người tổ chức hoạt động cho trẻ. Trẻ là người thực hiện hoạt động đó, tuyệt đối giáo viên không làm thay. Muốn vậy thì hoạt động đó phải vừa sức đối với trẻ. Không đặt yêu cầu cao hơn hoặc thấp hơn so với khả năng của trẻ. Song để cho hoạt động có ý nghĩa phát triển thì yêu cầu đó phải “nằm trong vùng phát triển gần nhất” – trẻ không tự thực hiện được nhưng có thể làm được khi có sự giúp đỡ của người khác.
Nhiều cơ hội cần được cung cấp để trẻ học cách quan sát, nghiên cứu, khám phá và các hoạt động thực hành. Người lớn tạo các trải nghiệm học tập cả ở gia đình và ở trường cần lưu ý các điểm sau:
Cho phép sự bừa bộ: quá trình khám phá, thử nghiệm và sáng tạo các sản phẩm độc đáo thường xuyên tạo ra sự bừa bộn và là một phần của học tập tích cực.
Cho trẻ tin chắc rằng môi trường an toàn với trẻ.
Cho phép mắc lỗi: trẻ không cảm thấy sợ khi thử những cái mới. Thậm chí trẻ mắc lỗi hoặc gặp thất bại khi làm gì đó, chúng cần được khuyến khích thử lại và động viên sự cố gằng của trẻ.
2.4.4.Chương trình giáo dục mầm non với phát triển và học tập toàn diện của trẻ
Mỗi mặt phát triển của trẻ cần được nhìn nhận và đánh giá. Mỗi trẻ có cách học khác nhau, với hứng thú và khả năng khác nhau. Giáo viên cần nhận thức được các nhu cầu và phát triển tối đa năng lực của mỗi cá nhân trẻ. Cần được tạo cơ hội để trẻ khám phá và thử nghiệm phát triển trí tuệ đa dạng của mình.
5 lĩnh vực quan trọng của trải nghiệm học tập được xác định đối với các mục đích:
Phát triển thể chất
Phát triển nhận thức
Phát triển ngôn ngữ
Phát triển tình cảm – xã hội
Phát triển thẩm mỹ
Phát triển thể chất
Không nên cho là tự nhiên và coi thường trong GDMN mặc dù phát triển các kỹ năng vận động là quá trình tiến hoá tự nhiên. Trên thực tế nó được nhìn nhận quan trọng, vì phát triển cơ bắp lớn và vận động khéo léo ảnh hưởng đến sự thành thục trong việc tự phục vụ hàng ngày (như đánh răng, mặc quần áo…) và các kỹ năng quan trọng khác (như viết hoặc vẽ)
Điều quan trọng là nhận biết các nhu cầu thể chấ và cung cấp cho trẻ các điều kiện, môi trường an toàn để trẻ có thể được phát triển tự nhiên cảm giác thăng bằng, biết phối hợp vận động và nhận biết về không gian và phương hướng, hình thành tính tự tin khi vận động.
Phát triển nhận thức
Các hoạt động cần chú ý đến các kiến thức sơ đẳng và hiểu biết về môi trường nhân tạo và môi trường tự nhiên. Các hoạt động này giúp trẻ nhận biết, quan sát và thể hiện các quan điểm của mình về thể giới xung quanh gần gũi, dần dần môi trường mở rộng hơn về đất nước và thế giới.
“Kỷ nguyên thông tin” đòi hỏi người học phải nắm được lượng thông tin lớn hơn nhiều trong một thời gian ngắn, người học phải biết “điều hành” thông tin hơn là “nhớ” thông tin. Do đó trong GDMN hiện nay cần phải chú ý nhiều hơn việc dạy trẻ “học như thế nào” hơn là “học cái gì”. Nếu chúgn không được kích thích, nuôi dưỡng; nó sẽ mai một và biến mất hoàn toàn. Việc chuyển đổi “học cái gì” sang “học như thế nào” đòi hỏi việc quan tâm hiểu biết một số chủ đề hơn thay vì học qua loa nhiều chủ đề trong thời gian ngắn. Khi đó việc phát triển các kỹ năng, các năng lực sẽ đóng vai trò chủ dạo hoặc đình hướng cho việc lựa chọn nội dung, còn gọi là phương tiện để phát triển các kỹ năng và năng lực này. Nói cách khác chương trình GDMN không nhằm cung cấp cho trẻ một khối lượng kiến thức mà nhằm hình thành các chức năng tâm lý, các cơ sở ban đầu cho sự phát triển nhân cách.
Phát triển ngôn ngữ
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển tư duy và học tập của trẻ. Nuôi dưỡng thái độ tích cực đối với việc học ngôn ngữ thì cơ bản là trẻ được bày tỏ trong các hoạt động ngôn ngữ như trò chơi phân vai, hát, thơ, và đọc. Những hoạt động này sẽ thúc đẩy các kỹ năng giao tiếp trong nói, nghe, đọc và viết.
Trẻ cần phải được đắm mình trong môi trường ngôn ngữ, và tham gia vào các hoạt động thúc đẩy việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày giúp trẻ tiếp thu các kỹ năng giao tiếp và thể hiện nhu cầu, ý nghĩ và tình cảm…
Phát triển tình cảm – xã hội
Những năm MN rất quan trọng. Trong thời kỳ này trẻ học nhận thức bản thân trong mối quan hệ với thế giới xung quanh chúng. Để làm điều đó trẻ phải học các giá trị và các quy tắc điều khiển xã hội và phát triển sự tiếp nhận các hành vi đạo đức và xã hội. Trẻ cần phải học để trở nên nhạy cảm với nhu cầu của người khác và phát triển các kỹ năng xã hội cần thiết để xây dựng quan hệ có ý nghĩa trong công việc và trong chơi. Chúng cần phải học cách vượt qua những thành công và thất bại; đương đầu, vượt qua sự sợ hãi và lo lắng. Những trải nghiệm xã hội này là cơ sở đối với cuộc sống lành mạnh về tâm lý và xã hội và kết quả tốt trong việc học tập sau này.
Phát triển thẩm mỹ
Ở lứa tuổi này trẻ thể hiện một cách tự nhiên và trong sáng những ý nghĩ và cảm xúc của mình về cái đẹp theo cách nghĩ của trẻ. Bởi vậy chúng ta cần cung cấp cơ hội cho trẻ thể hiện bản thân một cách tự do, khi chúng sáng tạo, chơi thể hiện các ý tưởng và cảm xúc qua các phương tiện khác nhau như âm nhạc và tạo hình…
2.4.5. Chương trình giáo dục mầm non giúp trẻ học tập một cách tích hợp
Trẻ nhỏ học tất cả những gì xảy ra đối với chúng và không chia tách việc học thành các môn học. Các trải nghiệm học tập của chúng cần tích hợp thành một thể thống nhất. Các hoạt động liên môn này giúp trẻ hiểu các kiến thức và kỹ năng liên kết với nhau như thế nào hơn là tách riêng trong quá trình dạy và học. Trong hoàn cảnh có ý nghĩa, trẻ phát hiện sự vật từ quan sát, nghiên cứu, khám phá và các hoạt động thực hành.
Những kinh nghiệm học tập từ lĩnh vực này có thể một cách tự nhiên dẫn đến kinh nghiệm học tập ở lĩnh vực khác.
Cách dạy tập trung theo chủ để làm cho hoạt động học tập mang tính thực tiễn hơn là chỉ tập trung vào kiến thức và kỹ năng. Chủ đề bao gồm những kinh nghiệm mắt thấy tai nghe và những hoạt động dựa trên việc học và đưa ra cho trẻ nhiều sự lựa chọn hơn về những điều mà chúng sẽ làm. Dạy theo chủ đề cũng mang đến cho người học nhiều kiến thức hơn là kiểu dạy theo đơn vị bài học. Tuy nhiên, tổ chức giáo dục theo chủ để chỉ mang lại hiệu quả khi giáo viên kết hợp chặt chẽ những qui tắc sau thành một kế hoạch và thực hiện đầy để những nội dung của chúng.
-Những nội dung phải liên quan tới những kinh nghiệm trong đời sống thực của trẻ và dựa trên những cái mà chúng biết
-Mỗi một chủ đề nên đưa ra một vấn đề cho trẻ khám phá nhiều hơn. Tầm quan trọng của học theo chủ đề là giúp trẻ xây dựng nên những khái niệm hơn là mong chờ chúng nhớ được những thông tin riêng rẽ
-Mọi chủ đề nên được hỗ trợ bởi một cấu trúc khái niệm mà giáo viên đã nghiên cứu đầy đủ
-Để cho các chủ đề/ chủ điểm thực sự gây hứng thú ở trẻ thì chúng thường nảy sinh từ một sự kiện bất ngờ, những khêu gợi sự tò mò của trẻ, chẳng hạn như nhìn thấy nhà bếp sau khi được sửa chữa lại hay nhìn thấy nhiều cái cây mới được trồng trong sân trường, điều đó sẽ liên quan đến chủ điểm về trường mầm non. Các chủ đề/ chủ điểm phải là một diều gì đó mà trẻ có thể học được trực tiếp.
2.5.Một số hình thức thiết kế phát triển chương trình giáo dục mầm non
-Chương trình khung: văn bản do bộ giáo dục đào tạo ban hành chung cho mọi cơ sở mầm non trong cả nước, thể hiện mục tiêu giáo dục mầm non, cụ thể hóa các yêu cầu về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục với từng độ tuổi, quy định việc tổ chức các hoạt động, tạo điều kiện cho trẻ phát triển năm mặt…
->Đây là căn cứ để triển khai và chỉ đạo công tác giáo dục trẻ trong cả nước, đồng thời cũng là căn cứ để đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non, tăng cường cơ sở vật chất cho các trường.
+Hiện nay là chương trình ban hành ngày 25/7/2009 kèm theo thông tư 17 của Bộ giáo dục.
-Chương trình được tổ chức theo môn học
+Đây là kiểu thiết kế và tổ chức chương trình ra đời sớm nhất. Trong các chương trình được thiết kế theo kiểu này, nội dung và kĩ năng lĩnh hội được sẽ thiết kế thành những lĩnh vực riêng biệt gọi là môn học. Việc thiết kế chương trình theo kiểu này magn tính đóng, khó đưa sự cập nhât vào. Đặc biệt với trẻ mần non, việc phân chia rạch ròi các môn học là không phù hợp với sự phát triển mang tính tổng thể của trẻ.
-Chương trình được tổ chức theo các chủ đề
+Các đơn vị kiến thức thuộc các môn học riêng lẻ được tích hợp theo nội dung xoay quanh một chủ đề.
-Chương trình được tổ chức theo các sự kiện
Hoạt động 3: Thực hành thiết kế 01 chương trình giáo dục mầm non (chủ động lựa chọn chủ đề, lứa tuổi)