BÀI THU HOẠCH bồi DƯỠNG MODULE 2,3,4 TIỂU học ( mới) – Tài liệu text
BÀI THU HOẠCH bồi DƯỠNG MODULE 2,3,4 TIỂU học ( mới)
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.26 KB, 27 trang )
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG TIỂU ………..
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
MODULE TH 2, 3, 4
NĂM HỌC 201…-201……
Họ và tên :
……….
Chức vụ : ………………….
Đơn vị : ……………………………………….
Dạy lớp: ………………………….
I. Module 3
1 Hoạt động của học sinh tiểu học
– Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học
hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt
động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt
động khác như:
+ Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các trò chơi
vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia đình như
tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,…Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia lao động tập thể ở
trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,…
+ Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của lớp
và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,…
2 Những thay đổi kèm theo
– Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia các
công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hoàn
cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,…các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia
đình từ rất nhỏ.
– Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay đổi so
với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ học
tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt.
– Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập thể
(đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình
là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.
Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cô phải tạo điều kiện giúp đỡ trẻ phát
huy những khả năng tích cực của các em trong công việc gia đình, quan hệ xã hội và đặc
biệt là trong học tập.
3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ)
a. Nhận thức cảm tính
– Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển
và đang trong quá trình hoàn thiện.
– Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang
tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến
cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện
tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng
rõ ràng – Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết
làm các bài tập từ dễ đến khó,…)
Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc,
tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích
cực và chính xác.
b. Nhận thức lý tính
– Tư duy
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động.
Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý
luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh
tiểu học.
– Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ
có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của
các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ
đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn
cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,…. Đặc biệt,
tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình
cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các
em.
4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật
hiện tượng sinh động, rực rỡ,…Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ
dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất
hồn nhiên vô tư…
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi mầm
non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã “người lớn” hơn rất nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo
sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa,
kĩ thuật, khoa học,…khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo
kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo
léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động,
hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt động
cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường
lớp, khu dân cư,…
5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường
còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn…Sau 5 năm học, “tính
cách học đường” mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ
bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trình
phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô
tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn,
những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích
ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang
hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh
tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của
các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.
Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được “chụp
mũ” nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ
đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha
mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.
B. Học sinh giỏi, học sinh năng khiếu:
1. Năng lực:
Con người vốn có tiềm năng nội lực hoặc ở mặt này, mặt khác kể cả những người có
khuyết tật. Cần có điều kiện thích ứng để năng lực được bộc lộ và hoàn thiện. Cho nên năng
lực là những đặc điểm tâm lý cá biệt ở mỗi người tạo thành chiều sâu cường độ lĩnh hội tri
thức, hình thành kỹ năng kỹ xảo để đáp ứng yêu cầu và hoàn thành xuất sắc một hoạt động
nhất định.
2. Trình độ cao của năng lực
Chính là tài năng ở trình độ tột đỉnh là thiên tài. Năng lực chỉ tồn tại trong quá trình phát
triển, vận động của một hoạt động tương ứng cụ thể. Năng lực là sản phẩm của một hoạt
động thực tiễn tích cực của con người không tách rời hoàn cảnh xã hội và tham gia phục vụ
cho sự phát triển xã hội.
Lữ Khôn từng nói : Việc sắp xảy ra mà ngăn được
Việc đương xảy ra mà cứu được
Việc đã hỏng mà cứu vớt được . Đó là người có tài
Hay chưa có việc mà biết việc sẽ đến .
Mới có việc mà biết việc sau sẽ ra sao
Định việc mà đoán được việc diễn biến thế nào
Đó là người có tâm .
Vậy Năng lực vừa là trí (Trí khôn, thông minh) là tâm đức thống nhất trong một cấu trúc
thích ứng.
3. Năng khiếu:
Là mầm mống của tài năng, tương lai. Nếu được phát hiện bồi dưỡng kịp thời có
phương pháp và hệ thống thì năng khiếu được phát triển và đạt tới đỉnh cao của năng lực,
ngược lại thì năng khiếu sẽ bị thui chột.
Người có năng lực năng khiếu thì thị giác thính giác xúc giác vị giác khứu giác có
những cảm giác tri giác đặc biệt (ngoại cảm).
Cảm giác, tri giác, ghi nhớ tưởng tượng và tư duy có chất lượng cao sẽ quyết định năng
khiếu và tài năng của mỗi con người.
Gần đây theo điều tra về chỉ số trí tuệ của người Việt Nam người ta thấy có từ 2-5 %
là những người xuất sắc, khoảng 25- 30 % là khá, khoảng 25- 30% trung bình yếu, 2- 5 %
yếu. Số còn lại là Trung bình.
Về học sinh: 3- 5 % là học sinh giỏi (Trong 20 vạn học sinh).
Vì thế việc phát hiện bồi dưỡng sử dụng các năng khiếu và tài năng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với nhà trường và xã hội.
C. Kết luận:
Tóm lại giáo viên cần phải nắm vững kiến thức có liên quan đến bộ môn giảng dạy. Có
như vậy mới giúp học sinh có hứng thú trong học tập mà còn giúp xã hội lưu giữ kinh
nghiêm dân gian ,thấy được giá tri truyền thống của cha ông ta.
Cải tiến phương pháp giảng dạy khâu then chốt để giáo dục học sinh cá biệt.
Dù có kiến thức, dù được mọi lực lượng giáo dục tham gia nhưng nếu giáo viên sơ cứng
trong việc áp dụng phương pháp giảng dạy thì kết quả giảng dạy đều không đạt. Phương
pháp mới lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình lên lớp của giáo viên.
Áp dụng
phương pháp tốt thì mọi học sinh đều được tham gia hoạt động học tập trong lớp. Tuy nhiên
mọi học sinh tham gia phải được hoạt động một cách phù hợp. Giáo viên không thể đưa
những câu hỏi gợi mở dễ cho học sinh năng khiếu hoặc không thể hỏi câu hỏi nâng cao cho
học sinh cá biệt yếu kém. Điều đó sẽ làm cho học sinh em giỏi có xu hướng nhàm chán, em
học yếu mang tư tưởng chán nản.
Cải tiến phương pháp là không ngừng áp dụng các phương pháp đặc thù bộ môn đó là:
Đươc thưc hành, được thí nghiêm kiểm chứng, Được tranh luận và được đặt câu hỏi tìm tòi
kiến thức. Như vậy thực chất giờ học bản chất giáo viên chỉ giúp học sinh tự tìm tòi và lĩnh
hội tri thức mới theo sư gợi mở của giáo viên (Định hướng). Tuy nhiên ở mỗi nhóm giáo
viên phải chia các thành viên có các đối tượng khác nhau để các em tự giúp nhau chỉ khi
cần thiết thì giáo viên mới can thiệp định hướng cho các em
II. MODULE 4
1. Môi trường giáo dục THCS
Hoạt động 1.
Tìm hiểu môi trường giáo dục THCS.
Môi trường học tập là các yếu tố có tác động đến quá trình học tập của HS bao gồm:
– Môi trường vật chất: Là không gian diễn ra quá trình dạy học gồm có đồ dùng dạy học
như bảng, bàn ghế, sách vở, nhiệt độ ánh sáng, âm thanh, không khí…
– Môi trường tinh thần: Là mối quan hệ giữa GV với HS, HS với HS, giữa nhà trườnggia đình – xã hội… Các yếu tố tâm lí như động cơ, nhu cầu, hứng thú tích học tập của HS và
phong cách, phương pháp giảng dạy của GV trong môi trường nhóm, lớp.
Toàn bộ hệ thống môi trường học tập, môi trường dạy học, môi trường giáo dục trong
trường phải được tiếp cận hệ thống, đó là các quan hệ thầy – trò, quan hệ trò – trò, quan hệ
nhóm lớp của HS, quan hệ của HS với nhà quản lí, mà bản chất của các mối quan hệ là dựa
trên quan hệ pháp luật, nhân văn, đạo đức, cộng đồng hợp tác.
Như vậy, môi trường học tập là toàn bộ các yếu tố vật chất, không gian và thời gian,
tình cảm và tinh thần – nơi HS đang sinh sống, lao động và học tập, có ảnh hưởng trực tiếp,
gián tiếp đến sự hình nhân cách của HS phù hợp với mục đích giáo dục.
Hoạt động 2: Vai trò của môi trường giáo dục đối với việc học tập, rèn luyện của học
sinh Trung học cơ sở
.-Nếp sống gia đình, mối quan hệ tình cảm của các thành viên, trình độ vân hoá, sự
gương mẫu và phuơng pháp giáo dục của cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển tâm
lí, ý thức, hành vi của học sinh THCS.
-Nhà trường với sứ mệnh kép là đảm bảo truyền thụ kiến thức và giáo dục học sinh
như là yếu tố môi trường bên ngoài có ảnh hưởng to lớn đến việc học tập, rèn luyện của học
sinh THCS.
.
-Môi trường xã hội cỏ ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách học
sinh THCS thường qua hai hình thức là tự phát và tự giác.
-Tập thể và phương pháp tổ chức hoạt động của tập thể học sinh THCS như Đoàn
Thanh niên cỏ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nhân cách các em
-Các nhóm bạn bè có ảnh hưởng hàng ngày, hàng giờ đến học sinh THCS, trong đó
có nhóm bạn bè chính thức và không chính thức. Các nhóm bạn bè này có ảnh hưởng tích
cực hoặc tiêu cực đến các thành viên trong nhóm trong quá trình học tập, sinh sống.
Tóm lại, môi trường giáo dục có tác động quan trọng tới sự hình thành và phát triển nhân
cách học sinh THCS. Cụ thể, môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, cung cấp
phương tiện cho hoạt động và giao tiếp của học sinh, nhờ đó mà học sinh THCS chiếm
lĩnh được những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ, hành vi và thói quen tốt đẹp trong học tập
và cuộc sống.
2. Phương pháp tìm hiểu môi trường GD THCS
Hoạt động 1: Các phương pháp tìm hiểu môi trường giáo dục Trung học cơ sở
+ Phương pháp nghiên cứu hồ sơ học sinh
Nắm đuợc lí lịch học sinh sẽ giúp GV lựa chọn được phuơng pháp tác động đến học
sinh phù hợp và hiệu quả.
+ Phương pháp quan sát, phỏng vấn và nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm
+ Sử dụng phương pháp điều tra viết để thu thập thông tin
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
+ Phương pháp trắc nghiệm:
Hoạt động 2: Thực hành các phương pháp tìm hiểu môi trường giáo dục Trung học cơ
sở
TÌNH HUỐNG
Có một học sinh vi phạm nghiêm trọng nội quy của nhà trường. Ban giám hiệu yêu cầu
giáo viên chủ nhiệm phải đưa em đó về tận nhà để nói chuyện với bố mẹ. Nhưng khi
chưa kịp để giáo viên trình bày xong, bố của em học sinh đó đã đứng dậy tát em học sinh
tới tấp vì đã làm “xấu mặt” gia đình. Vào địa vị của người giáo viên chủ nhiệm này phải
xử lý sao đây?
Việc phải dẫn học sinh phạm lỗi về tận nhà để trình bày với gia đình là “vạn bất đắc
dĩ”, vì giáo viên sẽ phải chuẩn bị “đương đầu” với những phản ứng từ phía gia đình. Nhưng
thiết lập mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục HS là một nhiệm vụ
vô cùng quan trọng. Là một giáo viên chủ nhiệm, thay mặt cho nhà trường để thực hiện sự
phối hợp đó.
Trong tình huống này GV thực sự đã gặp phải một thách thức lớn vì phụ huynh học
sinh quá nóng tính và cư xử có phần hơi thô lỗ, đánh con ngay trước mặt giáo viên. GV có
thể im lặng vì nghĩ đó là quyền giáo dục con của gia đình, chỉ là một giáo viên chủ nhiệm
nên không có quyền can thiệp. Sẽ có nhiều người lựa chọn phương án xử lý này vì dù sao
đó cũng là hình phạt thích đáng cho một cậu học trò nghịch ngợm. Nhưng liệu học sinh sẽ
nghĩ gì về thái độ “thờ ơ”, phó mặc đó của GV? Biết đâu em đó sẽ nghĩ rằng chính việc “tố
cáo” của GV là nguyên nhân khiến em phải chịu một trận đòn ngay trước mặt “người
ngoài”. Và sự bực tức, thậm chí coi thường GV sẽ ngấm ngầm hình thành và những lời dạy
bảo của GV trở nên vô tác dụng. Dù học sinh có mắc khuyết điềm thế nào đi nữa thì không
một giáo viên nào lại muốn học sinh phải chịu những trận đòn chí mạng. Vì trách nhiệm với
học sinh, GV sẽ không thể chọn một giải pháp chỉ vì sự “an toàn” của bản thân. Nếu bỏ về
trong lúc này thì lại là cách xử sự hết sức sai lầm. GV có quyền làm điều đó vì sự tự ái
trước thái độ cư xử thiếu tôn trọng của phụ huynh học sinh. GV thay mặt nhà trường đến
gặp gia đình trình bày tình hình sai phạm của học sinh để cùng gia đình tìm giải pháp giúp
đỡ em chứ không phải để “tố cáo” khiến học sinh phải chịu đòn. Chính vì thế GV có quyền
tức giận nhưng tuyệt đối không nên bỏ về vào lúc này vì nhiệm vụ của GV chưa được hoàn
thành.
Đứng trước tình huống khó xử này phải thật bình tĩnh và khéo léo. Hãy cố gắng kiềm
chế sự tự ái để nhanh chóng tìm ra phương án xử lý. Trước hết cần tìm cách chấm dứt ngay
hành động đánh con của vị phụ huynh đó và phân tích để phụ huynh nhận ra rằng trong việc
giáo dục học sinh bạo lực không bao giờ đem lại kết quả tốt đẹp mà đôi khi còn phản tác
dụng. Sau khi vị phụ huynh đó có vẻ bình tĩnh trở lại, bắt đầu câu chuyện của mình một
cách nhẹ nhàng, cởi mở. Phải giải thích cho phụ huynh hiểu nhà trường luôn coi trọng vai
trò của gia đình trong việc phối hợp để giáo dục học sinh, nhất là khi chúng phạm lỗi. Dù đó
có thể là một học sinh nghịch ngợm, hay vi phạm nội quy của trường, lớp nhưng không bao
giờ mong muốn gia đình lại giáo dục em bằng những hình thức tiêu cực, phản khoa học như
đánh đập, chửi mắng thậm tệ, xúc phạm đến lòng tự trọng của các em. Ở độ tuổi học sinh
trung học các em đã có ý thức về cái tôi cá nhân, cần được người lớn tôn trọng. Chính vì
vậy, chỉ có sự nhẹ nhàng, ân cần nhưng tuyệt đối nghiệm khắc mới có tác dụng khi chúng
có lỗi. Bạo lực hay sự xúc phạm quá đáng chỉ khiến chúng dễ nảy sinh tâm lý chống đối và
trở
nên
ương
ngạnh
hơn
mà
thôi.
Những cố gắng của bạn sẽ có ý nghĩa hơn khi thẳng thắn đề xuất với gia đình những biện
pháp cụ thể để cùng giúp đỡ em học sinh đó tiến bộ. Sự điềm tĩnh, khéo léo và tình thương
yêu, trách nhiệm với học trò là điều kiện quan trọng để GV xử lý thành công tình huống
này.
3. Kỹ thuật xử lý thông tin về môi trường giáo dục
Hoạt động 1: Một số kĩ thuật xử lí thông tin vẽ môi trường giáo dục Trung học cơ sở
Xử lí tài liệu cần phân tích về định tính và định lượng.
-Phân tích định luợng: Là xem xét, đánh giá về số lượng các kết quả nghìên cứu, thể hiện
bằng các con số. Để phân tích định lượng, cách hay sử dụng nhất là dùng các thuật toán.
-Xem xét, đánh giá kết quả nghiên cứu về mặt chất lượng, đòi hỏi phải phân tích, lí giải các
số liệu trên cơ sở đối chiếu với tri thức lí luận, hoặc qua quan sát, qua trao đổi, phỏng vấn
với đồng nghiệp về những nội dung đang nghiên cứu.
Hoạt động 2: Thực hành kĩ thuật xử lí thông tin về môi trường giáo dục Trung học cơ
sở
Khi xử lí và phân tích thông tin về môi trường giáo dục, yêu cầu quan trọng nhất đặt
ra cho nhà giáo dục là phải đảm bảo tính khách quan và trung thục.
4. Đánh giá mức độ ảnh hưởng cảu môi trường GD đến học tập, rèn luyện của HS
Hoạt động 1: Đánh giá mức độ ảnh hưởng của môi trường giáo dục đến việc học tập,
rèn luyện của học sinh THCS
a) Ảnh hưởng của môi trường đến mục đích , động cơ học tập
Môi trường học tập ảnh hường không nhỏ tới mục đích, động cơ học tập. Mục đích học
chỉ đuợc hình thành khi chủ thể bắt đầu học tập. Thông qua học tập, người học chiếm lĩnh
được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận (những khái niệm của từng bài học, từng tiết học) đây là mục đích bộ phận. Trên cơ sở chiếm lĩnh những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận mà
chiếm lĩnh được toàn bộ những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo hệ thống (những khái niệm của môn
học) – đây là mục đích môn học. Mỗi tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận được chủ thể tiếp thu
và làm chủ lại trở thành phương tiện cho việc hình thành mục đích bộ phận tiếp theo, cứ
như vậy, mục đích học sẽ được hình thành trong quá trình thực hiện một hệ thống các hành
động học trong một môi trường nhất định.
Động cơ của hoạt động học không có sẵn mà hiện thân ở đối tượng của hoạt động học
(đó là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…) mà người học cần chiếm lĩnh để hình thành và phát
triển nhân cách.
Có hai loại động cơ học là: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội.
Động cơ hoàn thiện tri thức:
Trong quá trình học tập, học để mở rộng tri thức, mở rộng vốn hiểu biết là động cơ
thúc đẩy người học tích cực học tập nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Trong trường
hợp này, nguyện vọng hoàn thiện tri thức hiện thân ở đối tượng của hoạt động học
Động cơ quan hệ xã hội:
Trong quá trình học tập, người học say sưa học ngoài sự hấp dẫn, lôi cuốn của tri thức
còn vì các quan hệ xã hội (học để phục vụ xã hội, học để hài lòng cha mẹ). Trong trường
hợp này, những mối quan hệ xã hội của cá nhân đuợc hiện thân ở đối tượng của hoạt động
học. Khi hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội thì ở một mức độ nào
đấy nó mang tính chất cưỡng bức, có lúc xuất hiện như là vật cản trên con đường đạt mục
đích, vì vậy người học cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi và có khi xuất hiện xung đột gay gắt
Hai loại động cơ nói trên cùng diễn ra trong quá trình học tập, nó làm thành một hệ
thống động cơ thúc đẩy người học học tập. Trong thực tế, có những HS học tập với sự nổ
lực như nhau, kết quả đạt được như nhau nhưng động cơ có thể rất khác nhau: có người
học là do muốn nâng cao trình độ hiểu biết, muốn có sự phát triển ngày càng cao, có người
học là do để đuợc khen, để bố me vui lòng hoặc đó là con đường tiến thân.
b) Ảnh hưởng của môi trường đến phương pháp học tập
Môi trường là điều kiện để người học sử dụng những phương pháp học tập thích hợp.
Môi trường nhóm lớp, phương pháp giảng dạy của GV, quan hệ ứng xử của GV đối với HS
là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới phương pháp học tập của HS THCS. Quá trình dạy học đòi
hỏi GV và HS cần nổ lực tìm ra các giải pháp để dạy và học đạt hiệu quả ngày càng cao
Quan hệ thầy trò tốt đẹp đuợc dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. HS tôn trọng GV bởi
kĩ năng giảng dạy, phẩm chất cá nhân, kiến thức và trình độ chuyên môn. GV tôn trọng HS
vì mỗi HS là một nhân cách với những nỗ lực học tập. .
Như vậy, GV là nguời chủ động tạo ra và điều khiển mối quan hệ giữa thầy và trò,
dùng ảnh hưởng của mối quan hệ đó để xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa cá nhân với
cá nhân HS, giữa cá nhân với nhóm và giữa các nhóm với cả lớp..
c) Ảnh hưởng của môi trường đến kết quả học tập
Môi trường học tập của HS THCS có sự tham gia của nhiều nhân tố: GV, người học,
gia đình, cơ sở vật chất, yếu tố quản lí của nhà trường. GV là người quyết định sự hợp tác
gắn bó giữa thầy và trò, giữa trò và trò, là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục học tập ở
HS
– HS và tính tích cực học tập trong môi trường nhóm lớp: Phải tạo ra môi trường học tập tự
giác, tích cực, chủ động của HS trong hoạt động nhóm lớp nhằm góp phần nâng cao kết quả
học tập. Chính thành tích học tập của lớp, của nhóm sẽ góp phần thúc đẩy thành tích học
tập của mọi cá nhân HS trong nhóm, lớp.
– Cán bộ quản lí: Giữa cán bộ quản lí, GV, HS phải thực sự tôn trọng lẫn nhau, quan hệ chia
sẻ, cộng đồng trách nhiệm. Không thể có môi trường học tập tốt nếu trong nhà trường các
mối quan hệ thiếu dân chủ, bất bình đẳng. Hình ảnh các thầy là hình ảnh lí tưởng mà các thế
hệ học trò học tập và làm theo. Chính tấm gương lao động của các thầy, cô là bài học cho
lớp lớp thế hệ HS, góp phần tạo nên thành tích của nhà trườmg.
– Cơ sở vật chất: Một môi trường học tập tốt trước hết phải đảm bảo các điều kiện cơ sở vật
chất tối thiểu. Ngược lai, cơ sở vật chất thiếu thốn sẽ gây ra khó khăn về mọi mặt cho hoạt
động học tập của HS, làm giảm sút kết quả học tập của HS.
Môi trường giáo dục là tập hợp không gian với các hoạt động xã hội của cá nhân, các
phương tiện và giao lưu được phối hợp với nhau tạo điều kiện thuận lợi để giáo dục đạt kết
quả cao nhất.
Hoạt động 2: Một số biện pháp phối hợp xây dựng môi trường giáo dục
a) Phối hợp giữa gia đinh, nhà trường và xã hội để giáo dục HS
• Nội dung phối hợp :
Việc liên kết, phối hợp giữa môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức
xã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách công dân được coi là một nguyên tắc
quan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sự
thống nhất về nhận thức cũng như cách thức hành động để hiện thực hóa mục tiêu quá trình
phát triển nhân cách
Liên kết, phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm thực hiện những nội
dung chủ yếu sau:
– Thống nhất mục đích, kế hoạch chăm sóc, giáo dục HS của tập thể sư phạm nhà trường
với phụ huynh, với các đoàn thể, cơ sở sản xuất, các cơ quan văn hoá, giáo dục ngoài nhà
trường.
– Theo dõi, đánh giá kết quả quá trình giáo dục HS trong nhà trường và ở địa phương
nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục.
– Gia đình phải tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ cho trẻ em; người lớn có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con em,
cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
– Đẩy mạnh sự nghiệp xã hội hóa giáo dục nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cũng như điều
kiện thuận lợi cho hệ thống nhà trường thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đào tạo ở tất cả các
cấp học.
b) Những yêu cầu để thực hiện tốt việc phối hợp:
Đối với gia đình
Hoạt động tích cực trong tổ chức hội phụ huynh nhà trường nhằm góp phần xây dựng
cơ sở vật chất, tinh thần, thực hiện sự nghiệp xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà trường nâng cao chất lượng giáo dưỡng và giáo dục.
Duy trì thường xuyên, đều đặn mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình bằng sổ liên lạc,
phiếu đánh giá, điện thoại để gia đình biết được kết quả học tập, rèn luyện và những ưu nhược điểm của con em mình. Ngược lai, nhà trường cũng nắm bắt được tình hình học tập,
sinh hoạt của HS ngoài giờ lên lớp.
Vì mục đích giáo dục nên các bậc cha mẹ cần mạnh dạn thẳng thắn liên lạc, phối hợp
với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức ở mọi địa phương, kể cả những cơ quan bảo vệ pháp luật
như công an, chính quyền địa phương nếu thấy cần thiết để uốn nắn, ngăn chặn kịp thời
những biểu hiện xấu, lệch lạc có thể phát triển đối với con em mình.
Đối với nhà trường
Cần phát huy vai trò trung tâm trong việc liên lạc, phối hợp giáo dục. Nhà trường
chủ động phổ biến nội dung, mục đích giáo dục đến các tổ chức xã hội của địa phương như
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… nhằm định hướng tác động thống nhất đối với quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Thực hiện vai trò là trung tâm văn hoá, giáo dục của địa phương, nhà trường cần tổ
chức tuyên truyền phổ biến các tri thức khoa học kĩ thuật, công nghệ, văn hoá
Nhà trường cần phối hợp với chính quyền phương tổ chức cho các em tham gia tích
cực vào các hoạt động văn hoá, xã hội như: bảo vệ môi trường, đền ơn đáp nghĩa, bài trừ
ma túy, dân số – kế hoạch hóa gia đình… nhằm góp phần cải tạo môi trường ngày càng tốt
đẹp, lành mạnh đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ.
Giúp địa phương theo dõi, đánh giá kết quả của quá trình giáo dục thanh thiếu niên,
phân tích nguyên nhân, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự liên kết, phối
hợp chặt chẽ giữa các môi trường và khai thác vai trò, ưu thế đặc biệt của giáo dục gia đình.
Xây dựng, củng cố Hội Phụ huynh HS, Ban giáo dục địa phuơng tạo nên sức mạnh
tổng hợp, đồng bộ, hướng vào mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ một cách thường xuyên, có tổ
chức, có kế hoạch.
Với các tổ chức xã hội
Tiềm năng giáo dục của lực lượng xã hội như các cơ quan đoàn thể, các hội quần
chúng, các cơ sở sản xuất, các đơn vị quân đội… là vô cùng to lớn, được thể hiện trong tất
cả các lĩnh vực tư tưởng chính trị – đạo đức, khoa học- kĩ thuật văn hoá- nghệ thuật thể dụcthể thao, nghề nghiệp… dưới hình thức kết nghĩa với nhà trường hoặc đỡ đầu nhà trường
xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật hoặc giúp các lớp HS tham quan, học tập, giao lưu, tiếp
xúc với việc thật, người thật điển hình, gương mẫu trong xã hội để hoàn thiện cá nhân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình ngược lại, sẽ có ảnh
hưởng không tốt đến trẻ và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành
người tốt, nhà trường, gia đình, đoàn thể xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau”.
c) Xây dựng cơ sở vật chất, cảnh quan nhà trường:
Cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường có tác động mạnh đến cảm xúc, hình thành ấn
tượng và niềm tự hào đối với HS. Một môi trường xanh, sạch, đẹp với điều kiện cơ sở vật
chất đuợc đảm bảo tạo cho HS cảm giác tự tin, vui tươi khi đến trường, hình thành nên
hưng phấn tích cực đối với mọi hoạt động. Cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường bao
gồm các điều kiện tự nhiên nơi trường đóng và các phương tiện kĩ thuật phục vụ cho mọi
hoạt động của nhà trường.
Việc xây dựng cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường là một nội dung cơ bản để có
một môi trường học tập thân thiện ở trường THCS.
d) Lựa chọn, vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quả
Quá trình dạy học đòi hỏi GV và HS cần nổ lực tìm ra các giải pháp để dạy và học đạt
hiệu quả ngày càng cao, trong đó, việc GV vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với nhu
cầu, trình độ và các đặc điểm tâm lí khác của lứa tuổi HS THCS nhằm phát huy tính tự giác,
tính tích cực chủ động học tập của HS đuợc coi là một giải pháp tốt nhất. Mỗi phương pháp
dạy học có ưu điểm, nhược điểm khác nhau và sự phù hợp với nội dung khác nhau, do đó
GV cần phối hợp các phương pháp dạy học nhằm huy động tới mức cao nhất tính tích cực
học tập của HS, tạo quan hệ học tập hợp tác, chia sẻ trong môi trường nhóm lớp của HS.
Xây dựng quan hệ sư phạm mang tính chuẩn mực
Để xây dựng một môi trường học tập thân thiện nhằm khai thác mặt giá trị và
cảm xúc của HS trong qua trình học tập thì các mối quan hệ trong dạy học có vai trò
quyết định. Quan hệ giữa GV với HS, giữa cá nhân HS với nhau, giữa cá nhân với nhóm,
giữa nhóm và cả lớp được phát triển theo xu hướng tăng cường sự tương tác, hợp tác và
cạnh tranh, tham gia và chia sẻ. Nhà trường cần tăng cường xây dựng các mối quan hệ sư
phạm chuẩn mực giữa GV với đồng nghiệp, giữa GV với HS, giữa HS với GV và HS với
HS… Tính chuẩn mực trong quan hệ sư phạm phải trở thành nét văn hoá truyền thống
của nhà trường, có tác dụng tạo động lực cho hoạt động dạy và học phát triển.
* VẬN DỤNG
Câu 1: Theo anh (chị), sự khác biệt giữa môi trường giáo dục gia đình và nhà trường là
gì?
Cùng là giáo dục, cùng nhằm tới một đối tượng là con trẻ, cùng chung mục tiêu tạo
nên những công dân tốt cho xã hội, nhưng giáo dục trong gia đình và giáo dục trong nhà
trường có rất nhiều điểm khác biệt.
Trước hết, giáo dục trong gia đình là sự giáo dục tổng quát, cả về thể lực, trí lực, và
đạo đức, thẩm mỹ…, rất đa dạng và nhiều chiều, bao quát mọi khía cạnh của nhân cách. Nó
khác với giáo dục của nhà trường chủ yếu nhằm tới sự trang bị kiến thức nhiều mặt, từ hiểu
biết về thế giới tự nhiên đến những kiến thức lịch sử, xã hội. Gia đình giáo dục nhân cách,
nhà trường cung cấp kiến thức. Hai dạng giáo dục này tuy khác biệt nhưng lại bổ khuyết
cho nhau một cách tuyệt vời, mang tới cho cá nhân hai mảng đời sống tinh thần chính của
thế giới “cái tôi”, mà thiếu bất cứ một mảng nào cũng sẽ dẫn tới sự khiếm khuyết, què quặt
và sự phát triển lệch lạc của con người.
Giáo dục trong gia đình và giáo dục ở nhà trường còn có sự khác biệt về chủ thể giáo
dục. Ở nhà trường, chủ thể này là các thày cô giáo, những nhà giáo dục chuyên nghiệp,
được đào tạo bài bản, được chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp. Dù quá trình giảng dạy có
khác nhau, nhưng định hướng và những nội dung cụ thể thì luôn thống nhất, cung cấp cho
học sinh những kiến thức chuẩn mực đã được phê duyệt. Kết quả là, học sinh chỉ khác nhau
về mức độ tiếp nhận, còn những gì họ thu nhận được ở nhà trường thì hoàn toàn giống nhau
Còn trong gia đình, sự giáo dục được tiến hành bởi nhiều chủ thể cùng lúc: cha mẹ,
ông bà, anh chị, họ hàng… Những nhà giáo dục này không chỉ khác nhau về đặc điểm nhân
khẩu- xã hội (giới tính, độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp…), mà khác nhau về quan điểm, sở
thích, cá tính, kiến thức xã hội… Rất ít người trong số họ là nhà giáo dục và được đào tạo.
Những điều họ dạy bảo trẻ cũng rất khác biệt, tuỳ thuộc vào những đặc điểm và quan niệm
của bản thân. Điều này dẫn đến kết quả là trẻ em trong gia đình nhận được lượng thông tin
và kiến thức hết sức da dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, là cơ sở để hình thành một
tâm hồn phong phú với những tri thức đủ đầy.
Phương pháp giáo dục tại gia đình và nhà trường cũng khác nhau. Ở trường, cho dù
những phương pháp giảng dạy cụ thể mà các thày cô áp dụng có khác nhau, thì chúng đều
là những phương pháp khoa học, được thẩm định, có cơ sở lý luận để vận dụng. Trong khi
đó, giáo dục ở gia đình áp dụng những phương pháp hết sức đa dạng, có thể khoa học mà
cũng có thể không, có thể có lý trí mà cũng có thể chỉ dựa trên cảm tính
Như vậy, phương pháp giáo dục của gia đình, tuy rằng không phải lúc nào cũng có cơ
sở khoa học, nhưng lại đa dạng và phù hợp với nhiều chủ thể giáo dục, và được sử dụng
linh hoạt. Chúng cũng thường mang lại hiệu quả cao hơn so với các phương pháp giảng dạy
tại nhà trường. Nếu các phương pháp giáo dục ở gia đình và ở nhà trường kết hợp được với
nhau một cách hợp lý, thì sẽ phát huy được điểm mạnh của mỗi loại, bổ khuyết những hạn
chế cho nhau. Chắc chắn hiệu quả giáo dục sẽ được nâng cao hơn nhiều.
Câu 2: Hãy phân tích khái quát ý nghĩa nguyên lí giáo dục “Kết hợp giữa giáo dục gia
đình, nhà trường và xã hội”.
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp trẻ phát
triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi
trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội phức tạp. Vì thế, việc
giáo dục nói chung và giáo dục trẻ em nói riêng luôn luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt
chẽ của nhiều lực lượng xã hội và nhất là đòi hỏi sự quan tâm đúng cách của nhà trường,
gia
đình
và
mọi
người
trong
xã
hội.
Ý nghĩa sâu sắc của việc phối hợp các lực lượng giáo dục đã được Bác Hồ chỉ ra từ
lâu: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và
trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong
nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả
cũng không hoàn toàn ”
Để thống nhất và tập hợp được sức mạnh của toàn xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ,
nhà trường vừa phải không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện vừa phải phối
hợp chặt chẽ với gia đình, với các tổ chức xã hội hướng vào một số công việc cụ thể sau:
– Đưa nội dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường vào các tổ chức xã hội trong địa
phương như: Đoàn TN, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi,
…nhằm thống nhất định hướng tác động đối với quá trình hình thành và phát triển nhân
cáchcủatrẻ.
– Phát huy vai trò nhà trường là trung tâm văn hóa giáo dục của địa phương, tổ chức
việc phổ biến các tri thức khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội
– Phối hợp với địa phương tổ chức cho HS tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóa
xã
hội
Tóm lại, việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội đối với việc chăm sóc giáo
dục trẻ là một nguyên tắc cơ bản nếu muốn có sự thành công. Sự phối hợp chặt chẽ ba môi
trường giáo dục trên, trước là để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạt
động giáo dục cùng một hướng, một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh
kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ, tránh sự tách rời mâu thuẫn, bài
xích lẫn nhau gây cho các em tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động trong việc lựa
chọn, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân cách. Sự phối hợp gia đình, nhà trường, xã hội
có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản hàng đầu là tất cả các lực lượng giáo dục
phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan hệ phối hợp vì mục
tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân hữu ích cho đất nước.
Câu 3: Hãy kể tên các kĩ nâng cơ bản và chuyên biệt mà một người GV THCS cần phải
có.
Những kỹ năng cần có của giáo viên để thích ứng với nền giáo dục trong bối cảnh của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
a) Người giáo viên cần có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu
b) Giáo viên cần có kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.
c) Giáo viên cần có kĩ năng hợp tác trong dạy học
d) Giáo viên cần luôn tự bồi dưỡng kĩ năng giải quyết vấn
Câu 4: Từ việc ảnh hưởng của yếu tố xã hội, nhà trường, gia đình, tập thể và các tổ
chức đoàn thể, đến sự phát triển nhân cách học sinh, Anh (chị) hãy rút ra những bài
học sư phạm cho từng yếu tố và liên hệ với thực tiễn nơi anh (chị) công tác.
a) Nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng tích cực của gia đình đến việc giáo dục học sinh:
– Điều kiện kinh tế văn hóa, vật chất của gia đình tốt, cha mẹ học sinh phần lớn là
những bậc cha mẹ có trình độ, vốn hiểu biết xã hội rộng.
– Cha mẹ học sinh luôn quan tâm đến việc học tập và rèn luyện
– Cha mẹ học sinh luôn kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm, với nhà trường,
quan tâm đến việc giáo dục HS trong nhà trường.
b) Nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực của gia đình đến việc giáo dục học sinh:
– Trình độ hiểu biết về văn hóa – xã hội của cha mẹ học sinh thấp, nghề nghiệp không
ổn định.
– Trẻ sống trong gia đình “không toàn vẹn”
– Một số bậc cha mẹ học sinh chưa nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc
giáo dục con cái, còn mang tư tưởng “khoán trắng” việc giáo dục con cái cho thầy cô,
không quan tâm đến việc giáo dục trẻ, thường đổ dồn hết trách nhiệm giáo dục trẻ cho nhà
trường và xã hội.
– Nhà trường chưa quan tâm đến việc giáo dục gia đình, chưa chú ý đúng mức đến
việc bồi dưỡng phương pháp giáo dục trẻ cho các bậc cha mẹ, chưa có biện pháp giúp các
bậc cha mẹ có được phương pháp giáo dục con cái tốt và giúp họ nhận thức được trách
nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con cái.
– Hội nghị phụ huynh hàng kỳ còn mang nặng hình thức thông báo kết quả học tập,
rèn luyện của học sinh (điều này sổ liên lạc đã có) hoặc chỉ nhằm bàn bạc thống nhất các
khoản đóng góp hỗ trợ…, không giành khoảng thời gian gặp gỡ ngắn ngủi và quý báu ấy để
nêu những tấm gương gia đình giáo dục con tốt, trao đổi kinh nghiệm giáo dục con cái trong
gia đình, tạo điều kiện để các bậc phụ huynh học hỏi kinh nghiệm, phương pháp nuôi dạy
con tốt với nhau.
c) Giải pháp :
– Trang bị cho phụ huynh học sinh một số kiến thức về phương pháp tổ chức giáo dục
gia đình, giúp họ nhận thức được ảnh hưởng của nề nếp sinh hoạt gia đình. Giúp cha mẹ
học sinh hiểu được mối quan hệ trong gia đình và đạo đức, hành vi ứng xử của cha mẹ là
bài học đạo đức, là nền tảng nhân cách của trẻ.
-Giáo viên chủ nhiệm phải nhận thức được trách nhiệm của mình trong giáo dục gia
đình. Giáo viên chủ nhiệm là nòng cốt hướng dẫn giáo dục gia đình. Các cuộc họp phụ
huynh cần tránh tệ hình thức không cần thiết, nội dung cuộc họp chủ yếu hướng vào việc
tạo điều kiện cho cha mẹ học sinh trao đổi về kinh nghiệm giáo dục trẻ trong gia đình, kinh
nghiệm xây dựng gia đình thành môi trường giáo dục lý tưởng.
– Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh bằng nhiều hình có như vậy mới giúp
các bậc học sinh hiểu rõ nhiệm vụ của họ, tránh tư tưởng khoán trắng cho nhà trường
– Tập hợp các bậc cha mẹ học sinh có kinh nghiệm giáo dục trẻ để vận động, hướng
dẫn giáo dục gia đình cho một số bậc cha mẹ học sinh còn nhiều khó khăn, lúng túng trong
phương pháp tổ chức giáo dục gia đình, phương pháp giáo dục con cái.
II. MOODULE 2
A. Mở đầu:
Giáo dục ngôn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạy học
tiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn là nhiệm vụ
hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy học tiếng Việt với tư
cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tại dải đất này, các dân
tộc như Jarai, Bahnar…
– Trong tâm lí học lứa tuổi, học sinh lứa tuổi thiếu niên luôn ngự trị quy luật về tính mất
cân đối tạm thời, tính mâu thuẫn và quy luật về tính không đồng đều của sự phát triển thể
hiện ở tất cả các lĩnh vực của nhân cách và thể chất. Nhưng thực tế làm công tác giáo dục
tại các xã vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu thì mỗi người
cán bộ GV phải biết những “tâm lí riêng” mà không sách vỡ lí thuyết nào có thể nhắc tới.
Hằng ngày, ngoài việc soạn bài lên lớp là việc vận động duy trì số lượng, tìm các biện pháp
nâng cao chất lượng, người GV còn phải là “Vừa là thầy giáo, vừa là bạn bè”. Với kinh
nghiệm thực tiễn sau đây sẽ giúp những GV mới chập chững vào nghề đến nhận công tác ở
miền núi có những biện pháp giáo dục hợp lí, đặc biệt là GV chủ nhiệm lớp.
B. Nội dung:
1. Học sinh Tiểu học người dân tộc trước khi đến trường:
– Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân tộc thiểu
số chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sự chăm sóc của
vườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu hội thoại đơn giản
mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường Mầm Non đã trang bị
cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn theo các em bước vào lớp1.
Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây, cũng như các em chỉ sử dụng
tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ thông, tiếng
Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc giao tiếp thông thường với thầy cô
giáo đã khó khăn, và cũng có khi là không thể, việc nghe giảng những kiến thức về các môn
học khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến lớp là
các em bước đến một môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường
trực trong các em, làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường.
2. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai:
– Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các em,
trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ hoàn
toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn
ngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên,
bản năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp, người địa phương chỉ sử
dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì vốn kiến thức về tiếng Việt ở họ
quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi
lần các cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc họp nào đó ở làng, bản, họ phát biểu bằng
tiếng Việt rất khó khăn. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời
sống gia đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp.
Dần dà các em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã
học trên lớp, từ đó, đã khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp
lớn hơn, vượt khỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.
3. Mặc cảm của học sinh dân tộc thiểu số khi đến trường học tiếng Việt:
– Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên, tôi nhận thấy
rằng, các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèo luôn nhắc
nhở con người sống trong cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc, về điều kiện,
hoàn cảnh sống của bản thân. Nghèo đã giúp con người ta vươn lên nhưng nghèo cũng làm
cho con người luôn mặc cảm, tự ti, bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Mặc cảm số phận đã
khiến con người không thể thoát khỏi những thiếu thốn vật chất, không thể vươn xa hơn
không gian sống hiện tại. Những học sinh tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên
không có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, không chỉ có “ngày hai buổi đến trường”, các em còn
phải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa, trồng ngô,…lo cho cuộc sống vật chất của gia đình
đang chật vật, thiếu thốn. Chúng tôi thật thương tâm khi nghe nhưng đồng nghiệp đang
giảng dạy ở những vùng miền núi Tây Nguyên tâm sự, rằng “chúng em phải vào tận làng
lùng sục các em, đưa các em đến trường.”; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, “Em phải dùng
tiền lương của mình để mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các em trở lại
trường. Nhưng có lúc cũng không thành công!”,… Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề là ở chỗ,
cái nghèo truyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn từng bữa
còn chưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của các em là
vậy! Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi cuộc sống nghèo khó
hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng, số lượng
học sinh trên lớp học rất ít. Cũng có những hôm thầy giáo cắp cặp tới lớp, rồi quay về, tìm
cách xuống bản, tới từng gia đình học sinh, giảng giải cho các em, thuyết phục gia đình các
em rằng, cần phải dành thời gian cho các em học tập, bởi các em còn trong độ tuổi đến
trường. Thế nhưng, hiệu quả của công việc “tuyên truyền” này không phải lúc nào cũng như
ý, lắm lúc, giáo viên còn phải nhận những câu trả lời cay nghiệt của phụ huynh khiến cho
họ có những giây phút nản lòng.
Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng xin phép giáo viên chủ nhiệm, nhà
trường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên trở lại trường khi mùa gặt kết thúc.
Giáo viên lại phải nhọc công tìm đến tận bản, vận động các em đến trường.
– Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh là sự
sống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, về điều
kiện sống, hoàn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểu học dân
tộc thiểu số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cản ngăn cách hoạt
động sống của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các em khó tiếp xúc, hòa
nhập cộng đồng.
– Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ở một
mức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mối quan hệ
trong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hoàn cảnh thực tại
nhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, số phận, làm thui chột
hao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây
Nguyên đến trường trong tâm thế “hèn mọn” đó. Các em cũng đã biết nhìn ngắm những
trang phục của các bạn học sinh người Kinh, nhìn lại trang phục của mình. Ỏ những trường
Nội trú, tình trạng trên ít xảy ra, nhưng đối với các trường có cả hai đối tượng học sinh,
người Kinh và người dân tộc thiểu số, tình trạng trên luôn ngầm diễn ra trong các em. Nếu
số lượng học sinh thiểu số nhiều hơn học sinh Kinh thì tình trạng trên ít xảy ra, còn nếu số
lượng học sinh thiểu số ít hơn số lượng học sinh người Kinh thì tình trạng trên càng diễn ra
nặng nề. Trong lớp chắc chắn sẽ có sự phân biệt, kỳ thị ở hai đối tượng học sinh trên. Một
bộ quần áo, một đôi dép hay những phụ kiện đơn giản khác của các bạn khi đến trường
cũng làm cho các em băn khoăn, suy nghĩ về nhau, so sánh lẫn nhau. Nhiều em học sinh
người dân tộc thiểu số chân đất đến trường, hoặc trong trang phục cũ kỹ, hay với những
đồng phục bắt buộc nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng với
những cuốn tập bị bỏ quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thần
học tiếng Việt của các em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm.
Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em một môi
trường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong các em ý thức
học tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là điều hiển nhiên.
Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ phải phát biểu xây dựng
bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài giờ học, đặc biệt là các em rất
khó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồng nghĩa với việc kiềm hãm sự phát
triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trường giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo
lắng cho mỗi giờ đến lớp, “sợ” phải đến trường. Học tập lúc này là công việc quá khó khăn
đối với các em.
– Đối với người dân tộc Tây Nguyên, không gian sống của họ rất đặc trưng, không có
ranh giới giữa không gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ không gian sống cá nhân.
Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Nguyên. Không gian sống đặc thù
này của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống văn hóa, về cội nguồn.
Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ở của họ, một không gian
chung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy, việc tạo một không gian học tập
cho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống này đã không tạo điều kiện học tập cho các
em, mà còn làm cho chất lượng học tập của các em ngày càng giảm sút.
– Đối với các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong gia đình
hoặc không có khả năng hướng dẫn, hoặc không có ý thức trách nhiệm đôn đốc nhắc nhở
quản lý, hay do hoàn cảnh sống khó khăn mà gia đình đã không chú trọng tới việc học của
con, em mình. Điều này cho thấy đa số các em không được nằm trên một cái nền học vấn
nhất định nào đó của gia đình. Việc học tập của các em phải nhờ đến sự tận tâm của giáo
viên, nhờ vào kế hoạch giáo dục của nhà trường. Cho nên ý thức học tập là đặc tính rất cần
được chúng ta xây dựng cho các em.
4. Chế độ xã hội:
– Hiện nay, xã hội vẫn chưa có sự quan tâm sâu sát đến điều kiện học tập của học sinh
dân tộc thiểu số. Nhà nước ta chỉ chú ý đến cơ sở vật chất của Trường học, chứ chưa chú
trọng đến đời sống của học sinh một cách đúng mức. Kinh phí hỗ trợ học sinh nghèo vẫn
chưa đến kịp thời, chẳng hạn như, kinh phí hỗ trợ học sinh nghèo ở tỉnh Gia Lai năm học
2008 – 2009 đến nay (15/ 07/ 2010) vẫn tắc nghẽn, “chưa về được”. Sự thiếu quan tâm này
của các cấp chính quyền địa phương đã gieo trong các em tâm lý chán nản, gây trong phụ
huynh tâm lý nghi ngờ. Việc nhiều cán bộ xã đã ăn bớt tiền hỗ trợ dân nghèo ăn tết hằng
năm đã bị dư luận xã hội lên án. Hiện tượng tham ô trên xảy ra ở khắp các xã vùng khó trên
cả nước đã chứng minh rằng, Nhà nước ta nghĩ, lo cho dân chỉ được một bước, nên đời sống
của những người dân ở những vùng khó khăn vẫn chưa thể an toàn được, vấn đề xóa đói,
giảm nghèo ở các tỉnh miền núi vẫn chưa thực hiện. Những tồn tại trên đã gây mất niềm tin
trong lòng dân đối với các cấp chính quyền, ở trẻ đối với trường, lớp. Cái đói, kiếp nghèo
và cả bọn “địa chủ” thời nay luôn rình rập, đeo bám họ thì làm sao tất cả họ đều có suy nghĩ
là cần cho con đến trường.
5 Về phía giáo viên:
– Đa số giáo viên người Kinh ở nơi khác đến giảng dạy ở các tỉnh Tây Nguyên đều
không biết ngôn ngữ Dân tộc, nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ không thể
so sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những tình huống cần thiết trong dạy học tiếng Việt cho
đối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về phong tục tập quán, họ lại càng không có điều
kiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đình các em, khó có thể
tiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới không cần thiết giữa thầy và trò, để
dạy tiếng Việt hiệu quả.
Dạy học cho người dân tộc thiểu số phải do chính giáo viên người địa phương đảm
nhiệm mới mang lại hiệu quả cao được. Nhưng ngặt nỗi, trình độ chuyên môn của giáo viên
địa phương chưa được chuẩn, đa số giáo viên địa phương ở đây chỉ trải qua những lớp đào
tạo ngắn hạn, rồi bù vào đó là tấm bằng Đại học Từ Xa, hoặc nhà trường Sư phạm phải tạo
điều kiện ra trường cho họ để đáp ứng nhu cầu về giáo viên của địa phương ở những năm
trước đây. Tồn tại ở những trường Tiểu học trên địa bàn Tây Nguyên là một số giáo viên
trình độ sơ cấp (họ chỉ mới học hết lớp 5, rồi chính quyền địa phương cho đi học 3 tháng
nghiệp vụ, rồi họ lên bục giảng làm thầy), nên công việc giảng dạy của họ khó mang lại
được hiệu quả mong muốn. Bản thân họ cũng chưa nắm vững những kiến thức về tiếng Việt
– Quan tâm đến việc học tập của học sinh, đặc biệt lại là học sinh Tiểu học dân tộc thiểu
số cũng không có được mấy người trong số tất cả những người đang trên bục giảng ở vùng
khó khăn. Và trước tâm thế đến trường của học sinh như vậy, thiết nghĩ, giảng dạy cho học
sinh ở những vùng khó, chúng ta cần hiểu được những vấn đề về tâm lý của học sinh, về
điều kiện, hoàn cảnh sống của gia đình các em để tìm ra những biện pháp giáo dục, dạy học
các em hiệu quả hơn, đưa các em đến với ánh sáng của tri thức. Giáo viên cũng cần tự bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, học ngôn ngữ địa phương, thâm nhập đời sống văn hóa cộng
đồng, đặc biệt là hằng năm, các sở Giáo dục – Đào tạo, phòng Giáo dục cần có chương
trình, kế hoạch bồi dưỡng giáo viên người dân tộc dài ngày và thường xuyên hơn để việc
dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số hiệu quả. Một điều cuối cùng là, giáo viên
cần giúp cho học sinh dân tộc thiểu số hiểu tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chung
cho các dân tộc.
C. Kết luận:
Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào GV và thực tiễn. Các em thường dễ dàng nghe
theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là GV. Khi các em đã tin GV, các em thường
quyết tâm thực hiện cho được những công việc GV giao, nhiều khi các em còn bắt chước
tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ,.. của GV. Vì vậy, GV phải luôn gần gũi, đi sâu, đi sát giúp đỡ
các em, cố gắng cảm hóa các em bằng sự tận tình chăm sóc của mình; đồng thời cũng cố
gắng gương mẫu về mọi mặt để dành cho được sự tin yêu của các em, từ đó phát huy tác
dụng giáo dục của mình.
Nắm vững những đặc điểm tâm lí của học sinh gái. Trong học sinh miền núi, học sinh
gái thường ít nói, e dè và dễ xấu hổ, những em gái lớn trong một lớp thường thiếu những
hoài bão ước mơ cần thiết; cho nên những tác động ngoại cảnh dễ làm cho các em này bỏ
học. Khi một em có ý định bỏ học thường rủ thêm một số em khác bỏ theo. Từ những đặc
điểm trên, trong khi giao tiếp, gặp gỡ riêng với các em học sinh gái, GV phải thường nói
chuyện tâm tình với các em về các vấn đề như vai trò của người phụ nữ trong xã hội ta hiện
nay, những công việc mà người phụ nữ miền núi phải có trách nhiệm vươn lên để gánh vác,
sự cần thiết phải có trình độ văn hóa tối thiểu trong thời đại ngày nay, đồng thời phân tích
cho các em những hạn chế của người con gái vùng cao nếu đi lấy chồng sớm,…
2 Những thay đổi kèm theo- Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia cáccông việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hoàncảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,…các em phải tham gia lao động sản xuất cùng giađình từ rất nhỏ.- Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay đổi sovới bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ họctập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt.- Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập thể(đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mìnhlà người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cô phải tạo điều kiện giúp đỡ trẻ pháthuy những khả năng tích cực của các em trong công việc gia đình, quan hệ xã hội và đặcbiệt là trong học tập.3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ)a. Nhận thức cảm tính- Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triểnvà đang trong quá trình hoàn thiện.- Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mangtính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đếncuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiệntượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướngrõ ràng – Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biếtlàm các bài tập từ dễ đến khó,…)Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc,tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tíchcực và chính xác.b. Nhận thức lý tính- Tư duyTư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động.Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quátKhả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lýluận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinhtiểu học.- Tưởng tượngTưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờcó bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng củacác em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻđã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạncuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,…. Đặc biệt,tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tìnhcảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của cácem.4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu họcTình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vậthiện tượng sinh động, rực rỡ,…Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻdễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rấthồn nhiên vô tư…Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi mầmnon thì tình cảm của trẻ tiểu học đã “người lớn” hơn rất nhiều.Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theosự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa,kĩ thuật, khoa học,…khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảokết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ.Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéoléo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động,hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt độngcụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trườnglớp, khu dân cư,…5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu họcNét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trườngcòn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn…Sau 5 năm học, “tínhcách học đường” mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơbản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trìnhphát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vôtư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn,những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thíchứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đanghình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinhtiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách củacác em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được “chụpmũ” nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờđợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính chamẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.B. Học sinh giỏi, học sinh năng khiếu:1. Năng lực:Con người vốn có tiềm năng nội lực hoặc ở mặt này, mặt khác kể cả những người cókhuyết tật. Cần có điều kiện thích ứng để năng lực được bộc lộ và hoàn thiện. Cho nên nănglực là những đặc điểm tâm lý cá biệt ở mỗi người tạo thành chiều sâu cường độ lĩnh hội trithức, hình thành kỹ năng kỹ xảo để đáp ứng yêu cầu và hoàn thành xuất sắc một hoạt độngnhất định.2. Trình độ cao của năng lựcChính là tài năng ở trình độ tột đỉnh là thiên tài. Năng lực chỉ tồn tại trong quá trình pháttriển, vận động của một hoạt động tương ứng cụ thể. Năng lực là sản phẩm của một hoạtđộng thực tiễn tích cực của con người không tách rời hoàn cảnh xã hội và tham gia phục vụcho sự phát triển xã hội.Lữ Khôn từng nói : Việc sắp xảy ra mà ngăn đượcViệc đương xảy ra mà cứu đượcViệc đã hỏng mà cứu vớt được . Đó là người có tàiHay chưa có việc mà biết việc sẽ đến .Mới có việc mà biết việc sau sẽ ra saoĐịnh việc mà đoán được việc diễn biến thế nàoĐó là người có tâm .Vậy Năng lực vừa là trí (Trí khôn, thông minh) là tâm đức thống nhất trong một cấu trúcthích ứng.3. Năng khiếu:Là mầm mống của tài năng, tương lai. Nếu được phát hiện bồi dưỡng kịp thời cóphương pháp và hệ thống thì năng khiếu được phát triển và đạt tới đỉnh cao của năng lực,ngược lại thì năng khiếu sẽ bị thui chột.Người có năng lực năng khiếu thì thị giác thính giác xúc giác vị giác khứu giác cónhững cảm giác tri giác đặc biệt (ngoại cảm).Cảm giác, tri giác, ghi nhớ tưởng tượng và tư duy có chất lượng cao sẽ quyết định năngkhiếu và tài năng của mỗi con người.Gần đây theo điều tra về chỉ số trí tuệ của người Việt Nam người ta thấy có từ 2-5 %là những người xuất sắc, khoảng 25- 30 % là khá, khoảng 25- 30% trung bình yếu, 2- 5 %yếu. Số còn lại là Trung bình.Về học sinh: 3- 5 % là học sinh giỏi (Trong 20 vạn học sinh).Vì thế việc phát hiện bồi dưỡng sử dụng các năng khiếu và tài năng có ý nghĩa đặc biệtquan trọng đối với nhà trường và xã hội.C. Kết luận:Tóm lại giáo viên cần phải nắm vững kiến thức có liên quan đến bộ môn giảng dạy. Cónhư vậy mới giúp học sinh có hứng thú trong học tập mà còn giúp xã hội lưu giữ kinhnghiêm dân gian ,thấy được giá tri truyền thống của cha ông ta.Cải tiến phương pháp giảng dạy khâu then chốt để giáo dục học sinh cá biệt.Dù có kiến thức, dù được mọi lực lượng giáo dục tham gia nhưng nếu giáo viên sơ cứngtrong việc áp dụng phương pháp giảng dạy thì kết quả giảng dạy đều không đạt. Phươngpháp mới lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình lên lớp của giáo viên.Áp dụngphương pháp tốt thì mọi học sinh đều được tham gia hoạt động học tập trong lớp. Tuy nhiênmọi học sinh tham gia phải được hoạt động một cách phù hợp. Giáo viên không thể đưanhững câu hỏi gợi mở dễ cho học sinh năng khiếu hoặc không thể hỏi câu hỏi nâng cao chohọc sinh cá biệt yếu kém. Điều đó sẽ làm cho học sinh em giỏi có xu hướng nhàm chán, emhọc yếu mang tư tưởng chán nản.Cải tiến phương pháp là không ngừng áp dụng các phương pháp đặc thù bộ môn đó là:Đươc thưc hành, được thí nghiêm kiểm chứng, Được tranh luận và được đặt câu hỏi tìm tòikiến thức. Như vậy thực chất giờ học bản chất giáo viên chỉ giúp học sinh tự tìm tòi và lĩnhhội tri thức mới theo sư gợi mở của giáo viên (Định hướng). Tuy nhiên ở mỗi nhóm giáoviên phải chia các thành viên có các đối tượng khác nhau để các em tự giúp nhau chỉ khicần thiết thì giáo viên mới can thiệp định hướng cho các emII. MODULE 41. Môi trường giáo dục THCSHoạt động 1.Tìm hiểu môi trường giáo dục THCS.Môi trường học tập là các yếu tố có tác động đến quá trình học tập của HS bao gồm:- Môi trường vật chất: Là không gian diễn ra quá trình dạy học gồm có đồ dùng dạy họcnhư bảng, bàn ghế, sách vở, nhiệt độ ánh sáng, âm thanh, không khí…- Môi trường tinh thần: Là mối quan hệ giữa GV với HS, HS với HS, giữa nhà trườnggia đình – xã hội… Các yếu tố tâm lí như động cơ, nhu cầu, hứng thú tích học tập của HS vàphong cách, phương pháp giảng dạy của GV trong môi trường nhóm, lớp.Toàn bộ hệ thống môi trường học tập, môi trường dạy học, môi trường giáo dục trongtrường phải được tiếp cận hệ thống, đó là các quan hệ thầy – trò, quan hệ trò – trò, quan hệnhóm lớp của HS, quan hệ của HS với nhà quản lí, mà bản chất của các mối quan hệ là dựatrên quan hệ pháp luật, nhân văn, đạo đức, cộng đồng hợp tác.Như vậy, môi trường học tập là toàn bộ các yếu tố vật chất, không gian và thời gian,tình cảm và tinh thần – nơi HS đang sinh sống, lao động và học tập, có ảnh hưởng trực tiếp,gián tiếp đến sự hình nhân cách của HS phù hợp với mục đích giáo dục.Hoạt động 2: Vai trò của môi trường giáo dục đối với việc học tập, rèn luyện của họcsinh Trung học cơ sở.-Nếp sống gia đình, mối quan hệ tình cảm của các thành viên, trình độ vân hoá, sựgương mẫu và phuơng pháp giáo dục của cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển tâmlí, ý thức, hành vi của học sinh THCS.-Nhà trường với sứ mệnh kép là đảm bảo truyền thụ kiến thức và giáo dục học sinhnhư là yếu tố môi trường bên ngoài có ảnh hưởng to lớn đến việc học tập, rèn luyện của họcsinh THCS.-Môi trường xã hội cỏ ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách họcsinh THCS thường qua hai hình thức là tự phát và tự giác.-Tập thể và phương pháp tổ chức hoạt động của tập thể học sinh THCS như ĐoànThanh niên cỏ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nhân cách các em-Các nhóm bạn bè có ảnh hưởng hàng ngày, hàng giờ đến học sinh THCS, trong đócó nhóm bạn bè chính thức và không chính thức. Các nhóm bạn bè này có ảnh hưởng tíchcực hoặc tiêu cực đến các thành viên trong nhóm trong quá trình học tập, sinh sống.Tóm lại, môi trường giáo dục có tác động quan trọng tới sự hình thành và phát triển nhâncách học sinh THCS. Cụ thể, môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, cung cấpphương tiện cho hoạt động và giao tiếp của học sinh, nhờ đó mà học sinh THCS chiếmlĩnh được những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ, hành vi và thói quen tốt đẹp trong học tậpvà cuộc sống.2. Phương pháp tìm hiểu môi trường GD THCSHoạt động 1: Các phương pháp tìm hiểu môi trường giáo dục Trung học cơ sở+ Phương pháp nghiên cứu hồ sơ học sinhNắm đuợc lí lịch học sinh sẽ giúp GV lựa chọn được phuơng pháp tác động đến họcsinh phù hợp và hiệu quả.+ Phương pháp quan sát, phỏng vấn và nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm+ Sử dụng phương pháp điều tra viết để thu thập thông tin+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục:+ Phương pháp trắc nghiệm:Hoạt động 2: Thực hành các phương pháp tìm hiểu môi trường giáo dục Trung học cơsởTÌNH HUỐNGCó một học sinh vi phạm nghiêm trọng nội quy của nhà trường. Ban giám hiệu yêu cầugiáo viên chủ nhiệm phải đưa em đó về tận nhà để nói chuyện với bố mẹ. Nhưng khichưa kịp để giáo viên trình bày xong, bố của em học sinh đó đã đứng dậy tát em học sinhtới tấp vì đã làm “xấu mặt” gia đình. Vào địa vị của người giáo viên chủ nhiệm này phảixử lý sao đây?Việc phải dẫn học sinh phạm lỗi về tận nhà để trình bày với gia đình là “vạn bất đắcdĩ”, vì giáo viên sẽ phải chuẩn bị “đương đầu” với những phản ứng từ phía gia đình. Nhưngthiết lập mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục HS là một nhiệm vụvô cùng quan trọng. Là một giáo viên chủ nhiệm, thay mặt cho nhà trường để thực hiện sựphối hợp đó.Trong tình huống này GV thực sự đã gặp phải một thách thức lớn vì phụ huynh họcsinh quá nóng tính và cư xử có phần hơi thô lỗ, đánh con ngay trước mặt giáo viên. GV cóthể im lặng vì nghĩ đó là quyền giáo dục con của gia đình, chỉ là một giáo viên chủ nhiệmnên không có quyền can thiệp. Sẽ có nhiều người lựa chọn phương án xử lý này vì dù saođó cũng là hình phạt thích đáng cho một cậu học trò nghịch ngợm. Nhưng liệu học sinh sẽnghĩ gì về thái độ “thờ ơ”, phó mặc đó của GV? Biết đâu em đó sẽ nghĩ rằng chính việc “tốcáo” của GV là nguyên nhân khiến em phải chịu một trận đòn ngay trước mặt “ngườingoài”. Và sự bực tức, thậm chí coi thường GV sẽ ngấm ngầm hình thành và những lời dạybảo của GV trở nên vô tác dụng. Dù học sinh có mắc khuyết điềm thế nào đi nữa thì khôngmột giáo viên nào lại muốn học sinh phải chịu những trận đòn chí mạng. Vì trách nhiệm vớihọc sinh, GV sẽ không thể chọn một giải pháp chỉ vì sự “an toàn” của bản thân. Nếu bỏ vềtrong lúc này thì lại là cách xử sự hết sức sai lầm. GV có quyền làm điều đó vì sự tự áitrước thái độ cư xử thiếu tôn trọng của phụ huynh học sinh. GV thay mặt nhà trường đếngặp gia đình trình bày tình hình sai phạm của học sinh để cùng gia đình tìm giải pháp giúpđỡ em chứ không phải để “tố cáo” khiến học sinh phải chịu đòn. Chính vì thế GV có quyềntức giận nhưng tuyệt đối không nên bỏ về vào lúc này vì nhiệm vụ của GV chưa được hoànthành.Đứng trước tình huống khó xử này phải thật bình tĩnh và khéo léo. Hãy cố gắng kiềmchế sự tự ái để nhanh chóng tìm ra phương án xử lý. Trước hết cần tìm cách chấm dứt ngayhành động đánh con của vị phụ huynh đó và phân tích để phụ huynh nhận ra rằng trong việcgiáo dục học sinh bạo lực không bao giờ đem lại kết quả tốt đẹp mà đôi khi còn phản tácdụng. Sau khi vị phụ huynh đó có vẻ bình tĩnh trở lại, bắt đầu câu chuyện của mình mộtcách nhẹ nhàng, cởi mở. Phải giải thích cho phụ huynh hiểu nhà trường luôn coi trọng vaitrò của gia đình trong việc phối hợp để giáo dục học sinh, nhất là khi chúng phạm lỗi. Dù đócó thể là một học sinh nghịch ngợm, hay vi phạm nội quy của trường, lớp nhưng không baogiờ mong muốn gia đình lại giáo dục em bằng những hình thức tiêu cực, phản khoa học nhưđánh đập, chửi mắng thậm tệ, xúc phạm đến lòng tự trọng của các em. Ở độ tuổi học sinhtrung học các em đã có ý thức về cái tôi cá nhân, cần được người lớn tôn trọng. Chính vìvậy, chỉ có sự nhẹ nhàng, ân cần nhưng tuyệt đối nghiệm khắc mới có tác dụng khi chúngcó lỗi. Bạo lực hay sự xúc phạm quá đáng chỉ khiến chúng dễ nảy sinh tâm lý chống đối vàtrởnênươngngạnhhơnmàthôi.Những cố gắng của bạn sẽ có ý nghĩa hơn khi thẳng thắn đề xuất với gia đình những biệnpháp cụ thể để cùng giúp đỡ em học sinh đó tiến bộ. Sự điềm tĩnh, khéo léo và tình thươngyêu, trách nhiệm với học trò là điều kiện quan trọng để GV xử lý thành công tình huốngnày.3. Kỹ thuật xử lý thông tin về môi trường giáo dụcHoạt động 1: Một số kĩ thuật xử lí thông tin vẽ môi trường giáo dục Trung học cơ sởXử lí tài liệu cần phân tích về định tính và định lượng.-Phân tích định luợng: Là xem xét, đánh giá về số lượng các kết quả nghìên cứu, thể hiệnbằng các con số. Để phân tích định lượng, cách hay sử dụng nhất là dùng các thuật toán.-Xem xét, đánh giá kết quả nghiên cứu về mặt chất lượng, đòi hỏi phải phân tích, lí giải cácsố liệu trên cơ sở đối chiếu với tri thức lí luận, hoặc qua quan sát, qua trao đổi, phỏng vấnvới đồng nghiệp về những nội dung đang nghiên cứu.Hoạt động 2: Thực hành kĩ thuật xử lí thông tin về môi trường giáo dục Trung học cơsởKhi xử lí và phân tích thông tin về môi trường giáo dục, yêu cầu quan trọng nhất đặtra cho nhà giáo dục là phải đảm bảo tính khách quan và trung thục.4. Đánh giá mức độ ảnh hưởng cảu môi trường GD đến học tập, rèn luyện của HSHoạt động 1: Đánh giá mức độ ảnh hưởng của môi trường giáo dục đến việc học tập,rèn luyện của học sinh THCSa) Ảnh hưởng của môi trường đến mục đích , động cơ học tậpMôi trường học tập ảnh hường không nhỏ tới mục đích, động cơ học tập. Mục đích họcchỉ đuợc hình thành khi chủ thể bắt đầu học tập. Thông qua học tập, người học chiếm lĩnhđược tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận (những khái niệm của từng bài học, từng tiết học) đây là mục đích bộ phận. Trên cơ sở chiếm lĩnh những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận màchiếm lĩnh được toàn bộ những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo hệ thống (những khái niệm của mônhọc) – đây là mục đích môn học. Mỗi tri thức, kĩ năng, kĩ xảo bộ phận được chủ thể tiếp thuvà làm chủ lại trở thành phương tiện cho việc hình thành mục đích bộ phận tiếp theo, cứnhư vậy, mục đích học sẽ được hình thành trong quá trình thực hiện một hệ thống các hànhđộng học trong một môi trường nhất định.Động cơ của hoạt động học không có sẵn mà hiện thân ở đối tượng của hoạt động học(đó là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…) mà người học cần chiếm lĩnh để hình thành và pháttriển nhân cách.Có hai loại động cơ học là: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội. Động cơ hoàn thiện tri thức:Trong quá trình học tập, học để mở rộng tri thức, mở rộng vốn hiểu biết là động cơthúc đẩy người học tích cực học tập nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Trong trườnghợp này, nguyện vọng hoàn thiện tri thức hiện thân ở đối tượng của hoạt động học Động cơ quan hệ xã hội:Trong quá trình học tập, người học say sưa học ngoài sự hấp dẫn, lôi cuốn của tri thứccòn vì các quan hệ xã hội (học để phục vụ xã hội, học để hài lòng cha mẹ). Trong trườnghợp này, những mối quan hệ xã hội của cá nhân đuợc hiện thân ở đối tượng của hoạt độnghọc. Khi hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội thì ở một mức độ nàođấy nó mang tính chất cưỡng bức, có lúc xuất hiện như là vật cản trên con đường đạt mụcđích, vì vậy người học cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi và có khi xuất hiện xung đột gay gắtHai loại động cơ nói trên cùng diễn ra trong quá trình học tập, nó làm thành một hệthống động cơ thúc đẩy người học học tập. Trong thực tế, có những HS học tập với sự nổlực như nhau, kết quả đạt được như nhau nhưng động cơ có thể rất khác nhau: có ngườihọc là do muốn nâng cao trình độ hiểu biết, muốn có sự phát triển ngày càng cao, có ngườihọc là do để đuợc khen, để bố me vui lòng hoặc đó là con đường tiến thân.b) Ảnh hưởng của môi trường đến phương pháp học tậpMôi trường là điều kiện để người học sử dụng những phương pháp học tập thích hợp.Môi trường nhóm lớp, phương pháp giảng dạy của GV, quan hệ ứng xử của GV đối với HSlà yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới phương pháp học tập của HS THCS. Quá trình dạy học đòihỏi GV và HS cần nổ lực tìm ra các giải pháp để dạy và học đạt hiệu quả ngày càng caoQuan hệ thầy trò tốt đẹp đuợc dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. HS tôn trọng GV bởikĩ năng giảng dạy, phẩm chất cá nhân, kiến thức và trình độ chuyên môn. GV tôn trọng HSvì mỗi HS là một nhân cách với những nỗ lực học tập. .Như vậy, GV là nguời chủ động tạo ra và điều khiển mối quan hệ giữa thầy và trò,dùng ảnh hưởng của mối quan hệ đó để xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa cá nhân vớicá nhân HS, giữa cá nhân với nhóm và giữa các nhóm với cả lớp..c) Ảnh hưởng của môi trường đến kết quả học tậpMôi trường học tập của HS THCS có sự tham gia của nhiều nhân tố: GV, người học,gia đình, cơ sở vật chất, yếu tố quản lí của nhà trường. GV là người quyết định sự hợp tácgắn bó giữa thầy và trò, giữa trò và trò, là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục học tập ởHS- HS và tính tích cực học tập trong môi trường nhóm lớp: Phải tạo ra môi trường học tập tựgiác, tích cực, chủ động của HS trong hoạt động nhóm lớp nhằm góp phần nâng cao kết quảhọc tập. Chính thành tích học tập của lớp, của nhóm sẽ góp phần thúc đẩy thành tích họctập của mọi cá nhân HS trong nhóm, lớp.- Cán bộ quản lí: Giữa cán bộ quản lí, GV, HS phải thực sự tôn trọng lẫn nhau, quan hệ chiasẻ, cộng đồng trách nhiệm. Không thể có môi trường học tập tốt nếu trong nhà trường cácmối quan hệ thiếu dân chủ, bất bình đẳng. Hình ảnh các thầy là hình ảnh lí tưởng mà các thếhệ học trò học tập và làm theo. Chính tấm gương lao động của các thầy, cô là bài học cholớp lớp thế hệ HS, góp phần tạo nên thành tích của nhà trườmg.- Cơ sở vật chất: Một môi trường học tập tốt trước hết phải đảm bảo các điều kiện cơ sở vậtchất tối thiểu. Ngược lai, cơ sở vật chất thiếu thốn sẽ gây ra khó khăn về mọi mặt cho hoạtđộng học tập của HS, làm giảm sút kết quả học tập của HS.Môi trường giáo dục là tập hợp không gian với các hoạt động xã hội của cá nhân, cácphương tiện và giao lưu được phối hợp với nhau tạo điều kiện thuận lợi để giáo dục đạt kếtquả cao nhất.Hoạt động 2: Một số biện pháp phối hợp xây dựng môi trường giáo dụca) Phối hợp giữa gia đinh, nhà trường và xã hội để giáo dục HS• Nội dung phối hợp :Việc liên kết, phối hợp giữa môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chứcxã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách công dân được coi là một nguyên tắcquan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sựthống nhất về nhận thức cũng như cách thức hành động để hiện thực hóa mục tiêu quá trìnhphát triển nhân cáchLiên kết, phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm thực hiện những nộidung chủ yếu sau:- Thống nhất mục đích, kế hoạch chăm sóc, giáo dục HS của tập thể sư phạm nhà trườngvới phụ huynh, với các đoàn thể, cơ sở sản xuất, các cơ quan văn hoá, giáo dục ngoài nhàtrường.- Theo dõi, đánh giá kết quả quá trình giáo dục HS trong nhà trường và ở địa phươngnhằm không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục.- Gia đình phải tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,thể chất, thẩm mĩ cho trẻ em; người lớn có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con em,cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.- Đẩy mạnh sự nghiệp xã hội hóa giáo dục nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cũng như điềukiện thuận lợi cho hệ thống nhà trường thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đào tạo ở tất cả cáccấp học.b) Những yêu cầu để thực hiện tốt việc phối hợp: Đối với gia đìnhHoạt động tích cực trong tổ chức hội phụ huynh nhà trường nhằm góp phần xây dựngcơ sở vật chất, tinh thần, thực hiện sự nghiệp xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện thuận lợicho nhà trường nâng cao chất lượng giáo dưỡng và giáo dục.Duy trì thường xuyên, đều đặn mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình bằng sổ liên lạc,phiếu đánh giá, điện thoại để gia đình biết được kết quả học tập, rèn luyện và những ưu nhược điểm của con em mình. Ngược lai, nhà trường cũng nắm bắt được tình hình học tập,sinh hoạt của HS ngoài giờ lên lớp.Vì mục đích giáo dục nên các bậc cha mẹ cần mạnh dạn thẳng thắn liên lạc, phối hợpvới các cơ quan, đoàn thể, tổ chức ở mọi địa phương, kể cả những cơ quan bảo vệ pháp luậtnhư công an, chính quyền địa phương nếu thấy cần thiết để uốn nắn, ngăn chặn kịp thờinhững biểu hiện xấu, lệch lạc có thể phát triển đối với con em mình. Đối với nhà trườngCần phát huy vai trò trung tâm trong việc liên lạc, phối hợp giáo dục. Nhà trườngchủ động phổ biến nội dung, mục đích giáo dục đến các tổ chức xã hội của địa phương nhưĐoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… nhằm định hướng tác động thống nhất đối với quá trìnhhình thành và phát triển nhân cách của trẻ.Thực hiện vai trò là trung tâm văn hoá, giáo dục của địa phương, nhà trường cần tổchức tuyên truyền phổ biến các tri thức khoa học kĩ thuật, công nghệ, văn hoáNhà trường cần phối hợp với chính quyền phương tổ chức cho các em tham gia tíchcực vào các hoạt động văn hoá, xã hội như: bảo vệ môi trường, đền ơn đáp nghĩa, bài trừma túy, dân số – kế hoạch hóa gia đình… nhằm góp phần cải tạo môi trường ngày càng tốtđẹp, lành mạnh đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ.Giúp địa phương theo dõi, đánh giá kết quả của quá trình giáo dục thanh thiếu niên,phân tích nguyên nhân, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự liên kết, phốihợp chặt chẽ giữa các môi trường và khai thác vai trò, ưu thế đặc biệt của giáo dục gia đình.Xây dựng, củng cố Hội Phụ huynh HS, Ban giáo dục địa phuơng tạo nên sức mạnhtổng hợp, đồng bộ, hướng vào mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ một cách thường xuyên, có tổchức, có kế hoạch. Với các tổ chức xã hộiTiềm năng giáo dục của lực lượng xã hội như các cơ quan đoàn thể, các hội quầnchúng, các cơ sở sản xuất, các đơn vị quân đội… là vô cùng to lớn, được thể hiện trong tấtcả các lĩnh vực tư tưởng chính trị – đạo đức, khoa học- kĩ thuật văn hoá- nghệ thuật thể dụcthể thao, nghề nghiệp… dưới hình thức kết nghĩa với nhà trường hoặc đỡ đầu nhà trườngxây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật hoặc giúp các lớp HS tham quan, học tập, giao lưu, tiếpxúc với việc thật, người thật điển hình, gương mẫu trong xã hội để hoàn thiện cá nhân, Chủtịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình ngược lại, sẽ có ảnhhưởng không tốt đến trẻ và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thànhngười tốt, nhà trường, gia đình, đoàn thể xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau”.c) Xây dựng cơ sở vật chất, cảnh quan nhà trường:Cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường có tác động mạnh đến cảm xúc, hình thành ấntượng và niềm tự hào đối với HS. Một môi trường xanh, sạch, đẹp với điều kiện cơ sở vậtchất đuợc đảm bảo tạo cho HS cảm giác tự tin, vui tươi khi đến trường, hình thành nênhưng phấn tích cực đối với mọi hoạt động. Cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường baogồm các điều kiện tự nhiên nơi trường đóng và các phương tiện kĩ thuật phục vụ cho mọihoạt động của nhà trường.Việc xây dựng cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường là một nội dung cơ bản để cómột môi trường học tập thân thiện ở trường THCS.d) Lựa chọn, vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quảQuá trình dạy học đòi hỏi GV và HS cần nổ lực tìm ra các giải pháp để dạy và học đạthiệu quả ngày càng cao, trong đó, việc GV vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với nhucầu, trình độ và các đặc điểm tâm lí khác của lứa tuổi HS THCS nhằm phát huy tính tự giác,tính tích cực chủ động học tập của HS đuợc coi là một giải pháp tốt nhất. Mỗi phương phápdạy học có ưu điểm, nhược điểm khác nhau và sự phù hợp với nội dung khác nhau, do đóGV cần phối hợp các phương pháp dạy học nhằm huy động tới mức cao nhất tính tích cựchọc tập của HS, tạo quan hệ học tập hợp tác, chia sẻ trong môi trường nhóm lớp của HS. Xây dựng quan hệ sư phạm mang tính chuẩn mựcĐể xây dựng một môi trường học tập thân thiện nhằm khai thác mặt giá trị vàcảm xúc của HS trong qua trình học tập thì các mối quan hệ trong dạy học có vai tròquyết định. Quan hệ giữa GV với HS, giữa cá nhân HS với nhau, giữa cá nhân với nhóm,giữa nhóm và cả lớp được phát triển theo xu hướng tăng cường sự tương tác, hợp tác vàcạnh tranh, tham gia và chia sẻ. Nhà trường cần tăng cường xây dựng các mối quan hệ sưphạm chuẩn mực giữa GV với đồng nghiệp, giữa GV với HS, giữa HS với GV và HS vớiHS… Tính chuẩn mực trong quan hệ sư phạm phải trở thành nét văn hoá truyền thốngcủa nhà trường, có tác dụng tạo động lực cho hoạt động dạy và học phát triển.* VẬN DỤNGCâu 1: Theo anh (chị), sự khác biệt giữa môi trường giáo dục gia đình và nhà trường làgì?Cùng là giáo dục, cùng nhằm tới một đối tượng là con trẻ, cùng chung mục tiêu tạonên những công dân tốt cho xã hội, nhưng giáo dục trong gia đình và giáo dục trong nhàtrường có rất nhiều điểm khác biệt.Trước hết, giáo dục trong gia đình là sự giáo dục tổng quát, cả về thể lực, trí lực, vàđạo đức, thẩm mỹ…, rất đa dạng và nhiều chiều, bao quát mọi khía cạnh của nhân cách. Nókhác với giáo dục của nhà trường chủ yếu nhằm tới sự trang bị kiến thức nhiều mặt, từ hiểubiết về thế giới tự nhiên đến những kiến thức lịch sử, xã hội. Gia đình giáo dục nhân cách,nhà trường cung cấp kiến thức. Hai dạng giáo dục này tuy khác biệt nhưng lại bổ khuyếtcho nhau một cách tuyệt vời, mang tới cho cá nhân hai mảng đời sống tinh thần chính củathế giới “cái tôi”, mà thiếu bất cứ một mảng nào cũng sẽ dẫn tới sự khiếm khuyết, què quặtvà sự phát triển lệch lạc của con người.Giáo dục trong gia đình và giáo dục ở nhà trường còn có sự khác biệt về chủ thể giáodục. Ở nhà trường, chủ thể này là các thày cô giáo, những nhà giáo dục chuyên nghiệp,được đào tạo bài bản, được chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp. Dù quá trình giảng dạy cókhác nhau, nhưng định hướng và những nội dung cụ thể thì luôn thống nhất, cung cấp chohọc sinh những kiến thức chuẩn mực đã được phê duyệt. Kết quả là, học sinh chỉ khác nhauvề mức độ tiếp nhận, còn những gì họ thu nhận được ở nhà trường thì hoàn toàn giống nhauCòn trong gia đình, sự giáo dục được tiến hành bởi nhiều chủ thể cùng lúc: cha mẹ,ông bà, anh chị, họ hàng… Những nhà giáo dục này không chỉ khác nhau về đặc điểm nhânkhẩu- xã hội (giới tính, độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp…), mà khác nhau về quan điểm, sởthích, cá tính, kiến thức xã hội… Rất ít người trong số họ là nhà giáo dục và được đào tạo.Những điều họ dạy bảo trẻ cũng rất khác biệt, tuỳ thuộc vào những đặc điểm và quan niệmcủa bản thân. Điều này dẫn đến kết quả là trẻ em trong gia đình nhận được lượng thông tinvà kiến thức hết sức da dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, là cơ sở để hình thành mộttâm hồn phong phú với những tri thức đủ đầy.Phương pháp giáo dục tại gia đình và nhà trường cũng khác nhau. Ở trường, cho dùnhững phương pháp giảng dạy cụ thể mà các thày cô áp dụng có khác nhau, thì chúng đềulà những phương pháp khoa học, được thẩm định, có cơ sở lý luận để vận dụng. Trong khiđó, giáo dục ở gia đình áp dụng những phương pháp hết sức đa dạng, có thể khoa học màcũng có thể không, có thể có lý trí mà cũng có thể chỉ dựa trên cảm tínhNhư vậy, phương pháp giáo dục của gia đình, tuy rằng không phải lúc nào cũng có cơsở khoa học, nhưng lại đa dạng và phù hợp với nhiều chủ thể giáo dục, và được sử dụnglinh hoạt. Chúng cũng thường mang lại hiệu quả cao hơn so với các phương pháp giảng dạytại nhà trường. Nếu các phương pháp giáo dục ở gia đình và ở nhà trường kết hợp được vớinhau một cách hợp lý, thì sẽ phát huy được điểm mạnh của mỗi loại, bổ khuyết những hạnchế cho nhau. Chắc chắn hiệu quả giáo dục sẽ được nâng cao hơn nhiều.Câu 2: Hãy phân tích khái quát ý nghĩa nguyên lí giáo dục “Kết hợp giữa giáo dục giađình, nhà trường và xã hội”.Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp trẻ pháttriển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môitrường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội phức tạp. Vì thế, việcgiáo dục nói chung và giáo dục trẻ em nói riêng luôn luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặtchẽ của nhiều lực lượng xã hội và nhất là đòi hỏi sự quan tâm đúng cách của nhà trường,giađìnhvàmọingườitrongxãhội.Ý nghĩa sâu sắc của việc phối hợp các lực lượng giáo dục đã được Bác Hồ chỉ ra từlâu: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội vàtrong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trongnhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quảcũng không hoàn toàn ”Để thống nhất và tập hợp được sức mạnh của toàn xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ,nhà trường vừa phải không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện vừa phải phốihợp chặt chẽ với gia đình, với các tổ chức xã hội hướng vào một số công việc cụ thể sau:- Đưa nội dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường vào các tổ chức xã hội trong địaphương như: Đoàn TN, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi,…nhằm thống nhất định hướng tác động đối với quá trình hình thành và phát triển nhâncáchcủatrẻ.- Phát huy vai trò nhà trường là trung tâm văn hóa giáo dục của địa phương, tổ chứcviệc phổ biến các tri thức khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội- Phối hợp với địa phương tổ chức cho HS tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóaxãhộiTóm lại, việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội đối với việc chăm sóc giáodục trẻ là một nguyên tắc cơ bản nếu muốn có sự thành công. Sự phối hợp chặt chẽ ba môitrường giáo dục trên, trước là để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạtđộng giáo dục cùng một hướng, một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnhkích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ, tránh sự tách rời mâu thuẫn, bàixích lẫn nhau gây cho các em tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động trong việc lựachọn, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân cách. Sự phối hợp gia đình, nhà trường, xã hộicó thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản hàng đầu là tất cả các lực lượng giáo dụcphải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan hệ phối hợp vì mụctiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân hữu ích cho đất nước.Câu 3: Hãy kể tên các kĩ nâng cơ bản và chuyên biệt mà một người GV THCS cần phảicó.Những kỹ năng cần có của giáo viên để thích ứng với nền giáo dục trong bối cảnh củacuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đạia) Người giáo viên cần có kĩ năng tự học, tự nghiên cứub) Giáo viên cần có kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.c) Giáo viên cần có kĩ năng hợp tác trong dạy họcd) Giáo viên cần luôn tự bồi dưỡng kĩ năng giải quyết vấnCâu 4: Từ việc ảnh hưởng của yếu tố xã hội, nhà trường, gia đình, tập thể và các tổchức đoàn thể, đến sự phát triển nhân cách học sinh, Anh (chị) hãy rút ra những bàihọc sư phạm cho từng yếu tố và liên hệ với thực tiễn nơi anh (chị) công tác.a) Nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng tích cực của gia đình đến việc giáo dục học sinh:- Điều kiện kinh tế văn hóa, vật chất của gia đình tốt, cha mẹ học sinh phần lớn lànhững bậc cha mẹ có trình độ, vốn hiểu biết xã hội rộng.- Cha mẹ học sinh luôn quan tâm đến việc học tập và rèn luyện- Cha mẹ học sinh luôn kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm, với nhà trường,quan tâm đến việc giáo dục HS trong nhà trường.b) Nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực của gia đình đến việc giáo dục học sinh:- Trình độ hiểu biết về văn hóa – xã hội của cha mẹ học sinh thấp, nghề nghiệp khôngổn định.- Trẻ sống trong gia đình “không toàn vẹn”- Một số bậc cha mẹ học sinh chưa nhận thức được trách nhiệm của mình trong việcgiáo dục con cái, còn mang tư tưởng “khoán trắng” việc giáo dục con cái cho thầy cô,không quan tâm đến việc giáo dục trẻ, thường đổ dồn hết trách nhiệm giáo dục trẻ cho nhàtrường và xã hội.- Nhà trường chưa quan tâm đến việc giáo dục gia đình, chưa chú ý đúng mức đếnviệc bồi dưỡng phương pháp giáo dục trẻ cho các bậc cha mẹ, chưa có biện pháp giúp cácbậc cha mẹ có được phương pháp giáo dục con cái tốt và giúp họ nhận thức được tráchnhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con cái.- Hội nghị phụ huynh hàng kỳ còn mang nặng hình thức thông báo kết quả học tập,rèn luyện của học sinh (điều này sổ liên lạc đã có) hoặc chỉ nhằm bàn bạc thống nhất cáckhoản đóng góp hỗ trợ…, không giành khoảng thời gian gặp gỡ ngắn ngủi và quý báu ấy đểnêu những tấm gương gia đình giáo dục con tốt, trao đổi kinh nghiệm giáo dục con cái tronggia đình, tạo điều kiện để các bậc phụ huynh học hỏi kinh nghiệm, phương pháp nuôi dạycon tốt với nhau.c) Giải pháp :- Trang bị cho phụ huynh học sinh một số kiến thức về phương pháp tổ chức giáo dụcgia đình, giúp họ nhận thức được ảnh hưởng của nề nếp sinh hoạt gia đình. Giúp cha mẹhọc sinh hiểu được mối quan hệ trong gia đình và đạo đức, hành vi ứng xử của cha mẹ làbài học đạo đức, là nền tảng nhân cách của trẻ.-Giáo viên chủ nhiệm phải nhận thức được trách nhiệm của mình trong giáo dục giađình. Giáo viên chủ nhiệm là nòng cốt hướng dẫn giáo dục gia đình. Các cuộc họp phụhuynh cần tránh tệ hình thức không cần thiết, nội dung cuộc họp chủ yếu hướng vào việctạo điều kiện cho cha mẹ học sinh trao đổi về kinh nghiệm giáo dục trẻ trong gia đình, kinhnghiệm xây dựng gia đình thành môi trường giáo dục lý tưởng.- Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh bằng nhiều hình có như vậy mới giúpcác bậc học sinh hiểu rõ nhiệm vụ của họ, tránh tư tưởng khoán trắng cho nhà trường- Tập hợp các bậc cha mẹ học sinh có kinh nghiệm giáo dục trẻ để vận động, hướngdẫn giáo dục gia đình cho một số bậc cha mẹ học sinh còn nhiều khó khăn, lúng túng trongphương pháp tổ chức giáo dục gia đình, phương pháp giáo dục con cái.II. MOODULE 2A. Mở đầu:Giáo dục ngôn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạy họctiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn là nhiệm vụhàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy học tiếng Việt với tưcách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tại dải đất này, các dântộc như Jarai, Bahnar…- Trong tâm lí học lứa tuổi, học sinh lứa tuổi thiếu niên luôn ngự trị quy luật về tính mấtcân đối tạm thời, tính mâu thuẫn và quy luật về tính không đồng đều của sự phát triển thểhiện ở tất cả các lĩnh vực của nhân cách và thể chất. Nhưng thực tế làm công tác giáo dụctại các xã vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu thì mỗi ngườicán bộ GV phải biết những “tâm lí riêng” mà không sách vỡ lí thuyết nào có thể nhắc tới.Hằng ngày, ngoài việc soạn bài lên lớp là việc vận động duy trì số lượng, tìm các biện phápnâng cao chất lượng, người GV còn phải là “Vừa là thầy giáo, vừa là bạn bè”. Với kinhnghiệm thực tiễn sau đây sẽ giúp những GV mới chập chững vào nghề đến nhận công tác ởmiền núi có những biện pháp giáo dục hợp lí, đặc biệt là GV chủ nhiệm lớp.B. Nội dung:1. Học sinh Tiểu học người dân tộc trước khi đến trường:- Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân tộc thiểusố chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sự chăm sóc củavườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu hội thoại đơn giảnmang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường Mầm Non đã trang bịcho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn theo các em bước vào lớp1.Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây, cũng như các em chỉ sử dụngtiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ thông, tiếngViệt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc giao tiếp thông thường với thầy côgiáo đã khó khăn, và cũng có khi là không thể, việc nghe giảng những kiến thức về các mônhọc khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến lớp làcác em bước đến một môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thườngtrực trong các em, làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường.2. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai:- Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các em,trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ hoàntoàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngônngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên,bản năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp, người địa phương chỉ sửdụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì vốn kiến thức về tiếng Việt ở họquá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗilần các cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc họp nào đó ở làng, bản, họ phát biểu bằngtiếng Việt rất khó khăn. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đờisống gia đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp.Dần dà các em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đãhọc trên lớp, từ đó, đã khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếplớn hơn, vượt khỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.3. Mặc cảm của học sinh dân tộc thiểu số khi đến trường học tiếng Việt:- Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên, tôi nhận thấyrằng, các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèo luôn nhắcnhở con người sống trong cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc, về điều kiện,hoàn cảnh sống của bản thân. Nghèo đã giúp con người ta vươn lên nhưng nghèo cũng làmcho con người luôn mặc cảm, tự ti, bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Mặc cảm số phận đãkhiến con người không thể thoát khỏi những thiếu thốn vật chất, không thể vươn xa hơnkhông gian sống hiện tại. Những học sinh tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyênkhông có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, không chỉ có “ngày hai buổi đến trường”, các em cònphải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa, trồng ngô,…lo cho cuộc sống vật chất của gia đìnhđang chật vật, thiếu thốn. Chúng tôi thật thương tâm khi nghe nhưng đồng nghiệp đanggiảng dạy ở những vùng miền núi Tây Nguyên tâm sự, rằng “chúng em phải vào tận lànglùng sục các em, đưa các em đến trường.”; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, “Em phải dùngtiền lương của mình để mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các em trở lạitrường. Nhưng có lúc cũng không thành công!”,… Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề là ở chỗ,cái nghèo truyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn từng bữacòn chưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của các em làvậy! Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi cuộc sống nghèo khóhiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng, số lượnghọc sinh trên lớp học rất ít. Cũng có những hôm thầy giáo cắp cặp tới lớp, rồi quay về, tìmcách xuống bản, tới từng gia đình học sinh, giảng giải cho các em, thuyết phục gia đình cácem rằng, cần phải dành thời gian cho các em học tập, bởi các em còn trong độ tuổi đếntrường. Thế nhưng, hiệu quả của công việc “tuyên truyền” này không phải lúc nào cũng nhưý, lắm lúc, giáo viên còn phải nhận những câu trả lời cay nghiệt của phụ huynh khiến chohọ có những giây phút nản lòng.Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng xin phép giáo viên chủ nhiệm, nhàtrường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên trở lại trường khi mùa gặt kết thúc.Giáo viên lại phải nhọc công tìm đến tận bản, vận động các em đến trường.- Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh là sựsống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, về điềukiện sống, hoàn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểu học dântộc thiểu số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cản ngăn cách hoạtđộng sống của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các em khó tiếp xúc, hòanhập cộng đồng.- Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ở mộtmức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mối quan hệtrong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hoàn cảnh thực tạinhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, số phận, làm thui chộthao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số tại các tỉnh TâyNguyên đến trường trong tâm thế “hèn mọn” đó. Các em cũng đã biết nhìn ngắm nhữngtrang phục của các bạn học sinh người Kinh, nhìn lại trang phục của mình. Ỏ những trườngNội trú, tình trạng trên ít xảy ra, nhưng đối với các trường có cả hai đối tượng học sinh,người Kinh và người dân tộc thiểu số, tình trạng trên luôn ngầm diễn ra trong các em. Nếusố lượng học sinh thiểu số nhiều hơn học sinh Kinh thì tình trạng trên ít xảy ra, còn nếu sốlượng học sinh thiểu số ít hơn số lượng học sinh người Kinh thì tình trạng trên càng diễn ranặng nề. Trong lớp chắc chắn sẽ có sự phân biệt, kỳ thị ở hai đối tượng học sinh trên. Mộtbộ quần áo, một đôi dép hay những phụ kiện đơn giản khác của các bạn khi đến trườngcũng làm cho các em băn khoăn, suy nghĩ về nhau, so sánh lẫn nhau. Nhiều em học sinhngười dân tộc thiểu số chân đất đến trường, hoặc trong trang phục cũ kỹ, hay với nhữngđồng phục bắt buộc nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng vớinhững cuốn tập bị bỏ quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thầnhọc tiếng Việt của các em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm.Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em một môitrường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong các em ý thứchọc tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là điều hiển nhiên.Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ phải phát biểu xây dựngbài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài giờ học, đặc biệt là các em rấtkhó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồng nghĩa với việc kiềm hãm sự pháttriển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trường giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lolắng cho mỗi giờ đến lớp, “sợ” phải đến trường. Học tập lúc này là công việc quá khó khănđối với các em.- Đối với người dân tộc Tây Nguyên, không gian sống của họ rất đặc trưng, không córanh giới giữa không gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ không gian sống cá nhân.Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Nguyên. Không gian sống đặc thùnày của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống văn hóa, về cội nguồn.Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ở của họ, một không gianchung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy, việc tạo một không gian học tậpcho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống này đã không tạo điều kiện học tập cho cácem, mà còn làm cho chất lượng học tập của các em ngày càng giảm sút.- Đối với các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong gia đìnhhoặc không có khả năng hướng dẫn, hoặc không có ý thức trách nhiệm đôn đốc nhắc nhởquản lý, hay do hoàn cảnh sống khó khăn mà gia đình đã không chú trọng tới việc học củacon, em mình. Điều này cho thấy đa số các em không được nằm trên một cái nền học vấnnhất định nào đó của gia đình. Việc học tập của các em phải nhờ đến sự tận tâm của giáoviên, nhờ vào kế hoạch giáo dục của nhà trường. Cho nên ý thức học tập là đặc tính rất cầnđược chúng ta xây dựng cho các em.4. Chế độ xã hội:- Hiện nay, xã hội vẫn chưa có sự quan tâm sâu sát đến điều kiện học tập của học sinhdân tộc thiểu số. Nhà nước ta chỉ chú ý đến cơ sở vật chất của Trường học, chứ chưa chútrọng đến đời sống của học sinh một cách đúng mức. Kinh phí hỗ trợ học sinh nghèo vẫnchưa đến kịp thời, chẳng hạn như, kinh phí hỗ trợ học sinh nghèo ở tỉnh Gia Lai năm học2008 – 2009 đến nay (15/ 07/ 2010) vẫn tắc nghẽn, “chưa về được”. Sự thiếu quan tâm nàycủa các cấp chính quyền địa phương đã gieo trong các em tâm lý chán nản, gây trong phụhuynh tâm lý nghi ngờ. Việc nhiều cán bộ xã đã ăn bớt tiền hỗ trợ dân nghèo ăn tết hằngnăm đã bị dư luận xã hội lên án. Hiện tượng tham ô trên xảy ra ở khắp các xã vùng khó trêncả nước đã chứng minh rằng, Nhà nước ta nghĩ, lo cho dân chỉ được một bước, nên đời sốngcủa những người dân ở những vùng khó khăn vẫn chưa thể an toàn được, vấn đề xóa đói,giảm nghèo ở các tỉnh miền núi vẫn chưa thực hiện. Những tồn tại trên đã gây mất niềm tintrong lòng dân đối với các cấp chính quyền, ở trẻ đối với trường, lớp. Cái đói, kiếp nghèovà cả bọn “địa chủ” thời nay luôn rình rập, đeo bám họ thì làm sao tất cả họ đều có suy nghĩlà cần cho con đến trường.5 Về phía giáo viên:- Đa số giáo viên người Kinh ở nơi khác đến giảng dạy ở các tỉnh Tây Nguyên đềukhông biết ngôn ngữ Dân tộc, nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ không thểso sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những tình huống cần thiết trong dạy học tiếng Việt chođối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về phong tục tập quán, họ lại càng không có điềukiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đình các em, khó có thểtiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới không cần thiết giữa thầy và trò, đểdạy tiếng Việt hiệu quả.Dạy học cho người dân tộc thiểu số phải do chính giáo viên người địa phương đảmnhiệm mới mang lại hiệu quả cao được. Nhưng ngặt nỗi, trình độ chuyên môn của giáo viênđịa phương chưa được chuẩn, đa số giáo viên địa phương ở đây chỉ trải qua những lớp đàotạo ngắn hạn, rồi bù vào đó là tấm bằng Đại học Từ Xa, hoặc nhà trường Sư phạm phải tạođiều kiện ra trường cho họ để đáp ứng nhu cầu về giáo viên của địa phương ở những nămtrước đây. Tồn tại ở những trường Tiểu học trên địa bàn Tây Nguyên là một số giáo viêntrình độ sơ cấp (họ chỉ mới học hết lớp 5, rồi chính quyền địa phương cho đi học 3 thángnghiệp vụ, rồi họ lên bục giảng làm thầy), nên công việc giảng dạy của họ khó mang lạiđược hiệu quả mong muốn. Bản thân họ cũng chưa nắm vững những kiến thức về tiếng Việt- Quan tâm đến việc học tập của học sinh, đặc biệt lại là học sinh Tiểu học dân tộc thiểusố cũng không có được mấy người trong số tất cả những người đang trên bục giảng ở vùngkhó khăn. Và trước tâm thế đến trường của học sinh như vậy, thiết nghĩ, giảng dạy cho họcsinh ở những vùng khó, chúng ta cần hiểu được những vấn đề về tâm lý của học sinh, vềđiều kiện, hoàn cảnh sống của gia đình các em để tìm ra những biện pháp giáo dục, dạy họccác em hiệu quả hơn, đưa các em đến với ánh sáng của tri thức. Giáo viên cũng cần tự bồidưỡng chuyên môn nghiệp vụ, học ngôn ngữ địa phương, thâm nhập đời sống văn hóa cộngđồng, đặc biệt là hằng năm, các sở Giáo dục – Đào tạo, phòng Giáo dục cần có chươngtrình, kế hoạch bồi dưỡng giáo viên người dân tộc dài ngày và thường xuyên hơn để việcdạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số hiệu quả. Một điều cuối cùng là, giáo viêncần giúp cho học sinh dân tộc thiểu số hiểu tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chungcho các dân tộc.C. Kết luận:Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào GV và thực tiễn. Các em thường dễ dàng nghetheo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là GV. Khi các em đã tin GV, các em thườngquyết tâm thực hiện cho được những công việc GV giao, nhiều khi các em còn bắt chướctác phong, cử chỉ, ngôn ngữ,.. của GV. Vì vậy, GV phải luôn gần gũi, đi sâu, đi sát giúp đỡcác em, cố gắng cảm hóa các em bằng sự tận tình chăm sóc của mình; đồng thời cũng cốgắng gương mẫu về mọi mặt để dành cho được sự tin yêu của các em, từ đó phát huy tácdụng giáo dục của mình.Nắm vững những đặc điểm tâm lí của học sinh gái. Trong học sinh miền núi, học sinhgái thường ít nói, e dè và dễ xấu hổ, những em gái lớn trong một lớp thường thiếu nhữnghoài bão ước mơ cần thiết; cho nên những tác động ngoại cảnh dễ làm cho các em này bỏhọc. Khi một em có ý định bỏ học thường rủ thêm một số em khác bỏ theo. Từ những đặcđiểm trên, trong khi giao tiếp, gặp gỡ riêng với các em học sinh gái, GV phải thường nóichuyện tâm tình với các em về các vấn đề như vai trò của người phụ nữ trong xã hội ta hiệnnay, những công việc mà người phụ nữ miền núi phải có trách nhiệm vươn lên để gánh vác,sự cần thiết phải có trình độ văn hóa tối thiểu trong thời đại ngày nay, đồng thời phân tíchcho các em những hạn chế của người con gái vùng cao nếu đi lấy chồng sớm,…