BÀI THU HOẠCH CHUYẾN ĐI THỰC TẾ CHUYÊN MÔN CỦA ĐH SP LỊCH SỬ – Tài liệu text

BÀI THU HOẠCH CHUYẾN ĐI THỰC TẾ CHUYÊN MÔN CỦA ĐH SP LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.36 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI.

BÀI THU HOẠCH CHUYẾN ĐI THỰC TẾ CHUYÊN
MÔN CỦA ĐH SP LỊCH SỬ.

HỌ VÀ TÊN: TRỊNH VĂN ĐẠT
LỚP: K18 ĐHSP LỊCH SỬ
THẦY(CÔ) GIÁO HD: LÊ SỸ HƯNG
LÊ TRỌNG THỦY

Bác Hồ ta đã có câu “Học đi đôi với hành”. “Học” là tiếp thu kiến thức đã được tích lũy
trong sách vở, là nắm vững lý luận. Còn “hành” là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức đã

tiếp thu vào đời sống thực tế. Cho nên học và hành có quan hệ chặt chẽ với nhau, là hai mặt của
một quá trình thống nhất, không thể tách rời.
Và trong học tập thì việc vận dụng giữa những kiến thức đã học vào thực tế lại càng quan trọng
hơn, đặc biệt là trong học tập và giảng dạy môn Lịch sử. Với đặc thù bộ môn của chúng ta là
học những sự kiện, hiện tượng, nhân vật đã xảy ra trong quá khứ nên việc tiếp thu kiến thức
trong sách vở và sau đó được đi thực tế, thăm các di tích lịch sử, các hiện vật thì sẽ giúp cho
việc học tập có hiệu quả hơn, và việc tiếp thu kiến thức nhanh hơn, hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn.
Học kỳ I năm 2, chúng tôi có học phần thực tế lịch sử Việt Nam. Khoa đã tổ chức cho
chúng tôi đi thực tế lịch sử Việt Nam ở các tỉnh phía Bắc. Chuyến đi thực tế rất bổ ích đối với
chúng tôi, qua chuyến đi tôi đã thu được nhiều kiến thức, chụp được nhiều hình ảnh tư liệu và
đặc biệt tôi được tận mắt nhìn thấy những di tích lịch sử như chùa Tam Thanh, lán Nà Nưa, cây
đa Tân Trào và Sapa… hay những hiện vật mà bình thường tôi chỉ được nhìn thấy trong sách
vở. Sau chuyến đi này, tôi đã học hỏi được nhiều điều bổ ích, làm phong phú thêm vốn kiến
thức của mình. Và hơn hết đó là những kiến thức tôi được học trên sách vở bây giờ tôi đã trực
tiếp nhìn thấy, sờ thấy.
Đối với việc học tập lịch sử thì đi thực tế có vai trò rất quan trọng, vừa cũng cố kiến thức

đã học, cung cấp thêm kiến thức mới, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước và qua đó cũng rèn
luyện cho thêm nhiều kỹ năng. Với tầm quan trọng của việc đi thực tế lịch sử như vậy nên tôi hi
vọng nhà trường và ban lãnh đạo khoa sẽ tổ chức nhiều dịp đi thực tế hơn nữa để cho việc học
của sinh viên đạt hiệu quả cao.
Ngày 09 – 1- 2017 đúng 6 giờ 45 chúng tôi có mặt tại cổng trường Đại học Hồng Đức
đúng 7 giờ chiếc xe bắt đầu xuất phát và địa điểm đầu tiên mà chúng tôi tới đó là Đền Trần. Và
đúng 9 giờ 20 chúng tôi đã có mặt tại điểm đi đầu tiên đó là Đền Trần (Nam Định) khi tới đây
chúng tôi được nghe hướng dẫn viên hướng dẫn về lịch sử hình thành, xây dựng của ngôi đền
sau đó chúng tôi được tự do tham quan và chụp ảnh lưu niệm. Sau kề khi nghe và tự tìm hiểu tôi
đã biết thêm nhiều thứ như bố cục của ngôi đền, lễ hội…
Đền Trần ( Trần Miếu)
Là một đền thờ tại đường Trần Thừa, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định (sát quốc
lộ 10), là nơi thờ các vua nhà Trần cùng các quan lại có công phù tá nhà Trần. Đền Trần được

xây dựng từ năm 1695, trên nềnThái Miếu cũ của nhà Trần đã bị quân Minh phá hủy vào thế kỷ
15.
Đền Trần bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là đền Thiên Trường (hay đền Thượng), đền Cố
Trạch (hay đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Trước khi vào đền, phải qua hệ thống cổng ngũ môn.
Trên cổng ghi các chữ Hán Chính nam môn (正正正 – cổng chính phía nam) và Trần Miếu. Qua
cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ nước là khu đền Thiền Trường. Phía
Tây đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa, phía Đông là đền Cố Trạch.
Cả 3 đền đều có kiến trúc chung, và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa tiền đường 5 gian,
tòa trung đường 5 gian và tòa chính tẩm 3 gian. Nối tiền đường và trung đường là kinh đàn
(thiêu hương) và 2 gian tả hữu.

Đền Thiên Trường.
Đền Thiên Trường được xây trên nền Thái miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước

nữa là nhà thờ họ của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các Thái thượng hoàng nhà Trần sống
và làm việc. Đền Trần hiện nay được dân địa phương xây bằng gỗ từ năm Chính Hòa thứ 15
(tức năm 1695). Các năm 1773, 1854, 1895, 1907-1908, đền được mở rộng và xây thêm.
Đền Thiên Trường hiện tại gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, thiêu hương, 2 dãy tả
hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Khung
đền bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch.
Bệ thờ Công đồng Hoàng đế tại Tiền đường.
Tiền đường của đền Thiên Trường gồm 5 gian, dài 13 mét. Có 12 cột cái cùng 12 cột quân, tất
cả đều được đặt trên chân tảng bằng đá hình cánh sen có từ thời Trần là chân cột cung Trùng
Quang cũ. Tại đây có đặt ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần
Sau tiền đường là trung đường là nơi thờ 14 vị hoàng đế nhà Trần. Tuy nhiên, không có tượng
thờ mà chỉ có bài vị. Trước cửa trung đường có ba cỗ ngai là nơi thờ bái vọng các vị hoàng đế.

Sau trung đường là chính tẩm gồm 3 gian. Đây là nơi thờ 4 vị thủy tổ của họ Trần và các phu
nhân chính thất ở gian giữa. Các hoàng phi của nhà Trần cũng được đặt bài vị thờ ở 2 gian trái,
phải.
Tòa thiêu hương (hay kinh đàn) là nơi đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Có ban
thờ riêng cho các quan văn, và ban thờ riêng cho các quan võ.

Đền Cố Trạch
Đền Cố Trạch nằm phía Đông của đền Thiên Trường. Nhìn từ sân, là bên phải đền Thiên
Trường. Đền Cố Trạch được xây vào năm 1894. Theo bia “Trùng kiến Hưng Đạo thân vương cố
trạch bi kí”, thì lúc tu sửa đền Thiên Trường năm 21 đời Tự Đức (năm 1868), người ta đào thấy
ở phía Đông đền Thiên Trường một mảnh bia vỡ có ghi chữ Hưng Đạo thân vương cố trạch
(nhà cũ của Hưng Đạo thân vương). Do đó khi xây đền này vào năm 1894 khánh thành vào năm
1895, đền được đặt tên là Cố Trạch Từ (đền nhà cũ). Đền Hạ là tên thường gọi.
Đền Cố Trạch đặt bài vị của Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng. Tiền đường của đền Cố
Trạch là nơi đặt bài vị của 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo, đó là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ

Lão và Nguyễn Chế Nghĩa.
Thiêu hương (kinh đàn) là nơi đặt long đình trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng
Phật. Bên trái đặt bài vị các quan văn. Bên phải đặt bài vị của các quan võ. Gian tả vu là nơi đặt
bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các bài vị văn thần triều Trần. Gian hữu vu là nơi
đặt bài vị võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Tòa trung đường là nơi
đặt bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, bài vị của 4 người con trai, của Phạm Ngũ Lão và các
tả hữu tướng quân. Tòa chính tẩm là nơi đặt bài vị của cha và mẹ Trần Hưng Đạo, của Trần
Hưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), của 4 người con trai và 4 người con dâu của Trần
Hưng Đạo, của con gái và con rể (Phạm Ngũ Lão).

Đền Trùng Hoa.

Đền Trùng Hoa trong quần thể Đền Trần
Đền Trùng Hoa mới được chính quyền tỉnh Nam Định với sự hỗ trợ về kinh phí của chính phủ
xây dựng từ năm 2000. Đền được xây trên nền cung Trùng Hoa xưa – nơi các đương kim hoàng
đế nhà Trần về tham vấn các vị Thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng bằng
đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương là nơi
đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan
võ.

Lễ hội.
Lễ hội đền Trần được tổ chức trong các ngày từ ngày 15 đến ngày 20 tháng tám âm lịch hàng
năm tại phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định nhằm tri ân công của 14 vị
vua Trần.[1]
Từ năm 2000, Nam Định tổ chức Lễ khai ấn đền Trần vào rạng sáng ngày 15 tháng giêng. Lúc
đầu lệ khai ấn chỉ bó hẹp trong không gian làng Tức Mặc, dần trở thành lễ hội lớn. “Trần miếu

tự điển” là chiếc ấn được dùng để đóng ấn dịp Lễ hội Đền Trần hiện nay. Ấn hình vuông, làm
bằng gỗ, được chế tạo vào thời Nguyễn, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Hai mặt Đông-Tây của
viền ấn khắc hình 2 con rồng, mặt Nam của viền ấn khắc chìm 4 chữ “Tích phúc vô cương.”
“Trần miếu tự điển” mang nội dung điển lệ, tục lệ thờ tự tại miếu nhà Trần, phạm vi, quy mô
nhỏ hẹp là dòng họ Trần tại làng Tức Mặc.

[2]

Sau khi nghe thuyết minh song chúng tôi được tự do tìm hiểu và chụp ảnh kĩ niệm. Tiếp theo
đó đoàn chúng tôi lên xe đi ra Quảng Ninh và chúng tôi dừng lại ăn trưa lúc 11 giờ ở quan cơm
Ba Cây Đa tại thành phố Thái Bình rồi lên xe tiếp tục cuộc hành trình tới Quảng Ninh, trên
chặng đường ra Hạ Long – Quảng Ninh đoàn chúng tôi có ghé qua thăm một chứng tích lịch sử

nổi tiếng đã hai lần làm cho quân giặc khiếp sợ đó là bãi cọc Bạch Đằng huyền thoại khi tới đây
tôi mới thấy được sự mưu trí của những anh hùng thời xưa và qua đó tôi hiểu thêm được nhiều
kiến thức hơn về bãi cọc Bạch Đằng.
Di tích bãi cọc Bạch Đằng huyền thoại.
Ngày nay du khách vẫn có thể tận mắt thấy dấu tích bãi cọc gắn liền với trận đại thắng trên
trên sông Bạch Đằng (Quảng Ninh), một biểu tượng cho truyền thống người Việt đánh giặc
ngoại xâm từ phương Bắc.
Nằm trên đường trục đường giao thông từ Hà Nội về thành phố Hạ Long, bãi cọc Bạch Đằng
ở thị xã Quảng Yên thuộc khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng là điểm dừng chân không
thể bỏ qua. Từ ngã tư thị xã Quảng Yên đi về hướng Phà Rừng khoảng 2 km, rẽ trái khoảng 500
m, du khách sẽ đến với bãi cọc Yên Giang, một phần của trận địa cọc Bạch Đằng năm xưa.
Di tích bãi cọc Yên Giang nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120 m, chiều
rộng khoảng 20 m. Sau lần khai quật đầu tiên vào năm 1958 và nhiều lần sau đó vào các năm
1969, 1976, 1984, 1988… cho thấy cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 – 2,8 m, đường kính
20 – 30 cm. Phần cọc được đẽo nhọn dài 0,5 – 1m để cắm thẳng xuống sông với khoảng cách

trung bình 1 m.
Tuy ngày nay đa phần các đầu cọc đã bị mục gẫy, du khách vẫn có thể hiểu thêm về lịch sử
của bãi cọc cũng như nghệ thuật quân sự tài tình của Trần Hưng Đạo qua tấm bia đá dựng ngay
gần đó. Trên bia ghi rõ: “Dựa vào địa thế sông Bạch Đằng (thế kỷ thứ XIII), lòng sông có nhiều
bãi bồi và dải đá ngầm, Trần Hưng Đạo đã cho đóng những bãi cọc ở vị trí hợp lý tạo thành một
trận địa cọc chặn đánh đường rút chạy của giặc Nguyên Mông”.
Cách bãi cọc Yên Giang vài km là bãi cọc đồng Vạn Muối, nằm ở cửa sông Rút, thuộc
phường Nam Hòa được nhân dân Quảng Yên phát hiện trong quá trình canh tác, đào ao. Sau lần
khảo sát và khai quật năm 2005, cho thấy những cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong khu vực
đồng Vạn Muối thuộc nhiều loại gỗ được sử dụng cả thân và cành. Đường kính mỗi cọc từ 7 10 cm, phần được vạt nhọn chỉ khoảng 25 – 30 cm. Tuy nhiên, mật độ cọc ở đây được cắm rất
dày, phổ biến cách nhau từ 40 – 60 cm, một số cọc chỉ cách nhau từ 10 – 30cm.
Theo các nhà nghiên cứu, đây là nửa phía Nam của trận địa cọc Bạch Đằng, còn nửa phía Bắc là
bãi cọc Yên Giang. Do giữa hai bãi cọc có một dải cồn đá cao, khi nước triều xuống thuyền

không qua được buộc phải đi vào sát bờ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn vị trí cắm cọc ở hai
bên cồn đá tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông Bạch Đằng để chặn
đường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằng
năm 1288.

Cũng trong địa phận phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, bãi cọc đồng Má Ngựa đã được
phát hiện và tiến hành khảo sát, khai quật vào năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba thuộc bãi cọc
Bạch Đằng nằm ở cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1 km về hướng Nam.
Bãi cọc có chiều dài 70 m, rộng 30 m, cắm cọc thuộc nhiều loại gỗ có đường kính từ 6 – 22 cm
dày đặc thành dải như một lớp tường thành.
Ba bãi bãi cọc Yên Giang, Đồng Vạn Muối và Đồng Má Ngựa đã làm thành những bãi chông
ngầm lớn, phức tạp, kín đáo dưới mặt nước khóa chặt đường tháo lui ra biển, giúp tiêu diệt và
bắt sống 600 chiến thuyền với 4 vạn binh tướng quân Nguyên – Mông trong lần thứ ba chúng
xâm lược nước ta năm 1288.
Để khám phá các giá trị lịch sử, khoa học và quân sự của chiến thắng lịch sử năm 1288, du

khách ngoài tham quan, tìm hiểu bãi cọc Bạch Đằng, có thể ghé thăm các di tích khác như đền
Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà, bến Đò Rừng, đình Yên Giang, đền Trung Cốc, đình Trung Bản
thuộc thị xã Quảng Yên và đình Đền Công – miếu Cu Linh thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt.

Tới 16 giờ 30 phút thì đoàn chúng tôi đã tới Hạ Long với bao nhiêu ấn tượng trong từng
người và đến đúng 17 giờ thì đoàn chúng tôi dừng chân tại một khách sạn và được 2 thầy hướng
dẫn căn dặn là tất cả đoàn vào nhận phòng và đi tắm rửa và đúng 19 giờ xuống ăn cơm tối để tối
chúng ta tiếp tục cuộc hành trình tìm hiểu Hạ Long. Tới 20 giờ tất cả thành viên trong đoàn đã
tập trung xuống xe và chuẩn bị đi thăm Tuần Châu và theo lịch thì chúng tôi được thăm quan,
chụp ảnh ở đây 2 giờ nhưng có một sự cố là khi chúng tôi tới nơi thi vào ngày Tuần Châu không
mở cửa, sau đó các thầy đã cho đoàn đi chơi ở cầu Bãi Cháy tới 21 giờ 30 phút chúng tôi lên xe
và về lại nhà nghỉ để nghỉ ngơi lấy lại sức để tiếp tục cuộc hành trình.

Động Thiên Cung – Vịnh Hạ Long.

Động Thiên Cung nằm ở phía bắc đảo Đầu Gỗ, cách cảng tàu du lịch 4km về phía nam. Là
một trong những hang động đẹp nhất ở Hạ Long. Hang rộng, có nhiều cấp nhiều ngăn với vô
vàn nhũ đá, măng đá mang những hình thù kỳ lạ.
Hang động này nằm ngay gần hang Đầu Gỗ, cửa hang ở trên độ cao 25m. đây là một hang động
vào loại đẹp nhất ở Hạ Long mà con người biết tới. Hang rộng gần 10.000m2 có cấu trúc rất
phức tạp, gồm nhiều cấp, nhiều ngăn với các trần và bờ vách rất cao, rộng. Đặc biệt trong hang,
ở đâu đâu ta cũng thấy vô vàn các khối nhũ, măng đá với các hình dáng kì lạ. Vì vậy người ta đã
hình dung ra cả một huyền thoại về cuộc tình và sự chia tay của Rồng bố, Rồng mẹ đã diễn ra
trên vách đá hoặc nghĩ rằng đây là hình ảnh của các mê cung của Hoàng đế Ba Tư trong chuyện
Nghìn lẻ một đêm.

Động Thiên Cung là hang động đẹp nhất Vịnh Hạ Long. Ở ngách phía trong, hang lại thông ra
ngoài bằng một cửa nhỏ, nhìn xuống một vịnh biển nhỏ bị vây kín bởi một vùng cung núi.
Trong hang cũng thấy có một dòng chữ trên vách đá và con số 1901. Có lẽ đây là bút tích của
nhà thám hiểm đầu tiên đã tìm tới hang này. Bây giờ người ta đã xây hẳn một hệ thống cầu
thang, hành lang đẹp và công phu cả ở bên ngoài và bên trong hang với các hệ thống đèn chiếu
sáng để du khách dễ dàng vào thăm hang. Ngày 1/5/1998, động Thiên Cung chính thức mở cửa
đón du khách và từ đó đã tạo thành một làn sóng du lịch để về vịnh Hạ Long. Đây là chiếc động
đầu tiên ở Hạ Long đã được con người sủa sang với quy mô lớn. Sắp tới hang này sẽ được sửa
sang một lần nữa với mục đích cố gắng giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên của nó

Chiều đúng 14 giờ chúng tôi lên xe chuận bị đi tới một địa danh khác đó chính là Đền Cửa
Ông và sau 1 giờ 45 phút đoàn chúng tôi đã có mặt tại cổng ngôi đền. Và được sự hưởng dẫn
của hai thầy dẫn đoàn chúng tôi đã biết thêm được rất nhiều thông tin rất bỗ ích để phục vụ cho
việc học tập và giảng dạy sau nay của chúng tôi như về lịch sử ngôi đền, lễ hội…:
Đền Cửa Ông thuộc địa phận phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
Đền là nơi thờ phụng Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng cùng nhiều nhân vật nổi tiếng
thời nhà Trần.

Lịch sử
Sau khi Trần Quốc Tảng mất (năm 1313) nhân dân địa phương truyền lại thấy ông hiển
thánh tại khu Vườn Nhãn (phường Cửa Ông ngày nay) nên đã lập biểu tâu lên vua Trần Anh
Tông, được chấp thuận và chu cấp tiền bạc để lập miếu tế lễ. Khu vực Cửa Ông (xưa gọi là Cửa
Suốt) là nơi Trần Quốc Tảng đóng quân đồn trú bảo vệ tuyến biên giới và lãnh hải phía đông
bắc Việt Nam, lập nhiều công trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Nguyên.

Trước khi thờ Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông gọi là Miếu Hoàng tiết chế, thờ Hoàng Cần, người
địa phương có nhiều công đánh phá giặc cướp, được các triều vua phong “Khâm sai Đông Đạo

Tiết chế”.
Vị Trí.
Đền Cửa Ông nằm trên một ngọn đồi ở phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng
Ninh. Từ thành phố Hạ Long đi theo đường quốc lộ 18 về phía đông bắc khoảng 30 km rẽ phải
vào khoảng 125 mét là tới đền Cửa Ông.
Kiến Trúc
Đền Cửa Ông trước đây được xây dựng thành ba khu, đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, sau
này đền Hạ và đền Trung bị bom Mỹ phá hủy. Đền tọa lạc trên một ngọn đồi cao khoảng 100
mét nhìn xuống vịnh Bái Tử Long ở phía nam, hai bên có hai ngọn đồi nhỏ hộ vệ, phù hợp với
quy tắc Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ, sau lưng là dãy núi xanh chạy dài qua Cẩm Phả, Mông
Dương. Phía trước đền Thượng có một tam quan, bên trái là khu nhà để khách thập phương sắp
lễ vào đền, bên phải là một ngôi chùa, phía sau là lăng Trần Quốc Tảng. Bên trong đền Thượng,
có rất nhiều tượng thờ các nhân vật nối tiếng của triều Trần: tổng cộng có hơn 30 tượng được
phân bổ làm ba lớp: Tiền đường có Đỗ Khắc Chung, Lê Phụ Trần, Nguyễn Địa Lô; Bái Đường
có Trần Quốc Tảng, Trần Thì Kiến, Hà Đặc, Phạm Ngộ, Trần Khánh Dư; Hậu Cung có Trần
Quốc Tuấn, Yết Kiêu, Nguyễn Quyên, Nguyễn Tiễn, Huyền Du, Quyên Thánh Công Chúa, Đỗ
Hành.
Lễ Hội.
Lễ hội Đền Cửa Ông tổ chức ngày 3 tháng 2 âm lịch. Nhân dân theo truyền thống thường đi
lễ đền Cửa Ông từ đầu năm mới âm lịch, theo tuyến du lịch lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc – Yên
Tử – Cửa Ông.

Tới 16 giờ chúng tôi lại lên xe đi về nhà nghỉ để nghỉ ngơi và ăn tối sau một ngày đi vất vả
nhưng cũng rất nhiều kỉ niệm và bên cạnh đó chúng tôi đã tích góp cho mình thêm được nhiều
vốn kiến thức hơn cho mình. 17 giờ 35 xe đưa chúng tôi về tới nhà nghỉ Hồng Hoa và được hai
thầy căn dặn lên phòng tắm rửa và tới 18 giờ 30 tập trung ở tầng 1 để ăn cơm tối sau đó chúng
tôi được tự do tìm hiểu Hạ Long và đêm hôm nay cũng là đêm cuối cùng của cả đoàn ở Hạ
Long nên lớp tôi quyêt định cả lớp sẽ thăm một số nơi ở Hạ Long.

Sáng ngày 11 tháng 1 năm 2017 đúng 6 giờ chúng tôi tập chung dưới xe và xuất phát đi Yên
Tử. Tới 8 giờ xe đã tới chân Yên Tử và bắt đầu cuộc hành trình trinh phục đỉnh núi Yên Tử với
bao nhiêu là kỉ niệm, tuy gặp chuyện ngoài sự cố là có 1 bạn đã không lên được tới đỉnh Yên Tử
do sức khỏe nhưng đoàn chúng tôi đã cố lên được tới đỉnh và qua chặng đường đó chúng tôi đã
hiểu hơn nhiều về đỉnh núi Yên Tử hay lịch sử về ngôi chùa Đồng.
Yên Tử là một địa danh nổi tiếng ở Quảng Ninh, nơi gắn liền với tín ngưỡng Phật Giáo Việt
Nam, khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng lên Núi Yên Tử tu hành, lập ra dòng Thiền
Trúc Lâm Yên Tử. Ngày nay nói tới Yên Tử là ta lại nghĩ ngay tới lễ hội Yên Tử diễn ra từ ngày
10 tháng Giêng cho tới hết tháng 3 âm lịch. Tuy nhiên Du lịch Yên Tử lại diễn ra quanh năm,

việc đi Cáp Treo cũng giúp ngắn khoảng cách và thời gian cho du khách. Điều này giúp bạn có
nhiều thời gian để thưởng lãm Phong Cảnh đẹp tuyệt vời của Núi Non mây trời Yên Tử. Đặc
biệt vào những ngày quang mây, từ đỉnh núi bạn có thể nhìn thấy Biển Hạ Long. Một số thông
tin xin chia sẻ với các bạn về Yên Tử, ngoài ra để kết hợp du lịch Yên Tử và Hạ Long, bạn cũng
nên đọc qua bài viết về Kinh nghiệm du lịch Hạ Long.
Chùa Đồng còn có tên Thiên Trúc tự (chùa Cõi Phật), tọa lạc ở đỉnh cao nhất dãy Yên Tử
(1.068m). Chùa Đồng (Yên Tử) đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận là ngôi chùa
đồng lớn nhất và nằm ở độ cao nhất cả nước. Đây cũng là ngôi chùa được xếp vào hàng độc đáo
nhất trên thế giới, được ví như một “kỳ quan mới” tại khu danh thắng Yên Tử – hiện đang giữ
rất nhiều kỷ lục mà không phải ai cũng biết.

LỊCH SỬ CHÙA ĐỒNG.
Nguyên khởi, chùa Đồng do một bà phi của chúa Trịnh dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ 17). Chùa
được đúc bằng đồng, ban đầu chỉ là một cái khám nhỏ, một người chui không lọt.
Đến năm Canh Thân 1740, đời vua Lê Cảnh Hưng, bão làm bật mái chùa, sau bị kẻ gian dỡ
phần còn lại chỉ để lại dấu tích các hố cột chôn trên mỏm đá.
Vào mùa Đông 1930, bà Bùi Thị Mỹ từ chùa Long Hoa tái tạo chùa Đồng bằng bê tông cốt

đồng trên một hòn đá vuông cao quá đầu người ở vị trí chùa Đồng cũ.
Đến năm 1993, ông Nguyễn Sơn Nam, một Việt kiều ở Mỹ, cùng các phật tử ở hải ngoại phát
tâm đúc lại chùa mới kiến trúc hình chữ Đinh theo dáng một bông sen nở, ngự trên sập đồng
chân quỳ dạ cá trổ hình hoa sen cách điệu, đặt ngay bên cạnh ngôi chùa Đồng bằng bê tông xây
dựng đầu thế kỷ XX.
Theo tinh thần, hai chùa quy vào một khối, không để Phật tử và nhân dân phải thờ hai chùa
Đồng cùng một lúc, thực hiện Quyết định số 3325/QĐ-UB ngày 29/8/2005 của UBND tỉnh
Quảng Ninh Phê duyệt dự án đầu tư tôn tạo tại chùa Đồng tại khu di tích Yên Tử, TP Uông Bí.
Ngày 03 tháng 6 năm 2006 dưới sự chủ trì của Tiến sĩ Phật học Đại Đức Thích Thanh Quyết
(Thượng Tọa Thích Thanh Quyết) và Ban Quản lý Dự án chùa Đồng, bằng công đức thập
phương trong và ngoài nước đã khởi lễ đúc chùa Đồng theo mẫu thiết kế của kiến trúc sư Trần
Quốc Tuấn – Viện Bảo Tồn Di Tích. Chùa được khánh thành vào ngày 30 tháng 01 năm 2007,
tọa lạc trên đỉnh non thiêng ở vị trí giữa hai ngôi chùa được xây dựng trước đây.
Khi thi công chùa Đồng mới, hai ngôi chùa cũ trên đã được chuyển về bảo quản tại Ban Quản
lý di tích Yên Tử, và sau này được chuyển về Nhà trưng bày.
Chùa Đồng mới do các nghệ nhân đúc đồng ở Ý Yên, Nam Định thực hiện theo mẫu chùa
Dâu Keo (Thuận Thành, Bắc Ninh), nặng 70 tấn, dài 4,6m, rộng 3,6m và chiều cao từ cột nền
tới mái là 3,35m. Các hoa văn, họa tiết trên đầu đao, bệ mái mang đậm phong cách đời Trần.
Toàn bộ xà ngang, xà dọc đều đúc hình đầu rồng. Bốn đầu chùa hình mái vẩy, trông tựa như

đã học, cung cấp thêm kiến thức mới, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước và qua đó cũng rènluyện cho thêm nhiều kỹ năng. Với tầm quan trọng của việc đi thực tế lịch sử như vậy nên tôi hivọng nhà trường và ban lãnh đạo khoa sẽ tổ chức nhiều dịp đi thực tế hơn nữa để cho việc họccủa sinh viên đạt hiệu quả cao.Ngày 09 – 1- 2017 đúng 6 giờ 45 chúng tôi có mặt tại cổng trường Đại học Hồng Đứcđúng 7 giờ chiếc xe bắt đầu xuất phát và địa điểm đầu tiên mà chúng tôi tới đó là Đền Trần. Vàđúng 9 giờ 20 chúng tôi đã có mặt tại điểm đi đầu tiên đó là Đền Trần (Nam Định) khi tới đâychúng tôi được nghe hướng dẫn viên hướng dẫn về lịch sử hình thành, xây dựng của ngôi đềnsau đó chúng tôi được tự do tham quan và chụp ảnh lưu niệm. Sau kề khi nghe và tự tìm hiểu tôiđã biết thêm nhiều thứ như bố cục của ngôi đền, lễ hội…Đền Trần ( Trần Miếu)Là một đền thờ tại đường Trần Thừa, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định (sát quốclộ 10), là nơi thờ các vua nhà Trần cùng các quan lại có công phù tá nhà Trần. Đền Trần đượcxây dựng từ năm 1695, trên nềnThái Miếu cũ của nhà Trần đã bị quân Minh phá hủy vào thế kỷ15.Đền Trần bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là đền Thiên Trường (hay đền Thượng), đền CốTrạch (hay đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Trước khi vào đền, phải qua hệ thống cổng ngũ môn.Trên cổng ghi các chữ Hán Chính nam môn (正正正 – cổng chính phía nam) và Trần Miếu. Quacổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ nước là khu đền Thiền Trường. PhíaTây đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa, phía Đông là đền Cố Trạch.Cả 3 đền đều có kiến trúc chung, và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa tiền đường 5 gian,tòa trung đường 5 gian và tòa chính tẩm 3 gian. Nối tiền đường và trung đường là kinh đàn(thiêu hương) và 2 gian tả hữu.Đền Thiên Trường.Đền Thiên Trường được xây trên nền Thái miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trướcnữa là nhà thờ họ của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các Thái thượng hoàng nhà Trần sốngvà làm việc. Đền Trần hiện nay được dân địa phương xây bằng gỗ từ năm Chính Hòa thứ 15(tức năm 1695). Các năm 1773, 1854, 1895, 1907-1908, đền được mở rộng và xây thêm.Đền Thiên Trường hiện tại gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, thiêu hương, 2 dãy tảhữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Khungđền bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch.Bệ thờ Công đồng Hoàng đế tại Tiền đường.Tiền đường của đền Thiên Trường gồm 5 gian, dài 13 mét. Có 12 cột cái cùng 12 cột quân, tấtcả đều được đặt trên chân tảng bằng đá hình cánh sen có từ thời Trần là chân cột cung TrùngQuang cũ. Tại đây có đặt ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà TrầnSau tiền đường là trung đường là nơi thờ 14 vị hoàng đế nhà Trần. Tuy nhiên, không có tượngthờ mà chỉ có bài vị. Trước cửa trung đường có ba cỗ ngai là nơi thờ bái vọng các vị hoàng đế.Sau trung đường là chính tẩm gồm 3 gian. Đây là nơi thờ 4 vị thủy tổ của họ Trần và các phunhân chính thất ở gian giữa. Các hoàng phi của nhà Trần cũng được đặt bài vị thờ ở 2 gian trái,phải.Tòa thiêu hương (hay kinh đàn) là nơi đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Có banthờ riêng cho các quan văn, và ban thờ riêng cho các quan võ.Đền Cố TrạchĐền Cố Trạch nằm phía Đông của đền Thiên Trường. Nhìn từ sân, là bên phải đền ThiênTrường. Đền Cố Trạch được xây vào năm 1894. Theo bia “Trùng kiến Hưng Đạo thân vương cốtrạch bi kí”, thì lúc tu sửa đền Thiên Trường năm 21 đời Tự Đức (năm 1868), người ta đào thấyở phía Đông đền Thiên Trường một mảnh bia vỡ có ghi chữ Hưng Đạo thân vương cố trạch(nhà cũ của Hưng Đạo thân vương). Do đó khi xây đền này vào năm 1894 khánh thành vào năm1895, đền được đặt tên là Cố Trạch Từ (đền nhà cũ). Đền Hạ là tên thường gọi.Đền Cố Trạch đặt bài vị của Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng. Tiền đường của đền CốTrạch là nơi đặt bài vị của 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo, đó là Phạm Ngộ, Phạm NgũLão và Nguyễn Chế Nghĩa.Thiêu hương (kinh đàn) là nơi đặt long đình trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượngPhật. Bên trái đặt bài vị các quan văn. Bên phải đặt bài vị của các quan võ. Gian tả vu là nơi đặtbài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các bài vị văn thần triều Trần. Gian hữu vu là nơiđặt bài vị võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Tòa trung đường là nơiđặt bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, bài vị của 4 người con trai, của Phạm Ngũ Lão và cáctả hữu tướng quân. Tòa chính tẩm là nơi đặt bài vị của cha và mẹ Trần Hưng Đạo, của TrầnHưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), của 4 người con trai và 4 người con dâu của TrầnHưng Đạo, của con gái và con rể (Phạm Ngũ Lão).Đền Trùng Hoa.Đền Trùng Hoa trong quần thể Đền TrầnĐền Trùng Hoa mới được chính quyền tỉnh Nam Định với sự hỗ trợ về kinh phí của chính phủxây dựng từ năm 2000. Đền được xây trên nền cung Trùng Hoa xưa – nơi các đương kim hoàngđế nhà Trần về tham vấn các vị Thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng bằngđồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương là nơiđặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quanvõ.Lễ hội.Lễ hội đền Trần được tổ chức trong các ngày từ ngày 15 đến ngày 20 tháng tám âm lịch hàngnăm tại phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định nhằm tri ân công của 14 vịvua Trần.[1]Từ năm 2000, Nam Định tổ chức Lễ khai ấn đền Trần vào rạng sáng ngày 15 tháng giêng. Lúcđầu lệ khai ấn chỉ bó hẹp trong không gian làng Tức Mặc, dần trở thành lễ hội lớn. “Trần miếutự điển” là chiếc ấn được dùng để đóng ấn dịp Lễ hội Đền Trần hiện nay. Ấn hình vuông, làmbằng gỗ, được chế tạo vào thời Nguyễn, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Hai mặt Đông-Tây củaviền ấn khắc hình 2 con rồng, mặt Nam của viền ấn khắc chìm 4 chữ “Tích phúc vô cương.””Trần miếu tự điển” mang nội dung điển lệ, tục lệ thờ tự tại miếu nhà Trần, phạm vi, quy mônhỏ hẹp là dòng họ Trần tại làng Tức Mặc.[2]Sau khi nghe thuyết minh song chúng tôi được tự do tìm hiểu và chụp ảnh kĩ niệm. Tiếp theođó đoàn chúng tôi lên xe đi ra Quảng Ninh và chúng tôi dừng lại ăn trưa lúc 11 giờ ở quan cơmBa Cây Đa tại thành phố Thái Bình rồi lên xe tiếp tục cuộc hành trình tới Quảng Ninh, trênchặng đường ra Hạ Long – Quảng Ninh đoàn chúng tôi có ghé qua thăm một chứng tích lịch sửnổi tiếng đã hai lần làm cho quân giặc khiếp sợ đó là bãi cọc Bạch Đằng huyền thoại khi tới đâytôi mới thấy được sự mưu trí của những anh hùng thời xưa và qua đó tôi hiểu thêm được nhiềukiến thức hơn về bãi cọc Bạch Đằng.Di tích bãi cọc Bạch Đằng huyền thoại.Ngày nay du khách vẫn có thể tận mắt thấy dấu tích bãi cọc gắn liền với trận đại thắng trêntrên sông Bạch Đằng (Quảng Ninh), một biểu tượng cho truyền thống người Việt đánh giặcngoại xâm từ phương Bắc.Nằm trên đường trục đường giao thông từ Hà Nội về thành phố Hạ Long, bãi cọc Bạch Đằngở thị xã Quảng Yên thuộc khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng là điểm dừng chân khôngthể bỏ qua. Từ ngã tư thị xã Quảng Yên đi về hướng Phà Rừng khoảng 2 km, rẽ trái khoảng 500m, du khách sẽ đến với bãi cọc Yên Giang, một phần của trận địa cọc Bạch Đằng năm xưa.Di tích bãi cọc Yên Giang nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120 m, chiềurộng khoảng 20 m. Sau lần khai quật đầu tiên vào năm 1958 và nhiều lần sau đó vào các năm1969, 1976, 1984, 1988… cho thấy cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 – 2,8 m, đường kính20 – 30 cm. Phần cọc được đẽo nhọn dài 0,5 – 1m để cắm thẳng xuống sông với khoảng cáchtrung bình 1 m.Tuy ngày nay đa phần các đầu cọc đã bị mục gẫy, du khách vẫn có thể hiểu thêm về lịch sửcủa bãi cọc cũng như nghệ thuật quân sự tài tình của Trần Hưng Đạo qua tấm bia đá dựng ngaygần đó. Trên bia ghi rõ: “Dựa vào địa thế sông Bạch Đằng (thế kỷ thứ XIII), lòng sông có nhiềubãi bồi và dải đá ngầm, Trần Hưng Đạo đã cho đóng những bãi cọc ở vị trí hợp lý tạo thành mộttrận địa cọc chặn đánh đường rút chạy của giặc Nguyên Mông”.Cách bãi cọc Yên Giang vài km là bãi cọc đồng Vạn Muối, nằm ở cửa sông Rút, thuộcphường Nam Hòa được nhân dân Quảng Yên phát hiện trong quá trình canh tác, đào ao. Sau lầnkhảo sát và khai quật năm 2005, cho thấy những cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong khu vựcđồng Vạn Muối thuộc nhiều loại gỗ được sử dụng cả thân và cành. Đường kính mỗi cọc từ 7 10 cm, phần được vạt nhọn chỉ khoảng 25 – 30 cm. Tuy nhiên, mật độ cọc ở đây được cắm rấtdày, phổ biến cách nhau từ 40 – 60 cm, một số cọc chỉ cách nhau từ 10 – 30cm.Theo các nhà nghiên cứu, đây là nửa phía Nam của trận địa cọc Bạch Đằng, còn nửa phía Bắc làbãi cọc Yên Giang. Do giữa hai bãi cọc có một dải cồn đá cao, khi nước triều xuống thuyềnkhông qua được buộc phải đi vào sát bờ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn vị trí cắm cọc ở haibên cồn đá tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông Bạch Đằng để chặnđường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằngnăm 1288.Cũng trong địa phận phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, bãi cọc đồng Má Ngựa đã đượcphát hiện và tiến hành khảo sát, khai quật vào năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba thuộc bãi cọcBạch Đằng nằm ở cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1 km về hướng Nam.Bãi cọc có chiều dài 70 m, rộng 30 m, cắm cọc thuộc nhiều loại gỗ có đường kính từ 6 – 22 cmdày đặc thành dải như một lớp tường thành.Ba bãi bãi cọc Yên Giang, Đồng Vạn Muối và Đồng Má Ngựa đã làm thành những bãi chôngngầm lớn, phức tạp, kín đáo dưới mặt nước khóa chặt đường tháo lui ra biển, giúp tiêu diệt vàbắt sống 600 chiến thuyền với 4 vạn binh tướng quân Nguyên – Mông trong lần thứ ba chúngxâm lược nước ta năm 1288.Để khám phá các giá trị lịch sử, khoa học và quân sự của chiến thắng lịch sử năm 1288, dukhách ngoài tham quan, tìm hiểu bãi cọc Bạch Đằng, có thể ghé thăm các di tích khác như đềnTrần Hưng Đạo, miếu Vua Bà, bến Đò Rừng, đình Yên Giang, đền Trung Cốc, đình Trung Bảnthuộc thị xã Quảng Yên và đình Đền Công – miếu Cu Linh thuộc thành phố Uông Bí, tỉnhQuảng Ninh đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt.Tới 16 giờ 30 phút thì đoàn chúng tôi đã tới Hạ Long với bao nhiêu ấn tượng trong từngngười và đến đúng 17 giờ thì đoàn chúng tôi dừng chân tại một khách sạn và được 2 thầy hướngdẫn căn dặn là tất cả đoàn vào nhận phòng và đi tắm rửa và đúng 19 giờ xuống ăn cơm tối để tốichúng ta tiếp tục cuộc hành trình tìm hiểu Hạ Long. Tới 20 giờ tất cả thành viên trong đoàn đãtập trung xuống xe và chuẩn bị đi thăm Tuần Châu và theo lịch thì chúng tôi được thăm quan,chụp ảnh ở đây 2 giờ nhưng có một sự cố là khi chúng tôi tới nơi thi vào ngày Tuần Châu khôngmở cửa, sau đó các thầy đã cho đoàn đi chơi ở cầu Bãi Cháy tới 21 giờ 30 phút chúng tôi lên xevà về lại nhà nghỉ để nghỉ ngơi lấy lại sức để tiếp tục cuộc hành trình.Động Thiên Cung – Vịnh Hạ Long.Động Thiên Cung nằm ở phía bắc đảo Đầu Gỗ, cách cảng tàu du lịch 4km về phía nam. Làmột trong những hang động đẹp nhất ở Hạ Long. Hang rộng, có nhiều cấp nhiều ngăn với vôvàn nhũ đá, măng đá mang những hình thù kỳ lạ.Hang động này nằm ngay gần hang Đầu Gỗ, cửa hang ở trên độ cao 25m. đây là một hang độngvào loại đẹp nhất ở Hạ Long mà con người biết tới. Hang rộng gần 10.000m2 có cấu trúc rấtphức tạp, gồm nhiều cấp, nhiều ngăn với các trần và bờ vách rất cao, rộng. Đặc biệt trong hang,ở đâu đâu ta cũng thấy vô vàn các khối nhũ, măng đá với các hình dáng kì lạ. Vì vậy người ta đãhình dung ra cả một huyền thoại về cuộc tình và sự chia tay của Rồng bố, Rồng mẹ đã diễn ratrên vách đá hoặc nghĩ rằng đây là hình ảnh của các mê cung của Hoàng đế Ba Tư trong chuyệnNghìn lẻ một đêm.Động Thiên Cung là hang động đẹp nhất Vịnh Hạ Long. Ở ngách phía trong, hang lại thông rangoài bằng một cửa nhỏ, nhìn xuống một vịnh biển nhỏ bị vây kín bởi một vùng cung núi.Trong hang cũng thấy có một dòng chữ trên vách đá và con số 1901. Có lẽ đây là bút tích củanhà thám hiểm đầu tiên đã tìm tới hang này. Bây giờ người ta đã xây hẳn một hệ thống cầuthang, hành lang đẹp và công phu cả ở bên ngoài và bên trong hang với các hệ thống đèn chiếusáng để du khách dễ dàng vào thăm hang. Ngày 1/5/1998, động Thiên Cung chính thức mở cửađón du khách và từ đó đã tạo thành một làn sóng du lịch để về vịnh Hạ Long. Đây là chiếc độngđầu tiên ở Hạ Long đã được con người sủa sang với quy mô lớn. Sắp tới hang này sẽ được sửasang một lần nữa với mục đích cố gắng giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên của nóChiều đúng 14 giờ chúng tôi lên xe chuận bị đi tới một địa danh khác đó chính là Đền CửaÔng và sau 1 giờ 45 phút đoàn chúng tôi đã có mặt tại cổng ngôi đền. Và được sự hưởng dẫncủa hai thầy dẫn đoàn chúng tôi đã biết thêm được rất nhiều thông tin rất bỗ ích để phục vụ choviệc học tập và giảng dạy sau nay của chúng tôi như về lịch sử ngôi đền, lễ hội…:Đền Cửa Ông thuộc địa phận phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.Đền là nơi thờ phụng Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng cùng nhiều nhân vật nổi tiếngthời nhà Trần.Lịch sửSau khi Trần Quốc Tảng mất (năm 1313) nhân dân địa phương truyền lại thấy ông hiểnthánh tại khu Vườn Nhãn (phường Cửa Ông ngày nay) nên đã lập biểu tâu lên vua Trần AnhTông, được chấp thuận và chu cấp tiền bạc để lập miếu tế lễ. Khu vực Cửa Ông (xưa gọi là CửaSuốt) là nơi Trần Quốc Tảng đóng quân đồn trú bảo vệ tuyến biên giới và lãnh hải phía đôngbắc Việt Nam, lập nhiều công trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Nguyên.Trước khi thờ Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông gọi là Miếu Hoàng tiết chế, thờ Hoàng Cần, ngườiđịa phương có nhiều công đánh phá giặc cướp, được các triều vua phong “Khâm sai Đông ĐạoTiết chế”.Vị Trí.Đền Cửa Ông nằm trên một ngọn đồi ở phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh QuảngNinh. Từ thành phố Hạ Long đi theo đường quốc lộ 18 về phía đông bắc khoảng 30 km rẽ phảivào khoảng 125 mét là tới đền Cửa Ông.Kiến TrúcĐền Cửa Ông trước đây được xây dựng thành ba khu, đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, saunày đền Hạ và đền Trung bị bom Mỹ phá hủy. Đền tọa lạc trên một ngọn đồi cao khoảng 100mét nhìn xuống vịnh Bái Tử Long ở phía nam, hai bên có hai ngọn đồi nhỏ hộ vệ, phù hợp vớiquy tắc Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ, sau lưng là dãy núi xanh chạy dài qua Cẩm Phả, MôngDương. Phía trước đền Thượng có một tam quan, bên trái là khu nhà để khách thập phương sắplễ vào đền, bên phải là một ngôi chùa, phía sau là lăng Trần Quốc Tảng. Bên trong đền Thượng,có rất nhiều tượng thờ các nhân vật nối tiếng của triều Trần: tổng cộng có hơn 30 tượng đượcphân bổ làm ba lớp: Tiền đường có Đỗ Khắc Chung, Lê Phụ Trần, Nguyễn Địa Lô; Bái Đườngcó Trần Quốc Tảng, Trần Thì Kiến, Hà Đặc, Phạm Ngộ, Trần Khánh Dư; Hậu Cung có TrầnQuốc Tuấn, Yết Kiêu, Nguyễn Quyên, Nguyễn Tiễn, Huyền Du, Quyên Thánh Công Chúa, ĐỗHành.Lễ Hội.Lễ hội Đền Cửa Ông tổ chức ngày 3 tháng 2 âm lịch. Nhân dân theo truyền thống thường đilễ đền Cửa Ông từ đầu năm mới âm lịch, theo tuyến du lịch lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc – YênTử – Cửa Ông.Tới 16 giờ chúng tôi lại lên xe đi về nhà nghỉ để nghỉ ngơi và ăn tối sau một ngày đi vất vảnhưng cũng rất nhiều kỉ niệm và bên cạnh đó chúng tôi đã tích góp cho mình thêm được nhiềuvốn kiến thức hơn cho mình. 17 giờ 35 xe đưa chúng tôi về tới nhà nghỉ Hồng Hoa và được haithầy căn dặn lên phòng tắm rửa và tới 18 giờ 30 tập trung ở tầng 1 để ăn cơm tối sau đó chúngtôi được tự do tìm hiểu Hạ Long và đêm hôm nay cũng là đêm cuối cùng của cả đoàn ở HạLong nên lớp tôi quyêt định cả lớp sẽ thăm một số nơi ở Hạ Long.Sáng ngày 11 tháng 1 năm 2017 đúng 6 giờ chúng tôi tập chung dưới xe và xuất phát đi YênTử. Tới 8 giờ xe đã tới chân Yên Tử và bắt đầu cuộc hành trình trinh phục đỉnh núi Yên Tử vớibao nhiêu là kỉ niệm, tuy gặp chuyện ngoài sự cố là có 1 bạn đã không lên được tới đỉnh Yên Tửdo sức khỏe nhưng đoàn chúng tôi đã cố lên được tới đỉnh và qua chặng đường đó chúng tôi đãhiểu hơn nhiều về đỉnh núi Yên Tử hay lịch sử về ngôi chùa Đồng.Yên Tử là một địa danh nổi tiếng ở Quảng Ninh, nơi gắn liền với tín ngưỡng Phật Giáo ViệtNam, khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng lên Núi Yên Tử tu hành, lập ra dòng ThiềnTrúc Lâm Yên Tử. Ngày nay nói tới Yên Tử là ta lại nghĩ ngay tới lễ hội Yên Tử diễn ra từ ngày10 tháng Giêng cho tới hết tháng 3 âm lịch. Tuy nhiên Du lịch Yên Tử lại diễn ra quanh năm,việc đi Cáp Treo cũng giúp ngắn khoảng cách và thời gian cho du khách. Điều này giúp bạn cónhiều thời gian để thưởng lãm Phong Cảnh đẹp tuyệt vời của Núi Non mây trời Yên Tử. Đặcbiệt vào những ngày quang mây, từ đỉnh núi bạn có thể nhìn thấy Biển Hạ Long. Một số thôngtin xin chia sẻ với các bạn về Yên Tử, ngoài ra để kết hợp du lịch Yên Tử và Hạ Long, bạn cũngnên đọc qua bài viết về Kinh nghiệm du lịch Hạ Long.Chùa Đồng còn có tên Thiên Trúc tự (chùa Cõi Phật), tọa lạc ở đỉnh cao nhất dãy Yên Tử(1.068m). Chùa Đồng (Yên Tử) đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận là ngôi chùađồng lớn nhất và nằm ở độ cao nhất cả nước. Đây cũng là ngôi chùa được xếp vào hàng độc đáonhất trên thế giới, được ví như một “kỳ quan mới” tại khu danh thắng Yên Tử – hiện đang giữrất nhiều kỷ lục mà không phải ai cũng biết.LỊCH SỬ CHÙA ĐỒNG.Nguyên khởi, chùa Đồng do một bà phi của chúa Trịnh dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ 17). Chùađược đúc bằng đồng, ban đầu chỉ là một cái khám nhỏ, một người chui không lọt.Đến năm Canh Thân 1740, đời vua Lê Cảnh Hưng, bão làm bật mái chùa, sau bị kẻ gian dỡphần còn lại chỉ để lại dấu tích các hố cột chôn trên mỏm đá.Vào mùa Đông 1930, bà Bùi Thị Mỹ từ chùa Long Hoa tái tạo chùa Đồng bằng bê tông cốtđồng trên một hòn đá vuông cao quá đầu người ở vị trí chùa Đồng cũ.Đến năm 1993, ông Nguyễn Sơn Nam, một Việt kiều ở Mỹ, cùng các phật tử ở hải ngoại pháttâm đúc lại chùa mới kiến trúc hình chữ Đinh theo dáng một bông sen nở, ngự trên sập đồngchân quỳ dạ cá trổ hình hoa sen cách điệu, đặt ngay bên cạnh ngôi chùa Đồng bằng bê tông xâydựng đầu thế kỷ XX.Theo tinh thần, hai chùa quy vào một khối, không để Phật tử và nhân dân phải thờ hai chùaĐồng cùng một lúc, thực hiện Quyết định số 3325/QĐ-UB ngày 29/8/2005 của UBND tỉnhQuảng Ninh Phê duyệt dự án đầu tư tôn tạo tại chùa Đồng tại khu di tích Yên Tử, TP Uông Bí.Ngày 03 tháng 6 năm 2006 dưới sự chủ trì của Tiến sĩ Phật học Đại Đức Thích Thanh Quyết(Thượng Tọa Thích Thanh Quyết) và Ban Quản lý Dự án chùa Đồng, bằng công đức thậpphương trong và ngoài nước đã khởi lễ đúc chùa Đồng theo mẫu thiết kế của kiến trúc sư TrầnQuốc Tuấn – Viện Bảo Tồn Di Tích. Chùa được khánh thành vào ngày 30 tháng 01 năm 2007,tọa lạc trên đỉnh non thiêng ở vị trí giữa hai ngôi chùa được xây dựng trước đây.Khi thi công chùa Đồng mới, hai ngôi chùa cũ trên đã được chuyển về bảo quản tại Ban Quảnlý di tích Yên Tử, và sau này được chuyển về Nhà trưng bày.Chùa Đồng mới do các nghệ nhân đúc đồng ở Ý Yên, Nam Định thực hiện theo mẫu chùaDâu Keo (Thuận Thành, Bắc Ninh), nặng 70 tấn, dài 4,6m, rộng 3,6m và chiều cao từ cột nềntới mái là 3,35m. Các hoa văn, họa tiết trên đầu đao, bệ mái mang đậm phong cách đời Trần.Toàn bộ xà ngang, xà dọc đều đúc hình đầu rồng. Bốn đầu chùa hình mái vẩy, trông tựa như