BÀI THU HOẠCH BDTX TIỂU HỌC MODULE 1,2,27 – Tài liệu text
BÀI THU HOẠCH BDTX TIỂU HỌC MODULE 1,2,27
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.57 KB, 14 trang )
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BÀI THU HOẠCH
BDTX NỘI DUNG 3
(Mô đun TH1,2,27)
GIÁO VIÊN: …..
Năm học:
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN HUỆ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THÀNH PHỐ MỸ THO
BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
MODULE 1, 2,27
MODULE TH 27: PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ BẰNG NHẬN XÉT
—————-
Họ và tên :
Lê Quốc Thiện
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị : Trường Tiểu học Nguyễn Huệ
Dạy lớp: Thể dục K2, K4, K5
* Đổi mới công tác đánh giá là một trong những đổi mới cần thiết của Chương trình giáo
dục phổ thông. Đổi mới đánh giá là kết hợp giữa tự đánh giá của học sinh với đánh giá của
giáo viên, kết hợp giữa đánh giá định lượng với đánh giá bằng định tính, kết hợp giữa đánh giá
thường xuyên trong cả quá trình học tập và đánh giá định kỳ: giữa học kỳ, cuối học kỳ và cuối
năm học. Trong đổi mới công tác đánh giá, cần coi trọng vai trò tự đánh giá của học sinh, coi
trọng đánh giá thường xuyên trong suốt quá trình học tập của học sinh, nhằm có được những
thông tin đầy đủ nhất về tinh thần, thái độ học tập, kiến thức, kỹ năng của học sinh so với
Chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình. Thông qua đánh giá bằng nhận xét của giáo viên,
học sinh biết mình đã đạt ở mức độ nào của Chuẩn kiến thức, kỹ năng các môn học. Đánh giá
bằng nhận xét một số môn học đã góp phần tích cực đổi mới phương pháp dạy học, phương
pháp đánh giá kết quả học tập của học sinh ở tiểu học.
* Có hai hình thức đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học
– Đành giá bằng điểm số kết hợp với nhận xét đối với các môn: Toán, Tiếng Việt, Khoa
học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ, Tiếng dân tôc, Tin học.
– Đành giá kết quả học tập bằng nhận xét đối với các môn: Đạo đức, Tự nhiên – xã hội,
Âm nhạc, Mỹ thuật, Thủ công – Kỹ thuật, Thể dục.
1. Mục đích:
– Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học, đổi mới nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục tiểu học và đánh giá đầy đủ, toàn diện kết quả học
tập của học sinh thông qua những nhận xét của giáo viên trong quá trình học tập của học
sinh.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
2
– Khuyến khích học sinh tiểu học học tập chuyên cần; phát huy tính tích cực, năng động,
sáng tạo, khả năng tự học; xây dựng niềm tin, rèn luyện đạo đức, phát triển trì tuệ cho các
em.
– Giúp cho quá trình đánh giá đơn giản và phù hợp với đặc điểm của một số môn học.
2 . Đánh giá bằng nhận xét là:
Sử dụng các nhận xét được rút ra từ quan sát các hành vi hoặc sản phẩm học tập của học
sinh theo những chuẩn (tiêu chí) cho trước mà giáo viên đưa ra những phân tích hay phán
đoán về học lực, hạnh kiểm của các em.
Đánh giá bằng nhận xét là hình thức đánh giá dựa trên nhận xét của giáo viên nói về mức độ
thành công, chất lượng học tập đạt được của học sinh theo các tiêu chí đã được xác định từ
trước.
* Tác dụng của nhận xét đối với học sinh:
Động viên và hướng dẫn học sinh điều chỉnh việc học tập. Cụ thể:
– Phải thực tế; Phải cụ thể; Phải kịp thời và nói thẳng, không úp mở và cho những ý kiến
hay cảm nghỉ riêng thay vì những lời nhận định đầy quyền uy.
– Phải nhạy cảm đối với những quan tâm, mục đích hay cố gắng của học sinh; không nên
cho là học sinh sai hay không tốt mà cần cố gắng nhận biết mục đích mà các em thực hiện.
– Khuyến khích những điều các em làm được với những chứng cứ cụ thể
– Hướng dẫn các em cách thức khắc phục những điều mà các em chưa đạt cũng như cách
thực hiện nhiệm vụ học tập kế tiếp tốt hơn.
3. Để có nhận xét tốt:
– GV cần thường xuyên tham khảo các tiêu chí (chứng cứ) đã được xác lập đối với
trường hợp nội dung quan sát nhỏ hẹp.
– Xây dựng bảng hướng dẫn đánh giá khi mà kết quả của nó sẽ được chính thức sử dụng
để xếp loại học sinh.
– Quan sát và ghi nhận các biểu hiện hành vi của các em theo tiêu chí đã định.
– Thu thập thông tin đầy đủ, phù hợp và tránh định kiến.
– Trước khi đưa ra nhận xét cần xem xét:
+ Chứng cứ thu thập được có thích hợp không ?
+ Chứng cứ thu thập được đã đủ cho nhận xét về học sinh chưa ?
+ Xem xét những yếu tố nào khác ngoài bài kiểm tra hay thực hành có thể ảnh hưởng
đến kết quả thực hiện của học sinh không?
+ Viết nhận xét nào đó cần phải nêu rõ ràng những lí do của nhận xét ấy.
Tiêu chí là những diễn đạt bằng lời về một tiêu chuẩn nào đó thể hiện kết quả học tập của
học sinh. Chúng được sử dụng làm cơ sở so sánh để đánh giá những thông tin đã thu được.
Với các môn đánh giá bằng nhận xét ở tiểu học, các tiêu chí chính là hệ thống các “nhận xét”
và các “chứng cứ” của từng môn học được in chi tiết trong “Sổ theo dõi kết quả kiểm tra,
đánh giá học sinh”.
+ Quan niệm về hình thức đánh giá: đánh giá kết quả học tập các môn Đạo đức, Tự
nhiên – xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thủ công, Thể dục cần quan niệm như sau: Đánh giá là
sự khơi dậy tiềm năng của học sinh chứ không phải là sự so sánh giữa các cá nhân học sinh
với nhau; Cần đánh giá nhẹ nhàng không tạo áp lực cho học sinh để tránh tình trạng học sinh
tự ti mặc cảm, mất hứng thú trong quá trình học tập; Đánh giá chú trọng đến đánh giá cả quá
trình và hướng tới từng cá nhân. Theo quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập của học sinh
bằng hình thức nhận xét đối với các môn Đạo đức, Tự nhiên – xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật,
,
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
3
Thủ công, Thể dục ở lớp 1, 2, 3 là phù hợp. Tuy nhiên, cần phải có những cải tiến để việc
triển khai đánh giá bằng nhận xét không phức tạp và khó thực hiện như hiện nay và đảm bảo
đánh giá một cách khách quan, chính xác kết quả học tập của học sinh.
+ Xếp loại học lực môn học kết hợp với nhận xét cụ thể: với quan niệm trên, đánh giá là
sự khơi dậy tiềm năng học tập của học sinh chứ không phải là sự so sánh giữa các cá nhân
học sinh với nhau nên việc xếp loại học lực những môn học đánh giá bằng nhận xét chỉ để 2
mức độ: Loại Hoàn thành (A) và Loại Chưa hoàn thành (B). Những học sinh đạt 100% số
nhận xét trong từng học kỳ hay cả năm học và có biểu hiện rõ về năng lực học tập môn học,
được GV ghi nhận là (A+) để nhà trường có kế hoạch bồi dưỡng.
+ Ngoài ra, khi đánh giá kết quả học tập môn học của học sinh vào cuối học kì hay cuối
năm, bên cạnh xếp loại học sinh đạt được (hoàn thành hay chưa hoàn thành), giáo viên dựa
vào các ghi nhận cụ thể có được trong năm, khái quát những hành vi mà học sinh thường
làm thành những nhận định tổng quát về phẩm chất và năng lực của học sinh.
* Kết luận
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình thu thập, phân tích và xử lí các
thông tin về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh theo mục tiêu môn học (hoặc hoạt động)
nhằm đề xuất các giải pháp để thực hiện mục tiêu của môn học (hoặc hoạt động) đó.
Đánh giá bằng nhận xét là hình thức đánh giá dựa trên nhận xét của giáo viên nói về mức
độ thành công, chất lượng học tập đạt được của học sinh theo các tiêu chí đã được xác định
từ trước.
Tiêu chí là những diễn đạt bằng lời về một tiêu chuẩn nào đó thể hiện kết quả học tập của
học sinh. Chúng được sử dụng làm cơ sở so sánh để đánh giá những thông tin đã thu được.
Với các môn đánh giá bằng nhận xét ở tiểu học, các tiêu chí chính là hệ thống các “nhận xét”
và các “chứng cứ” của từng môn học được in chi tiết trong “Sổ theo dõi kết quả kiểm tra,
đánh giá học sinh”.
Xu hướng mới trong đánh giá kết quả học tập trên thế giới:
– Từ giữa thập niên 80, trên thế giới đã bùng nổ một cuộc cách mạng thực sự về kiểm tra,
đánh giá với những thay đổi căn bản cả về triết lí, quan điểm, phương pháp và các hoạt động
cụ thể.
– Theo xu hướng này, có thể khẳng định về mặt lí luận đánh giá bằng nhận xét có rất
nhiều ưu điểm, phù hợp xu hướng phát triển của đánh giá hiện nay, đó là đánh giá để phục
vụ việc học tập của học sinh, có nghĩa là không chỉ đánh giá kết quả cuối mà còn quan tâm
đánh giá quá trình học tập của học sinh để lập kế hoạch cho các bước học tập tiếp theo của
học sinh một cách phù hợp và hiệu quả.
Một số nguyên tắc cần đảm bảo trong đánh giá kết quả học tập:
– Nguyên tắc khách quan.
– Nguyên tắc công bằng.
– Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện.
– Nguyên tắc đảm bảo tính công khai.
– Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục.
– Nguyên tắc đảm bảo tính phát triển.
Một số văn bản có liên quan đến vấn đề đánh giá kết quả học tập:
– Chương trình giáo dục phổ thông: theo chương trình tiểu học (Ban hành kèm theo quyết
định số 43/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 9 tháng 11 năm 2001), việc đánh giá kết quả học tập
của học sinh được quy định như sau: 1/Đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét của giáo
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
4
viên đối với các môn học Tiếng Việt, Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lí; 2/Đánh giá chỉ bằng
nhận xét của giáo viên đối với các môn học và các hoạt động giáo dục khác.
– Sổ theo dõi kết quả kiểm tra, đánh giá học sinh: để ghi lại kết quả đánh giá trong suốt
năm học, Bộ Giao1 dục và Đào tạo đã ban hành. Trong đó :
+ Đối với mỗi môn đánh giá bằng nhận xét, ở các lớp 1 và 2, học sinh được đánh giá
bằng 8 nhận xét cho mỗi lớp, còn ở lớp 3 có 10 nhận xét.
+ Nội dung, sự sắp xếp các nhận xét được xây dựng dựa trên nội dung và cách sắp xếp
các chủ đề theo từng lớp của những môn học đánh giá bằng nhận xét.
+ Ở tất cả các lớp tiểu học, với tất cả môn học, mỗi nhận xét đều có 3 – 4 chứng cứ.
Các chứng cứ được xây dựng căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học.
Cách xếp loại học lực môn học theo học kì và cả năm như sau :
Lớp 1, 2
Xếp loại học lực
Học kì I
Học kì II (cả năm)
+
Hoàn thành tốt (A )
4 nhận xét
8 nhận xét
Lớp
Hoàn thành (A)
2-3 nhận xét
4-7 nhận xét
3, 4, 5 Chưa hoàn thành (B)
0-1 nhận xét
0-3 nhận xét
Xếp loại học lực
Học kì I
Học kì II (cả năm)
Hoàn thành tốt (A+)
5 nhận xét
10 nhận xét
Hoàn thành (A)
3- 4 nhận xét
5- 9 nhận xét
Chưa hoàn thành (B)
0-2 nhận xét
0- 4 nhận xét
MODULE TH 2: ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA HỌC SINH DÂN TỘC ÍT NGƯỜI,
HỌC SINH CÓ NHU CẦU ĐẶC BIỆT, HỌC SINH CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN
—————-
A. Mở đầu:
Giáo dục ngôn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạy
học tiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn là
nhiệm vụ hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy học
tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tại
dải đất này, các dân tộc như Jarai, Bahnar…
– Trong tâm lí học lứa tuổi, học sinh lứa tuổi thiếu niên luôn ngự trị quy luật về
tính mất cân đối tạm thời, tính mâu thuẫn và quy luật về tính không đồng đều của sự
phát triển thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của nhân cách và thể chất. Nhưng thực tế làm
công tác giáo dục tại các xã vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là con em đồng bào dân
tộc thiểu thì mỗi người cán bộ GV phải biết những “tâm lí riêng” mà không sách vỡ lí
thuyết nào có thể nhắc tới. Hằng ngày, ngoài việc soạn bài lên lớp là việc vận động
duy trì số lượng, tìm các biện pháp nâng cao chất lượng, người GV còn phải là “Vừa
là thầy giáo, vừa là bạn bè”. Với kinh nghiệm thực tiễn sau đây sẽ giúp những GV
mới chập chững vào nghề đến nhận công tác ở miền núi có những biện pháp giáo dục
hợp lí, đặc biệt là GV chủ nhiệm lớp.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
5
B. Nội dung:
1. Học sinh Tiểu học người dân tộc trước khi đến trường:
– Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân tộc
thiểu số chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sự
chăm sóc của vườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu
hội thoại đơn giản mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường
Mầm Non đã trang bị cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn
theo các em bước vào lớp1. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây,
cũng như các em chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi
trường giáo dục phổ thông, tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em.
Việc giao tiếp thông thường với thầy cô giáo đã khó khăn, và cũng có khi là không
thể, việc nghe giảng những kiến thức về các môn học khác nhau bằng tiếng Việt lại
càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến lớp là các em bước đến một môi
trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường trực trong các em,
làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường.
2. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai:
– Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các
em, trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ
hoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử
dụng ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ
mẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp,
người địa phương chỉ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì
vốn kiến thức về tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ
thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc
họp nào đó ở làng, bản, họ phát biểu bằng tiếng Việt rất khó khăn. Thói quen này
trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời sống gia đình của mỗi cá nhân,
học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp. Dần dà các em không thể sử
dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp, từ đó, đã
khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượt
khỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.
3. Mặc cảm của học sinh dân tộc thiểu số khi đến trường học tiếng Việt:
– Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên, tôi nhận
thấy rằng, các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèo
luôn nhắc nhở con người sống trong cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc,
về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân. Nghèo đã giúp con người ta vươn lên
nhưng nghèo cũng làm cho con người luôn mặc cảm, tự ti, bằng lòng với cuộc sống
hiện tại. Mặc cảm số phận đã khiến con người không thể thoát khỏi những thiếu thốn
vật chất, không thể vươn xa hơn không gian sống hiện tại. Những học sinh tiểu học
người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên không có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, không chỉ
có “ngày hai buổi đến trường”, các em còn phải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa,
trồng ngô,…lo cho cuộc sống vật chất của gia đình đang chật vật, thiếu thốn. Chúng
tôi thật thương tâm khi nghe nhưng đồng nghiệp đang giảng dạy ở những vùng miền
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
6
núi Tây Nguyên tâm sự, rằng “chúng em phải vào tận làng lùng sục các em, đưa các
em đến trường.”; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, “Em phải dùng tiền lương của mình
để mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các em trở lại trường. Nhưng
có lúc cũng không thành công!”,… Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề là ở chỗ, cái nghèo
truyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn từng bữa còn
chưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của các em là
vậy! Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi cuộc sống nghèo
khó hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng,
số lượng học sinh trên lớp học rất ít. Cũng có những hôm thầy giáo cắp cặp tới lớp,
rồi quay về, tìm cách xuống bản, tới từng gia đình học sinh, giảng giải cho các em,
thuyết phục gia đình các em rằng, cần phải dành thời gian cho các em học tập, bởi các
em còn trong độ tuổi đến trường. Thế nhưng, hiệu quả của công việc “tuyên truyền”
này không phải lúc nào cũng như ý, lắm lúc, giáo viên còn phải nhận những câu trả
lời cay nghiệt của phụ huynh khiến cho họ có những giây phút nản lòng.
Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng xin phép giáo viên chủ
nhiệm, nhà trường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên trở lại trường khi
mùa gặt kết thúc. Giáo viên lại phải nhọc công tìm đến tận bản, vận động các em đến
trường.
– Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh là
sự sống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, về
điều kiện sống, hoàn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểu
học dân tộc thiểu số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cản
ngăn cách hoạt động sống của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các em
khó tiếp xúc, hòa nhập cộng đồng.
– Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ở
một mức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mối
quan hệ trong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hoàn
cảnh thực tại nhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, số
phận, làm thui chột hao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộc
thiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên đến trường trong tâm thế “hèn mọn” đó. Các em
cũng đã biết nhìn ngắm những trang phục của các bạn học sinh người Kinh, nhìn lại
trang phục của mình. Ỏ những trường Nội trú, tình trạng trên ít xảy ra, nhưng đối với
các trường có cả hai đối tượng học sinh, người Kinh và người dân tộc thiểu số, tình
trạng trên luôn ngầm diễn ra trong các em. Nếu số lượng học sinh thiểu số nhiều hơn
học sinh Kinh thì tình trạng trên ít xảy ra, còn nếu số lượng học sinh thiểu số ít hơn số
lượng học sinh người Kinh thì tình trạng trên càng diễn ra nặng nề. Trong lớp chắc
chắn sẽ có sự phân biệt, kỳ thị ở hai đối tượng học sinh trên. Một bộ quần áo, một đôi
dép hay những phụ kiện đơn giản khác của các bạn khi đến trường cũng làm cho các
em băn khoăn, suy nghĩ về nhau, so sánh lẫn nhau. Nhiều em học sinh người dân tộc
thiểu số chân đất đến trường, hoặc trong trang phục cũ kỹ, hay với những đồng phục
bắt buộc nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng với những
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
7
cuốn tập bị bỏ quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thần
học tiếng Việt của các em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm.
Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em một
môi trường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong các
em ý thức học tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là
điều hiển nhiên. Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ
phải phát biểu xây dựng bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài
giờ học, đặc biệt là các em rất khó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồng
nghĩa với việc kiềm hãm sự phát triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trường
giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo lắng cho mỗi giờ đến lớp, “sợ” phải đến
trường. Học tập lúc này là công việc quá khó khăn đối với các em.
– Đối với người dân tộc Tây Nguyên, không gian sống của họ rất đặc trưng, không
có ranh giới giữa không gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ không gian sống cá
nhân. Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Nguyên. Không gian
sống đặc thù này của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống văn
hóa, về cội nguồn. Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ở
của họ, một không gian chung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy,
việc tạo một không gian học tập cho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống này
đã không tạo điều kiện học tập cho các em, mà còn làm cho chất lượng học tập của
các em ngày càng giảm sút.
– Đối với các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong gia
đình hoặc không có khả năng hướng dẫn, hoặc không có ý thức trách nhiệm đôn đốc
nhắc nhở quản lý, hay do hoàn cảnh sống khó khăn mà gia đình đã không chú trọng
tới việc học của con, em mình. Điều này cho thấy đa số các em không được nằm trên
một cái nền học vấn nhất định nào đó của gia đình. Việc học tập của các em phải nhờ
đến sự tận tâm của giáo viên, nhờ vào kế hoạch giáo dục của nhà trường. Cho nên ý
thức học tập là đặc tính rất cần được chúng ta xây dựng cho các em.
4. Chế độ xã hội:
– Hiện nay, xã hội vẫn chưa có sự quan tâm sâu sát đến điều kiện học tập của học
sinh dân tộc thiểu số. Nhà nước ta chỉ chú ý đến cơ sở vật chất của Trường học, chứ
chưa chú trọng đến đời sống của học sinh một cách đúng mức. Kinh phí hỗ trợ học
sinh nghèo vẫn chưa đến kịp thời, chẳng hạn như, kinh phí hỗ trợ học sinh nghèo ở
tỉnh Gia Lai năm học 2008 – 2009 đến nay (15/ 07/ 2010) vẫn tắc nghẽn, “chưa về
được”. Sự thiếu quan tâm này của các cấp chính quyền địa phương đã gieo trong các
em tâm lý chán nản, gây trong phụ huynh tâm lý nghi ngờ. Việc nhiều cán bộ xã đã ăn
bớt tiền hỗ trợ dân nghèo ăn tết hằng năm đã bị dư luận xã hội lên án. Hiện tượng
tham ô trên xảy ra ở khắp các xã vùng khó trên cả nước đã chứng minh rằng, Nhà
nước ta nghĩ, lo cho dân chỉ được một bước, nên đời sống của những người dân ở
những vùng khó khăn vẫn chưa thể an toàn được, vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở các
tỉnh miền núi vẫn chưa thực hiện. Những tồn tại trên đã gây mất niềm tin trong lòng
dân đối với các cấp chính quyền, ở trẻ đối với trường, lớp. Cái đói, kiếp nghèo và cả
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
8
bọn “địa chủ” thời nay luôn rình rập, đeo bám họ thì làm sao tất cả họ đều có suy nghĩ
là cần cho con đến trường.
5 Về phía giáo viên:
– Đa số giáo viên người Kinh ở nơi khác đến giảng dạy ở các tỉnh Tây Nguyên đều
không biết ngôn ngữ Dân tộc, nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ không
thể so sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những tình huống cần thiết trong dạy học tiếng
Việt cho đối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về phong tục tập quán, họ lại càng
không có điều kiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đình
các em, khó có thể tiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới không cần
thiết giữa thầy và trò, để dạy tiếng Việt hiệu quả.
Dạy học cho người dân tộc thiểu số phải do chính giáo viên người địa phương đảm
nhiệm mới mang lại hiệu quả cao được. Nhưng ngặt nỗi, trình độ chuyên môn của
giáo viên địa phương chưa được chuẩn, đa số giáo viên địa phương ở đây chỉ trải qua
những lớp đào tạo ngắn hạn, rồi bù vào đó là tấm bằng Đại học Từ Xa, hoặc nhà
trường Sư phạm phải tạo điều kiện ra trường cho họ để đáp ứng nhu cầu về giáo viên
của địa phương ở những năm trước đây. Tồn tại ở những trường Tiểu học trên địa bàn
Tây Nguyên là một số giáo viên trình độ sơ cấp (họ chỉ mới học hết lớp 5, rồi chính
quyền địa phương cho đi học 3 tháng nghiệp vụ, rồi họ lên bục giảng làm thầy), nên
công việc giảng dạy của họ khó mang lại được hiệu quả mong muốn. Bản thân họ
cũng chưa nắm vững những kiến thức về tiếng Việt nên họ truyền tải những kiến thức
này đến cho học sinh rất khó khăn. Như vậy, hiệu quả dạy học của giáo viên người
dân tộc là khó có thể!
– Quan tâm đến việc học tập của học sinh, đặc biệt lại là học sinh Tiểu học dân tộc
thiểu số cũng không có được mấy người trong số tất cả những người đang trên bục
giảng ở vùng khó khăn. Và trước tâm thế đến trường của học sinh như vậy, thiết nghĩ,
giảng dạy cho học sinh ở những vùng khó, chúng ta cần hiểu được những vấn đề về
tâm lý của học sinh, về điều kiện, hoàn cảnh sống của gia đình các em để tìm ra
những biện pháp giáo dục, dạy học các em hiệu quả hơn, đưa các em đến với ánh sáng
của tri thức. Giáo viên cũng cần tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, học ngôn ngữ
địa phương, thâm nhập đời sống văn hóa cộng đồng, đặc biệt là hằng năm, các sở
Giáo dục – Đào tạo, phòng Giáo dục cần có chương trình, kế hoạch bồi dưỡng giáo
viên người dân tộc dài ngày và thường xuyên hơn để việc dạy học tiếng Việt cho học
sinh dân tộc thiểu số hiệu quả. Một điều cuối cùng là, giáo viên cần giúp cho học sinh
dân tộc thiểu số hiểu tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chung cho các dân tộc.
C. Kết luận:
Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào GV và thực tiễn. Các em thường dễ dàng
nghe theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là GV. Khi các em đã tin GV, các em
thường quyết tâm thực hiện cho được những công việc GV giao, nhiều khi các em còn
bắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ,.. của GV. Vì vậy, GV phải luôn gần gũi, đi
sâu, đi sát giúp đỡ các em, cố gắng cảm hóa các em bằng sự tận tình chăm sóc của
mình; đồng thời cũng cố gắng gương mẫu về mọi mặt để dành cho được sự tin yêu
của các em, từ đó phát huy tác dụng giáo dục của mình.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
9
Nắm vững những đặc điểm tâm lí của học sinh gái. Trong học sinh miền núi, học
sinh gái thường ít nói, e dè và dễ xấu hổ, những em gái lớn trong một lớp thường
thiếu những hoài bão ước mơ cần thiết; cho nên những tác động ngoại cảnh dễ làm
cho các em này bỏ học. Khi một em có ý định bỏ học thường rủ thêm một số em khác
bỏ theo. Từ những đặc điểm trên, trong khi giao tiếp, gặp gỡ riêng với các em học
sinh gái, GV phải thường nói chuyện tâm tình với các em về các vấn đề như vai trò
của người phụ nữ trong xã hội ta hiện nay, những công việc mà người phụ nữ miền
núi phải có trách nhiệm vươn lên để gánh vác, sự cần thiết phải có trình độ văn hóa tối
thiểu trong thời đại ngày nay, đồng thời phân tích cho các em những hạn chế của
người con gái vùng cao nếu đi lấy chồng sớm,…
Học sinh con em đồng bào các dân tộc miền núi đến trường với lòng ham học hỏi,
niềm tin sâu sắc về tương lai phía trước. Đa số các em đều là con em các gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, điều kiện kinh tế vô vùng thiếu thốn. Ngoài việc học, các em còn
phải đi rừng, đi rẫy để phụ giúp việc với gia đình. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng giáo dục và việc duy trì số lượng học sinh trên lớp. Tuy nhiên, mỗi
người GV nếu nắm vững một số đặc điểm tâm lí của học sinh miền núi, con em đồng
bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa thì việc giáo dục sẽ phát huy hiệu quả cao hơn.
D. Kết quả đánh giá:
Kết quả đánh giá
Tự đánh gái
Đánh giá Tổ
Đánh giá của BTC
Phần tiếp thu Phần vận dụng
Tổng điểm
Xếp loại
MODULE TH 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC
– Có rất nhiều nghiên cứu đã chứng mình rằng trẻ dưới 10 tuổi cần hoạt động nhiều
trong ngày để giữ tim mạch luôn khỏe mạnh. Những trẻ hoạt động dưới 1 tiếng mỗi
ngày có thể dễ mắc các bệnh tim mạch và có xu hướng tăng cân trong tương lai.
A. Tại sao trẻ cần vận động mỗi ngày?
– Đối với người lớn, thể dục thể thao có lẽ là một vấn đề khá nghiêm túc vì cần có
nơi chốn, giờ giấc rõ ràng, nhưng với, thể dục đơn giản là vui chơi và vận động. Các
trò chơi như đuổi bắt, trốn tìm, rồng rắn lên mây…chính là những hoạt động thể dục
yêu thích của trẻ, thế nên, dù bận bịu thế nào, bạn hãy động viên và sắp xếp để cùng
trẻ tham gia các hoạt động ngoài trời. Còn gì hạnh phúc bằng cả gia đình vui chơi
cùng nhau, vừa tạo điều kiện tốt cho trẻ vận động cải thiện sức khỏe, vừa gắn kết tình
cảm gia đình.
– Bạn chắc hẳn đã quan sát thấy gương mặt tươi tắn, nụ cười rạng rỡ của trẻ khi
được thỏa sức vận động cùng bạn bè, gia đình. Vì khi được tập thể dục, trẻ sẽ được
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
10
giải phóng năng lượng trong cơ thể, sản sinh cảm giác sảng khoái, thoải mái và hăng
say.
– Thêm vào đó, khi trẻ vận động thường xuyên sẽ khiến cho mạch máu lưu thông
tốt, tăng cường chuyển hóa và tạo thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan trong cơ
thể.
Tham gia các hoạt động thể thao từ bé, trẻ sẽ giảm được nguy cơ nứt gãy xương khi
lớn lên do thể dục thể thao giúp làm tăng mật độ xương tối đa.
– Các nhà khoa học Thụy Điển đã tiến hành nghiên cứu việc phát triển xương của
các trẻ mỗi ngày đều dành 40 phút tập thể thao so với một nhóm các trẻ khác chỉ dành
60 phút tập trong 1 tuần. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ trọng xương cột sống của
các bé tập thể thao 40 phút mỗi ngày cao hơn các bé có thời gian tập ngắn. Điều đó
cho thấy sự vận động của trẻ thúc đẩy quá trình trao đổi chất, đặc biệt là lượng canxi
khiến cho hệ cơ xương vững chắc hơn, phát triển tốt hơn. Tập thể dục còn giúp cho
trẻ phát triển chiều cao tối ưu và giữ được dáng vóc đẹp, giảm thiểu nguy cơ bị béo
phì. #3: Con k
– Chỉ cần để ý một chút, bạn sẽ phát hiện ra tập thể dục giúp trẻ ngủ sâu và ngủ
ngon hơn. Bên cạnh đó, vận động thể dục còn tăng cường khả năng miễn dịch cho trẻ.
Những căn bệnh thường hay xảy ra vào thời điểm giao mùa như cúm, sởi, phát ban…
sẽ khó có thể xâm nhập vào cơ thể trẻ hay tập thể dục.
B. Trẻ vào lớp một:
– Hiểu, nắm vững được những nét đặc trưng về tâm lý của trẻ em lứa tuổi học sinh
tiểu học; biết rõ được đặc điểm của hoạt động học cũa học sinh và hoạt động dạy của
giáo viên. Đồng thời biết rõ được mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động dạy, hoạt
động học và sự phát triển tâm lý của học sinh.
– Hình thành kỹ năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu, kỹ năng tìm hiểu (nghiên
cứu) về học sinh, kỹ năng chuẩn bị và thực hiện hoạt động dạy học theo phương pháp
sư phạm phù hợp với đối tượng học sinh.
– Nâng cao trách nhiệm, có đạo đức nghề nghiệp, yêu quý, tôn trong trẻ em. (“Yêu
nghề mến trẻ”).
– Lớp một được xem là bước ngoặt trong cuộc đời của trẻ. Nếu như ở mẫu giáo,
hoạt động chủ đạo là vui chơi, thì khi lên tiểu học, việc học là hoạt động chủ yếu.
– Quá trình chuyển đổi hoạt động chủ đạo sẽ gây cho trẻ rất nhiều khó khăn, nhất là
về mặt tâm lý. Nếu như việc học tập diễn ra tốt đẹp thì kéo theo sự phát triển tâm lý
của trẻ cũng đúng hướng, thuận lợi và ngược lại. Vì vậy, hiểu được sự chuyển biến
tâm lý của trẻ ở giai đoạn này là rất quan trọng, sẽ giúp trẻ dễ thích nghi với môi
trường mới, tiếp thu sự giáo dục dễ dàng.
C. Những rào cản tâm lý với trẻ:
– Khi vào lớp 1, các em sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện nội quy học tập, khả
năng điều khiển tâm lý của bản thân còn kém. Các em chưa ý thức được rõ giới hạn
giữa chơi và học nên gặp nhiều khó khăn trong khi chuyển trạng thái từ hoạt động
chơi sang học, trẻ chưa biết phân bố thời gian giữa các môn sao cho phù hợp.
– Đặc biệt, trẻ ở lứa tuổi này phải làm quen với phương pháp học tập mới, học nhiều
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
11
môn khác nhau, kể cả những môn các em không thích. Thậm chí, nếu người lớn
không có sự định hướng kịp thời, sẽ có nhiều em căng thẳng trước khối lượng lớn
kiến thức vừa mới, vừa trừu tượng. Khả năng phân tán chú ý ở trẻ còn cao, trong khi
đó việc học lại đòi hỏi các em phải làm những công việc khéo léo và tập trung.
– Các em cũng khó thiết lập mối quan hệ với thầy cô, bạn bè. Mặt khác, khi đi học
lớp 1, trẻ tự nhận thấy mình đã lớn, phải có vai trò và trách nhiệm mới đối với gia
đình. Đây là những rào cản lớn với trẻ.
– Phụ huynh quan tâm đến con sẽ nhận thấy những biểu hiện nổi bật ở các em như:
không thích đi học hay đi học muộn (kể cả bố mẹ chở đến trường, các em cũng cố nấn
ná thêm ở bên ngoài, chưa thích vào lớp); nói chuyên riêng khi cô đang giảng bài; học
không đồng đều các môn, thường thì các em thích môn nào thì học tốt môn đó; quên
không làm bài tập cô giáo yêu cầu, không tự giác học (chỉ học khi nào người lớn nhắc
nhở); có khá nhiều trường hợp các em không dám nói với bố mẹ về điểm kém và việc
phạm khuyết điểm của mình ở trường.
– Trẻ gặp khó khăn tâm lý phần nhiều do gia đình thờ ơ, không quan tâm hoặc quá
quan tâm đến trẻ, làm cho các em bối rối khi bước vào và làm quen với môi trường
học mới.
– Từ mẫu giáo lên lớp 1 là một bước ngoặt trong cuộc đời của trẻ. Nếu ở mẫu giáo,
hoạt động chủ đạo là vui chơi, thì lứa tuổi học sinh tiểu học là hoạt động học tập. Quá
trình chuyển đổi hoạt động chủ đạo sẽ gây cho trẻ rất nhiều khó khăn, nhất là tâm lý.
Họat động về mặt chủ đạo sẽ quyết định những nét tâm lý đặc trưng nhất của lứa tuổi
học sinh tiểu học.
– Hoạt động học tập diễn ra tốt đẹp sẽ kéo theo sự phát triển tâm lý của trẻ đúng
hướng, thuận lợi và ngược lại. Vì vậy, nếu các bậc phụ huynh cũng như những nhà
giáo dục nắm được những khó khăn tâm lý của trẻ và có biện pháp giúp trẻ khắc phục,
trẻ sẽ thích ứng với họat động học tập tốt hơn, tiếp thu sự giáo dục được dễ dàng hơn.
Từ đó giúp trẻ đạt kết quả cao trong học tập và phát triển tốt tâm lý cũng như nhân
cách của trẻ.
– Trong quá trình học, các em đã gặp những khó khăn trong việc thực hiện nội quy
học tập, khả năng điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân còn kém. Các em
chưa ý thức được rõ giới hạn giữa chơi và việc học nên gặp nhiều khó khăn trong khi
chuyển trạng thái từ hoạt động chơi sang học, trẻ chưa biết phân bố thời gian học tập
giữa các môn sao cho phù hợp. Các em cũng khó thiết lập mối quan hệ với thầy cô,
bạn bè.
– Đặc biệt, trẻ ở lứa tuổi này phải làm quen với phương pháp học tập mới, phải học
nhiều môn khác nhau, kể cả những môn các em không thích học. Thậm chí, nếu người
lớn không có sự định hướng kịp thời, sẽ có nhiều em căng thẳng trước khối lượng lớn
kiến thức vừa mới, vừa trừu tượng. Khả năng phân tán chú ý ở trẻ còn cao, trong khi
đó hoạt động học tập lại đòi hỏi các em phải làm những công việc khéo léo và đòi hỏi
sự tập trung. Mặt khác, khi đi học lớp 1, trẻ tự nhận thấy mình đã lớn, phải có vai trò
và trách nhiệm mới đối với gia đình. Đó là những yếu tố tâm lý cản trở họat động học
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
12
tập, làm cho học sinh lớp 1 khó thích ứng, kết quả học tập đạt được không như mong
muốn.
Nếu phụ huynh có thời gian quan tâm đến con của mình sẽ nhận thấy những biểu hiện
nổi bật ở các em như không thích đi học hay đi học muộn ( kể cả bố mẹ chở đến
trường, các em cũng cố nấn ná thêm ở bên ngoài, chưa thích vào lớp), nói chuyên
riêng khi cô đang giảng bài; học không đồng đều các môn, thường thì các em thích
môn nào thì học tốt môn đó; quên không làm bài tập cô giáo yêu cầu, không tự giác
học (chỉ học khi nào người lớn nhắc nhở); có khá nhiều trường hợp các em không
dám nói với bố mẹ về điểm kém và vi phạm khuyết điểm của mình ở trường.
Cha mẹ cần tìm cách khắc phục dần dần nếu trẻ đạt kết quả không tốt ở năm đầu bậc
tiểu học.
– Không ít phụ huynh khó hình dung được rằng bước sang một môi trường học tập
mới, trẻ hoàn toàn lạ lẫm, các em chưa được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học, chưa
tìm thấy hứng thú trong học tập, những điều mới lạ trong những bài học còn trừu
tượng chưa kích thích được tính tự giác, tích cực của trẻ. Vì thế, trẻ chưa hình thành
được cách thức học tập khoa học và hiệu quả.
– Có những bậc phụ huynh cứ nghĩ rằng cho con ăn uống, may sắm áo quần và
sách vở là đủ. Trong khi đó, điều trẻ cần là cha mẹ chỉ dẫn các em hiểu rõ nội quy học
tập cần phải làm gì? Làm như thế nào? Làm để được cái gì?
– Ở thời điểm này, điểm số còn quá chung chung đối với trẻ. Tuy nhiên, nhiều gia
đình lại yêu cầu trẻ hàng tuần, hàng tháng phải có một số điểm 10 nhất định, làm cho
trẻ chỉ biết “chạy” theo điểm, để được cha mẹ khen thưởng.
– Một nguyên nhân khác là cách dạy của giáo viên chưa phù hợp, khiến các em
ngỡ ngàng, khó làm quen trước việc dạy của giáo viên mới (không giống như ở mẫu
giáo). Giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá mọi công việc của trẻ, nhưng chưa
động viên, khuyến khích kịp thời, làm cho mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh
luôn có khoảng cách, các em khó gần gũi với giáo viên.
D. Cách giúp trẻ vượt qua bước ngoặt lớp một:
– Chia sẻ cùng trẻ. Trong thời điểm này, các bậc phụ huynh nên chuẩn bị những
điều kiện tốt nhất cho trẻ, ngoài quần áo, đồ dùng học tập… thì việc tạo cho trẻ một
tâm lý sẵn sàng là rất quan trọng.
– Hãy nói với trẻ biết trước về môi trường mới, thầy cô mới, nội dung học tập mới,
những khó khăn cũng như thuận lợi nhất định để trẻ tập làm quen ngay ở nhà. Đồng
thời nếu có điều kiện cha mẹ cũng nên cho trẻ làm quen với môi trường học tập mới
trong dịp hè, như cho trẻ đến trường để thăm quan, làm quen với anh chị lớn tuổi hơn,
tập thói quen chấp hành nội quy…
– Cha mẹ tạo điều kiện thuận lợi cho con học tập, xây dựng bầu không khí gia đình
luôn vui vẻ, ấm cúng, đừng đặt quá nhiều kỳ vọng vào con cái, tạo cho trẻ tâm lý
thoải mái trong khi học tập.
– Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường, tôn trọng nhân cách trẻ,
động viên các em trong suốt quá trình học tập… là con đường ngắn nhất để cùng trẻ
khắc phục những khó khăn tâm lý ở những ngày đầu khi bước vào lớp 1.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
13
– Theo các chuyên gia tâm lý, học sinh lớp 1 khi tiến hành hoạt động học tập luôn
gặp phải những khó khăn tâm lý nhất định, diễn ra trên nhiều mặt: hiểu biết, thái độ
và thói quen hành vi đạo đức. Rào cản tâm lý trong hoạt động học tập của các em do
nhiều nguyên nhân khác nhau.
– Trong nhà trường, cần nâng cao hơn nữa quan hệ giao lưu giữa giáo viên và học
sinh, khắc phục cản trở trong quan hệ thầy trò.
– Trong gia đình cần có sự quan tâm đúng mức, cha mẹ tạo điều kiện thuận lợi cho
con học tập, xây dựng bầu không khí gia đình luôn vui vẻ, ấm cúng, đừng đặt quá
nhiều kỳ vọng vào con cái, tạo cho trẻ tâm lý thoải mái trong khi học tập. Tăng cường
sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường, tôn trọng nhân cách trẻ, động viên các em
trong suốt quá trình học tập… là con đường ngắn nhất để cùng trẻ khắc phục những
khó khăn tâm lý trong học tập ở năm đầu bậc tiểu học.
Người làm thu hoạch
Lê Quốc Thiện
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang
14
* Đổi mới công tác đánh giá là một trong những đổi mới cần thiết của Chương trình giáodục phổ thông. Đổi mới đánh giá là kết hợp giữa tự đánh giá của học sinh với đánh giá củagiáo viên, kết hợp giữa đánh giá định lượng với đánh giá bằng định tính, kết hợp giữa đánh giáthường xuyên trong cả quá trình học tập và đánh giá định kỳ: giữa học kỳ, cuối học kỳ và cuốinăm học. Trong đổi mới công tác đánh giá, cần coi trọng vai trò tự đánh giá của học sinh, coitrọng đánh giá thường xuyên trong suốt quá trình học tập của học sinh, nhằm có được nhữngthông tin đầy đủ nhất về tinh thần, thái độ học tập, kiến thức, kỹ năng của học sinh so vớiChuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình. Thông qua đánh giá bằng nhận xét của giáo viên,học sinh biết mình đã đạt ở mức độ nào của Chuẩn kiến thức, kỹ năng các môn học. Đánh giábằng nhận xét một số môn học đã góp phần tích cực đổi mới phương pháp dạy học, phươngpháp đánh giá kết quả học tập của học sinh ở tiểu học.* Có hai hình thức đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học- Đành giá bằng điểm số kết hợp với nhận xét đối với các môn: Toán, Tiếng Việt, Khoahọc, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ, Tiếng dân tôc, Tin học.- Đành giá kết quả học tập bằng nhận xét đối với các môn: Đạo đức, Tự nhiên – xã hội,Âm nhạc, Mỹ thuật, Thủ công – Kỹ thuật, Thể dục.1. Mục đích:- Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học, đổi mới nội dung, phương pháp,hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục tiểu học và đánh giá đầy đủ, toàn diện kết quả họctập của học sinh thông qua những nhận xét của giáo viên trong quá trình học tập của họcsinh.Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang- Khuyến khích học sinh tiểu học học tập chuyên cần; phát huy tính tích cực, năng động,sáng tạo, khả năng tự học; xây dựng niềm tin, rèn luyện đạo đức, phát triển trì tuệ cho cácem.- Giúp cho quá trình đánh giá đơn giản và phù hợp với đặc điểm của một số môn học.2 . Đánh giá bằng nhận xét là:Sử dụng các nhận xét được rút ra từ quan sát các hành vi hoặc sản phẩm học tập của họcsinh theo những chuẩn (tiêu chí) cho trước mà giáo viên đưa ra những phân tích hay phánđoán về học lực, hạnh kiểm của các em.Đánh giá bằng nhận xét là hình thức đánh giá dựa trên nhận xét của giáo viên nói về mức độthành công, chất lượng học tập đạt được của học sinh theo các tiêu chí đã được xác định từtrước.* Tác dụng của nhận xét đối với học sinh:Động viên và hướng dẫn học sinh điều chỉnh việc học tập. Cụ thể:- Phải thực tế; Phải cụ thể; Phải kịp thời và nói thẳng, không úp mở và cho những ý kiếnhay cảm nghỉ riêng thay vì những lời nhận định đầy quyền uy.- Phải nhạy cảm đối với những quan tâm, mục đích hay cố gắng của học sinh; không nêncho là học sinh sai hay không tốt mà cần cố gắng nhận biết mục đích mà các em thực hiện.- Khuyến khích những điều các em làm được với những chứng cứ cụ thể- Hướng dẫn các em cách thức khắc phục những điều mà các em chưa đạt cũng như cáchthực hiện nhiệm vụ học tập kế tiếp tốt hơn.3. Để có nhận xét tốt:- GV cần thường xuyên tham khảo các tiêu chí (chứng cứ) đã được xác lập đối vớitrường hợp nội dung quan sát nhỏ hẹp.- Xây dựng bảng hướng dẫn đánh giá khi mà kết quả của nó sẽ được chính thức sử dụngđể xếp loại học sinh.- Quan sát và ghi nhận các biểu hiện hành vi của các em theo tiêu chí đã định.- Thu thập thông tin đầy đủ, phù hợp và tránh định kiến.- Trước khi đưa ra nhận xét cần xem xét:+ Chứng cứ thu thập được có thích hợp không ?+ Chứng cứ thu thập được đã đủ cho nhận xét về học sinh chưa ?+ Xem xét những yếu tố nào khác ngoài bài kiểm tra hay thực hành có thể ảnh hưởngđến kết quả thực hiện của học sinh không?+ Viết nhận xét nào đó cần phải nêu rõ ràng những lí do của nhận xét ấy.Tiêu chí là những diễn đạt bằng lời về một tiêu chuẩn nào đó thể hiện kết quả học tập củahọc sinh. Chúng được sử dụng làm cơ sở so sánh để đánh giá những thông tin đã thu được.Với các môn đánh giá bằng nhận xét ở tiểu học, các tiêu chí chính là hệ thống các “nhận xét”và các “chứng cứ” của từng môn học được in chi tiết trong “Sổ theo dõi kết quả kiểm tra,đánh giá học sinh”.+ Quan niệm về hình thức đánh giá: đánh giá kết quả học tập các môn Đạo đức, Tựnhiên – xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thủ công, Thể dục cần quan niệm như sau: Đánh giá làsự khơi dậy tiềm năng của học sinh chứ không phải là sự so sánh giữa các cá nhân học sinhvới nhau; Cần đánh giá nhẹ nhàng không tạo áp lực cho học sinh để tránh tình trạng học sinhtự ti mặc cảm, mất hứng thú trong quá trình học tập; Đánh giá chú trọng đến đánh giá cả quátrình và hướng tới từng cá nhân. Theo quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập của học sinhbằng hình thức nhận xét đối với các môn Đạo đức, Tự nhiên – xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật,Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền GiangThủ công, Thể dục ở lớp 1, 2, 3 là phù hợp. Tuy nhiên, cần phải có những cải tiến để việctriển khai đánh giá bằng nhận xét không phức tạp và khó thực hiện như hiện nay và đảm bảođánh giá một cách khách quan, chính xác kết quả học tập của học sinh.+ Xếp loại học lực môn học kết hợp với nhận xét cụ thể: với quan niệm trên, đánh giá làsự khơi dậy tiềm năng học tập của học sinh chứ không phải là sự so sánh giữa các cá nhânhọc sinh với nhau nên việc xếp loại học lực những môn học đánh giá bằng nhận xét chỉ để 2mức độ: Loại Hoàn thành (A) và Loại Chưa hoàn thành (B). Những học sinh đạt 100% sốnhận xét trong từng học kỳ hay cả năm học và có biểu hiện rõ về năng lực học tập môn học,được GV ghi nhận là (A+) để nhà trường có kế hoạch bồi dưỡng.+ Ngoài ra, khi đánh giá kết quả học tập môn học của học sinh vào cuối học kì hay cuốinăm, bên cạnh xếp loại học sinh đạt được (hoàn thành hay chưa hoàn thành), giáo viên dựavào các ghi nhận cụ thể có được trong năm, khái quát những hành vi mà học sinh thườnglàm thành những nhận định tổng quát về phẩm chất và năng lực của học sinh.* Kết luậnĐánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình thu thập, phân tích và xử lí cácthông tin về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh theo mục tiêu môn học (hoặc hoạt động)nhằm đề xuất các giải pháp để thực hiện mục tiêu của môn học (hoặc hoạt động) đó.Đánh giá bằng nhận xét là hình thức đánh giá dựa trên nhận xét của giáo viên nói về mứcđộ thành công, chất lượng học tập đạt được của học sinh theo các tiêu chí đã được xác địnhtừ trước.Tiêu chí là những diễn đạt bằng lời về một tiêu chuẩn nào đó thể hiện kết quả học tập củahọc sinh. Chúng được sử dụng làm cơ sở so sánh để đánh giá những thông tin đã thu được.Với các môn đánh giá bằng nhận xét ở tiểu học, các tiêu chí chính là hệ thống các “nhận xét”và các “chứng cứ” của từng môn học được in chi tiết trong “Sổ theo dõi kết quả kiểm tra,đánh giá học sinh”.Xu hướng mới trong đánh giá kết quả học tập trên thế giới:- Từ giữa thập niên 80, trên thế giới đã bùng nổ một cuộc cách mạng thực sự về kiểm tra,đánh giá với những thay đổi căn bản cả về triết lí, quan điểm, phương pháp và các hoạt độngcụ thể.- Theo xu hướng này, có thể khẳng định về mặt lí luận đánh giá bằng nhận xét có rấtnhiều ưu điểm, phù hợp xu hướng phát triển của đánh giá hiện nay, đó là đánh giá để phụcvụ việc học tập của học sinh, có nghĩa là không chỉ đánh giá kết quả cuối mà còn quan tâmđánh giá quá trình học tập của học sinh để lập kế hoạch cho các bước học tập tiếp theo củahọc sinh một cách phù hợp và hiệu quả.Một số nguyên tắc cần đảm bảo trong đánh giá kết quả học tập:- Nguyên tắc khách quan.- Nguyên tắc công bằng.- Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện.- Nguyên tắc đảm bảo tính công khai.- Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục.- Nguyên tắc đảm bảo tính phát triển.Một số văn bản có liên quan đến vấn đề đánh giá kết quả học tập:- Chương trình giáo dục phổ thông: theo chương trình tiểu học (Ban hành kèm theo quyếtđịnh số 43/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 9 tháng 11 năm 2001), việc đánh giá kết quả học tậpcủa học sinh được quy định như sau: 1/Đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét của giáoLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giangviên đối với các môn học Tiếng Việt, Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lí; 2/Đánh giá chỉ bằngnhận xét của giáo viên đối với các môn học và các hoạt động giáo dục khác.- Sổ theo dõi kết quả kiểm tra, đánh giá học sinh: để ghi lại kết quả đánh giá trong suốtnăm học, Bộ Giao1 dục và Đào tạo đã ban hành. Trong đó :+ Đối với mỗi môn đánh giá bằng nhận xét, ở các lớp 1 và 2, học sinh được đánh giábằng 8 nhận xét cho mỗi lớp, còn ở lớp 3 có 10 nhận xét.+ Nội dung, sự sắp xếp các nhận xét được xây dựng dựa trên nội dung và cách sắp xếpcác chủ đề theo từng lớp của những môn học đánh giá bằng nhận xét.+ Ở tất cả các lớp tiểu học, với tất cả môn học, mỗi nhận xét đều có 3 – 4 chứng cứ.Các chứng cứ được xây dựng căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học.Cách xếp loại học lực môn học theo học kì và cả năm như sau :Lớp 1, 2Xếp loại học lựcHọc kì IHọc kì II (cả năm)Hoàn thành tốt (A )4 nhận xét8 nhận xétLớpHoàn thành (A)2-3 nhận xét4-7 nhận xét3, 4, 5 Chưa hoàn thành (B)0-1 nhận xét0-3 nhận xétXếp loại học lựcHọc kì IHọc kì II (cả năm)Hoàn thành tốt (A+)5 nhận xét10 nhận xétHoàn thành (A)3- 4 nhận xét5- 9 nhận xétChưa hoàn thành (B)0-2 nhận xét0- 4 nhận xétMODULE TH 2: ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA HỌC SINH DÂN TỘC ÍT NGƯỜI,HỌC SINH CÓ NHU CẦU ĐẶC BIỆT, HỌC SINH CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN—————-A. Mở đầu:Giáo dục ngôn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạyhọc tiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn lànhiệm vụ hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy họctiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tạidải đất này, các dân tộc như Jarai, Bahnar…- Trong tâm lí học lứa tuổi, học sinh lứa tuổi thiếu niên luôn ngự trị quy luật vềtính mất cân đối tạm thời, tính mâu thuẫn và quy luật về tính không đồng đều của sựphát triển thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của nhân cách và thể chất. Nhưng thực tế làmcông tác giáo dục tại các xã vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là con em đồng bào dântộc thiểu thì mỗi người cán bộ GV phải biết những “tâm lí riêng” mà không sách vỡ líthuyết nào có thể nhắc tới. Hằng ngày, ngoài việc soạn bài lên lớp là việc vận độngduy trì số lượng, tìm các biện pháp nâng cao chất lượng, người GV còn phải là “Vừalà thầy giáo, vừa là bạn bè”. Với kinh nghiệm thực tiễn sau đây sẽ giúp những GVmới chập chững vào nghề đến nhận công tác ở miền núi có những biện pháp giáo dụchợp lí, đặc biệt là GV chủ nhiệm lớp.Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền GiangB. Nội dung:1. Học sinh Tiểu học người dân tộc trước khi đến trường:- Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân tộcthiểu số chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sựchăm sóc của vườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫuhội thoại đơn giản mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trườngMầm Non đã trang bị cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còntheo các em bước vào lớp1. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây,cũng như các em chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môitrường giáo dục phổ thông, tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em.Việc giao tiếp thông thường với thầy cô giáo đã khó khăn, và cũng có khi là khôngthể, việc nghe giảng những kiến thức về các môn học khác nhau bằng tiếng Việt lạicàng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến lớp là các em bước đến một môitrường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường trực trong các em,làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường.2. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai:- Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với cácem, trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữhoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sửdụng ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữmẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp,người địa phương chỉ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vìvốn kiến thức về tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻthường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộchọp nào đó ở làng, bản, họ phát biểu bằng tiếng Việt rất khó khăn. Thói quen nàytrong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời sống gia đình của mỗi cá nhân,học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp. Dần dà các em không thể sửdụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp, từ đó, đãkhiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượtkhỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.3. Mặc cảm của học sinh dân tộc thiểu số khi đến trường học tiếng Việt:- Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên, tôi nhậnthấy rằng, các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèoluôn nhắc nhở con người sống trong cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc,về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân. Nghèo đã giúp con người ta vươn lênnhưng nghèo cũng làm cho con người luôn mặc cảm, tự ti, bằng lòng với cuộc sốnghiện tại. Mặc cảm số phận đã khiến con người không thể thoát khỏi những thiếu thốnvật chất, không thể vươn xa hơn không gian sống hiện tại. Những học sinh tiểu họcngười dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên không có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, không chỉcó “ngày hai buổi đến trường”, các em còn phải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa,trồng ngô,…lo cho cuộc sống vật chất của gia đình đang chật vật, thiếu thốn. Chúngtôi thật thương tâm khi nghe nhưng đồng nghiệp đang giảng dạy ở những vùng miềnLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giangnúi Tây Nguyên tâm sự, rằng “chúng em phải vào tận làng lùng sục các em, đưa cácem đến trường.”; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, “Em phải dùng tiền lương của mìnhđể mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các em trở lại trường. Nhưngcó lúc cũng không thành công!”,… Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề là ở chỗ, cái nghèotruyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn từng bữa cònchưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của các em làvậy! Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi cuộc sống nghèokhó hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng,số lượng học sinh trên lớp học rất ít. Cũng có những hôm thầy giáo cắp cặp tới lớp,rồi quay về, tìm cách xuống bản, tới từng gia đình học sinh, giảng giải cho các em,thuyết phục gia đình các em rằng, cần phải dành thời gian cho các em học tập, bởi cácem còn trong độ tuổi đến trường. Thế nhưng, hiệu quả của công việc “tuyên truyền”này không phải lúc nào cũng như ý, lắm lúc, giáo viên còn phải nhận những câu trảlời cay nghiệt của phụ huynh khiến cho họ có những giây phút nản lòng.Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng xin phép giáo viên chủnhiệm, nhà trường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên trở lại trường khimùa gặt kết thúc. Giáo viên lại phải nhọc công tìm đến tận bản, vận động các em đếntrường.- Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh làsự sống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, vềđiều kiện sống, hoàn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểuhọc dân tộc thiểu số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cảnngăn cách hoạt động sống của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các emkhó tiếp xúc, hòa nhập cộng đồng.- Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ởmột mức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mốiquan hệ trong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hoàncảnh thực tại nhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, sốphận, làm thui chột hao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộcthiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên đến trường trong tâm thế “hèn mọn” đó. Các emcũng đã biết nhìn ngắm những trang phục của các bạn học sinh người Kinh, nhìn lạitrang phục của mình. Ỏ những trường Nội trú, tình trạng trên ít xảy ra, nhưng đối vớicác trường có cả hai đối tượng học sinh, người Kinh và người dân tộc thiểu số, tìnhtrạng trên luôn ngầm diễn ra trong các em. Nếu số lượng học sinh thiểu số nhiều hơnhọc sinh Kinh thì tình trạng trên ít xảy ra, còn nếu số lượng học sinh thiểu số ít hơn sốlượng học sinh người Kinh thì tình trạng trên càng diễn ra nặng nề. Trong lớp chắcchắn sẽ có sự phân biệt, kỳ thị ở hai đối tượng học sinh trên. Một bộ quần áo, một đôidép hay những phụ kiện đơn giản khác của các bạn khi đến trường cũng làm cho cácem băn khoăn, suy nghĩ về nhau, so sánh lẫn nhau. Nhiều em học sinh người dân tộcthiểu số chân đất đến trường, hoặc trong trang phục cũ kỹ, hay với những đồng phụcbắt buộc nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng với nhữngLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giangcuốn tập bị bỏ quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thầnhọc tiếng Việt của các em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm.Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em mộtmôi trường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong cácem ý thức học tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi làđiều hiển nhiên. Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợphải phát biểu xây dựng bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoàigiờ học, đặc biệt là các em rất khó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồngnghĩa với việc kiềm hãm sự phát triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trườnggiáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo lắng cho mỗi giờ đến lớp, “sợ” phải đếntrường. Học tập lúc này là công việc quá khó khăn đối với các em.- Đối với người dân tộc Tây Nguyên, không gian sống của họ rất đặc trưng, khôngcó ranh giới giữa không gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ không gian sống cánhân. Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Nguyên. Không giansống đặc thù này của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống vănhóa, về cội nguồn. Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ởcủa họ, một không gian chung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy,việc tạo một không gian học tập cho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống nàyđã không tạo điều kiện học tập cho các em, mà còn làm cho chất lượng học tập củacác em ngày càng giảm sút.- Đối với các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong giađình hoặc không có khả năng hướng dẫn, hoặc không có ý thức trách nhiệm đôn đốcnhắc nhở quản lý, hay do hoàn cảnh sống khó khăn mà gia đình đã không chú trọngtới việc học của con, em mình. Điều này cho thấy đa số các em không được nằm trênmột cái nền học vấn nhất định nào đó của gia đình. Việc học tập của các em phải nhờđến sự tận tâm của giáo viên, nhờ vào kế hoạch giáo dục của nhà trường. Cho nên ýthức học tập là đặc tính rất cần được chúng ta xây dựng cho các em.4. Chế độ xã hội:- Hiện nay, xã hội vẫn chưa có sự quan tâm sâu sát đến điều kiện học tập của họcsinh dân tộc thiểu số. Nhà nước ta chỉ chú ý đến cơ sở vật chất của Trường học, chứchưa chú trọng đến đời sống của học sinh một cách đúng mức. Kinh phí hỗ trợ họcsinh nghèo vẫn chưa đến kịp thời, chẳng hạn như, kinh phí hỗ trợ học sinh nghèo ởtỉnh Gia Lai năm học 2008 – 2009 đến nay (15/ 07/ 2010) vẫn tắc nghẽn, “chưa vềđược”. Sự thiếu quan tâm này của các cấp chính quyền địa phương đã gieo trong cácem tâm lý chán nản, gây trong phụ huynh tâm lý nghi ngờ. Việc nhiều cán bộ xã đã ănbớt tiền hỗ trợ dân nghèo ăn tết hằng năm đã bị dư luận xã hội lên án. Hiện tượngtham ô trên xảy ra ở khắp các xã vùng khó trên cả nước đã chứng minh rằng, Nhànước ta nghĩ, lo cho dân chỉ được một bước, nên đời sống của những người dân ởnhững vùng khó khăn vẫn chưa thể an toàn được, vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở cáctỉnh miền núi vẫn chưa thực hiện. Những tồn tại trên đã gây mất niềm tin trong lòngdân đối với các cấp chính quyền, ở trẻ đối với trường, lớp. Cái đói, kiếp nghèo và cảLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giangbọn “địa chủ” thời nay luôn rình rập, đeo bám họ thì làm sao tất cả họ đều có suy nghĩlà cần cho con đến trường.5 Về phía giáo viên:- Đa số giáo viên người Kinh ở nơi khác đến giảng dạy ở các tỉnh Tây Nguyên đềukhông biết ngôn ngữ Dân tộc, nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ khôngthể so sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những tình huống cần thiết trong dạy học tiếngViệt cho đối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về phong tục tập quán, họ lại càngkhông có điều kiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đìnhcác em, khó có thể tiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới không cầnthiết giữa thầy và trò, để dạy tiếng Việt hiệu quả.Dạy học cho người dân tộc thiểu số phải do chính giáo viên người địa phương đảmnhiệm mới mang lại hiệu quả cao được. Nhưng ngặt nỗi, trình độ chuyên môn củagiáo viên địa phương chưa được chuẩn, đa số giáo viên địa phương ở đây chỉ trải quanhững lớp đào tạo ngắn hạn, rồi bù vào đó là tấm bằng Đại học Từ Xa, hoặc nhàtrường Sư phạm phải tạo điều kiện ra trường cho họ để đáp ứng nhu cầu về giáo viêncủa địa phương ở những năm trước đây. Tồn tại ở những trường Tiểu học trên địa bànTây Nguyên là một số giáo viên trình độ sơ cấp (họ chỉ mới học hết lớp 5, rồi chínhquyền địa phương cho đi học 3 tháng nghiệp vụ, rồi họ lên bục giảng làm thầy), nêncông việc giảng dạy của họ khó mang lại được hiệu quả mong muốn. Bản thân họcũng chưa nắm vững những kiến thức về tiếng Việt nên họ truyền tải những kiến thứcnày đến cho học sinh rất khó khăn. Như vậy, hiệu quả dạy học của giáo viên ngườidân tộc là khó có thể!- Quan tâm đến việc học tập của học sinh, đặc biệt lại là học sinh Tiểu học dân tộcthiểu số cũng không có được mấy người trong số tất cả những người đang trên bụcgiảng ở vùng khó khăn. Và trước tâm thế đến trường của học sinh như vậy, thiết nghĩ,giảng dạy cho học sinh ở những vùng khó, chúng ta cần hiểu được những vấn đề vềtâm lý của học sinh, về điều kiện, hoàn cảnh sống của gia đình các em để tìm ranhững biện pháp giáo dục, dạy học các em hiệu quả hơn, đưa các em đến với ánh sángcủa tri thức. Giáo viên cũng cần tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, học ngôn ngữđịa phương, thâm nhập đời sống văn hóa cộng đồng, đặc biệt là hằng năm, các sởGiáo dục – Đào tạo, phòng Giáo dục cần có chương trình, kế hoạch bồi dưỡng giáoviên người dân tộc dài ngày và thường xuyên hơn để việc dạy học tiếng Việt cho họcsinh dân tộc thiểu số hiệu quả. Một điều cuối cùng là, giáo viên cần giúp cho học sinhdân tộc thiểu số hiểu tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chung cho các dân tộc.C. Kết luận:Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào GV và thực tiễn. Các em thường dễ dàngnghe theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là GV. Khi các em đã tin GV, các emthường quyết tâm thực hiện cho được những công việc GV giao, nhiều khi các em cònbắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ,.. của GV. Vì vậy, GV phải luôn gần gũi, đisâu, đi sát giúp đỡ các em, cố gắng cảm hóa các em bằng sự tận tình chăm sóc củamình; đồng thời cũng cố gắng gương mẫu về mọi mặt để dành cho được sự tin yêucủa các em, từ đó phát huy tác dụng giáo dục của mình.Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền GiangNắm vững những đặc điểm tâm lí của học sinh gái. Trong học sinh miền núi, họcsinh gái thường ít nói, e dè và dễ xấu hổ, những em gái lớn trong một lớp thườngthiếu những hoài bão ước mơ cần thiết; cho nên những tác động ngoại cảnh dễ làmcho các em này bỏ học. Khi một em có ý định bỏ học thường rủ thêm một số em khácbỏ theo. Từ những đặc điểm trên, trong khi giao tiếp, gặp gỡ riêng với các em họcsinh gái, GV phải thường nói chuyện tâm tình với các em về các vấn đề như vai tròcủa người phụ nữ trong xã hội ta hiện nay, những công việc mà người phụ nữ miềnnúi phải có trách nhiệm vươn lên để gánh vác, sự cần thiết phải có trình độ văn hóa tốithiểu trong thời đại ngày nay, đồng thời phân tích cho các em những hạn chế củangười con gái vùng cao nếu đi lấy chồng sớm,…Học sinh con em đồng bào các dân tộc miền núi đến trường với lòng ham học hỏi,niềm tin sâu sắc về tương lai phía trước. Đa số các em đều là con em các gia đình cóhoàn cảnh khó khăn, điều kiện kinh tế vô vùng thiếu thốn. Ngoài việc học, các em cònphải đi rừng, đi rẫy để phụ giúp việc với gia đình. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏđến chất lượng giáo dục và việc duy trì số lượng học sinh trên lớp. Tuy nhiên, mỗingười GV nếu nắm vững một số đặc điểm tâm lí của học sinh miền núi, con em đồngbào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa thì việc giáo dục sẽ phát huy hiệu quả cao hơn.D. Kết quả đánh giá:Kết quả đánh giáTự đánh gáiĐánh giá TổĐánh giá của BTCPhần tiếp thu Phần vận dụngTổng điểmXếp loạiMODULE TH 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC- Có rất nhiều nghiên cứu đã chứng mình rằng trẻ dưới 10 tuổi cần hoạt động nhiềutrong ngày để giữ tim mạch luôn khỏe mạnh. Những trẻ hoạt động dưới 1 tiếng mỗingày có thể dễ mắc các bệnh tim mạch và có xu hướng tăng cân trong tương lai.A. Tại sao trẻ cần vận động mỗi ngày?- Đối với người lớn, thể dục thể thao có lẽ là một vấn đề khá nghiêm túc vì cần cónơi chốn, giờ giấc rõ ràng, nhưng với, thể dục đơn giản là vui chơi và vận động. Cáctrò chơi như đuổi bắt, trốn tìm, rồng rắn lên mây…chính là những hoạt động thể dụcyêu thích của trẻ, thế nên, dù bận bịu thế nào, bạn hãy động viên và sắp xếp để cùngtrẻ tham gia các hoạt động ngoài trời. Còn gì hạnh phúc bằng cả gia đình vui chơicùng nhau, vừa tạo điều kiện tốt cho trẻ vận động cải thiện sức khỏe, vừa gắn kết tìnhcảm gia đình.- Bạn chắc hẳn đã quan sát thấy gương mặt tươi tắn, nụ cười rạng rỡ của trẻ khiđược thỏa sức vận động cùng bạn bè, gia đình. Vì khi được tập thể dục, trẻ sẽ đượcLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang10giải phóng năng lượng trong cơ thể, sản sinh cảm giác sảng khoái, thoải mái và hăngsay.- Thêm vào đó, khi trẻ vận động thường xuyên sẽ khiến cho mạch máu lưu thôngtốt, tăng cường chuyển hóa và tạo thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan trong cơthể.Tham gia các hoạt động thể thao từ bé, trẻ sẽ giảm được nguy cơ nứt gãy xương khilớn lên do thể dục thể thao giúp làm tăng mật độ xương tối đa.- Các nhà khoa học Thụy Điển đã tiến hành nghiên cứu việc phát triển xương củacác trẻ mỗi ngày đều dành 40 phút tập thể thao so với một nhóm các trẻ khác chỉ dành60 phút tập trong 1 tuần. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ trọng xương cột sống củacác bé tập thể thao 40 phút mỗi ngày cao hơn các bé có thời gian tập ngắn. Điều đócho thấy sự vận động của trẻ thúc đẩy quá trình trao đổi chất, đặc biệt là lượng canxikhiến cho hệ cơ xương vững chắc hơn, phát triển tốt hơn. Tập thể dục còn giúp chotrẻ phát triển chiều cao tối ưu và giữ được dáng vóc đẹp, giảm thiểu nguy cơ bị béophì. #3: Con k- Chỉ cần để ý một chút, bạn sẽ phát hiện ra tập thể dục giúp trẻ ngủ sâu và ngủngon hơn. Bên cạnh đó, vận động thể dục còn tăng cường khả năng miễn dịch cho trẻ.Những căn bệnh thường hay xảy ra vào thời điểm giao mùa như cúm, sởi, phát ban…sẽ khó có thể xâm nhập vào cơ thể trẻ hay tập thể dục.B. Trẻ vào lớp một:- Hiểu, nắm vững được những nét đặc trưng về tâm lý của trẻ em lứa tuổi học sinhtiểu học; biết rõ được đặc điểm của hoạt động học cũa học sinh và hoạt động dạy củagiáo viên. Đồng thời biết rõ được mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động dạy, hoạtđộng học và sự phát triển tâm lý của học sinh.- Hình thành kỹ năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu, kỹ năng tìm hiểu (nghiêncứu) về học sinh, kỹ năng chuẩn bị và thực hiện hoạt động dạy học theo phương phápsư phạm phù hợp với đối tượng học sinh.- Nâng cao trách nhiệm, có đạo đức nghề nghiệp, yêu quý, tôn trong trẻ em. (“Yêunghề mến trẻ”).- Lớp một được xem là bước ngoặt trong cuộc đời của trẻ. Nếu như ở mẫu giáo,hoạt động chủ đạo là vui chơi, thì khi lên tiểu học, việc học là hoạt động chủ yếu.- Quá trình chuyển đổi hoạt động chủ đạo sẽ gây cho trẻ rất nhiều khó khăn, nhất làvề mặt tâm lý. Nếu như việc học tập diễn ra tốt đẹp thì kéo theo sự phát triển tâm lýcủa trẻ cũng đúng hướng, thuận lợi và ngược lại. Vì vậy, hiểu được sự chuyển biếntâm lý của trẻ ở giai đoạn này là rất quan trọng, sẽ giúp trẻ dễ thích nghi với môitrường mới, tiếp thu sự giáo dục dễ dàng.C. Những rào cản tâm lý với trẻ:- Khi vào lớp 1, các em sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện nội quy học tập, khảnăng điều khiển tâm lý của bản thân còn kém. Các em chưa ý thức được rõ giới hạngiữa chơi và học nên gặp nhiều khó khăn trong khi chuyển trạng thái từ hoạt độngchơi sang học, trẻ chưa biết phân bố thời gian giữa các môn sao cho phù hợp.- Đặc biệt, trẻ ở lứa tuổi này phải làm quen với phương pháp học tập mới, học nhiềuLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang11môn khác nhau, kể cả những môn các em không thích. Thậm chí, nếu người lớnkhông có sự định hướng kịp thời, sẽ có nhiều em căng thẳng trước khối lượng lớnkiến thức vừa mới, vừa trừu tượng. Khả năng phân tán chú ý ở trẻ còn cao, trong khiđó việc học lại đòi hỏi các em phải làm những công việc khéo léo và tập trung.- Các em cũng khó thiết lập mối quan hệ với thầy cô, bạn bè. Mặt khác, khi đi họclớp 1, trẻ tự nhận thấy mình đã lớn, phải có vai trò và trách nhiệm mới đối với giađình. Đây là những rào cản lớn với trẻ.- Phụ huynh quan tâm đến con sẽ nhận thấy những biểu hiện nổi bật ở các em như:không thích đi học hay đi học muộn (kể cả bố mẹ chở đến trường, các em cũng cố nấnná thêm ở bên ngoài, chưa thích vào lớp); nói chuyên riêng khi cô đang giảng bài; họckhông đồng đều các môn, thường thì các em thích môn nào thì học tốt môn đó; quênkhông làm bài tập cô giáo yêu cầu, không tự giác học (chỉ học khi nào người lớn nhắcnhở); có khá nhiều trường hợp các em không dám nói với bố mẹ về điểm kém và việcphạm khuyết điểm của mình ở trường.- Trẻ gặp khó khăn tâm lý phần nhiều do gia đình thờ ơ, không quan tâm hoặc quáquan tâm đến trẻ, làm cho các em bối rối khi bước vào và làm quen với môi trườnghọc mới.- Từ mẫu giáo lên lớp 1 là một bước ngoặt trong cuộc đời của trẻ. Nếu ở mẫu giáo,hoạt động chủ đạo là vui chơi, thì lứa tuổi học sinh tiểu học là hoạt động học tập. Quátrình chuyển đổi hoạt động chủ đạo sẽ gây cho trẻ rất nhiều khó khăn, nhất là tâm lý.Họat động về mặt chủ đạo sẽ quyết định những nét tâm lý đặc trưng nhất của lứa tuổihọc sinh tiểu học.- Hoạt động học tập diễn ra tốt đẹp sẽ kéo theo sự phát triển tâm lý của trẻ đúnghướng, thuận lợi và ngược lại. Vì vậy, nếu các bậc phụ huynh cũng như những nhàgiáo dục nắm được những khó khăn tâm lý của trẻ và có biện pháp giúp trẻ khắc phục,trẻ sẽ thích ứng với họat động học tập tốt hơn, tiếp thu sự giáo dục được dễ dàng hơn.Từ đó giúp trẻ đạt kết quả cao trong học tập và phát triển tốt tâm lý cũng như nhâncách của trẻ.- Trong quá trình học, các em đã gặp những khó khăn trong việc thực hiện nội quyhọc tập, khả năng điều khiển các hoạt động tâm lý của bản thân còn kém. Các emchưa ý thức được rõ giới hạn giữa chơi và việc học nên gặp nhiều khó khăn trong khichuyển trạng thái từ hoạt động chơi sang học, trẻ chưa biết phân bố thời gian học tậpgiữa các môn sao cho phù hợp. Các em cũng khó thiết lập mối quan hệ với thầy cô,bạn bè.- Đặc biệt, trẻ ở lứa tuổi này phải làm quen với phương pháp học tập mới, phải họcnhiều môn khác nhau, kể cả những môn các em không thích học. Thậm chí, nếu ngườilớn không có sự định hướng kịp thời, sẽ có nhiều em căng thẳng trước khối lượng lớnkiến thức vừa mới, vừa trừu tượng. Khả năng phân tán chú ý ở trẻ còn cao, trong khiđó hoạt động học tập lại đòi hỏi các em phải làm những công việc khéo léo và đòi hỏisự tập trung. Mặt khác, khi đi học lớp 1, trẻ tự nhận thấy mình đã lớn, phải có vai tròvà trách nhiệm mới đối với gia đình. Đó là những yếu tố tâm lý cản trở họat động họcLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang12tập, làm cho học sinh lớp 1 khó thích ứng, kết quả học tập đạt được không như mongmuốn.Nếu phụ huynh có thời gian quan tâm đến con của mình sẽ nhận thấy những biểu hiệnnổi bật ở các em như không thích đi học hay đi học muộn ( kể cả bố mẹ chở đếntrường, các em cũng cố nấn ná thêm ở bên ngoài, chưa thích vào lớp), nói chuyênriêng khi cô đang giảng bài; học không đồng đều các môn, thường thì các em thíchmôn nào thì học tốt môn đó; quên không làm bài tập cô giáo yêu cầu, không tự giáchọc (chỉ học khi nào người lớn nhắc nhở); có khá nhiều trường hợp các em khôngdám nói với bố mẹ về điểm kém và vi phạm khuyết điểm của mình ở trường.Cha mẹ cần tìm cách khắc phục dần dần nếu trẻ đạt kết quả không tốt ở năm đầu bậctiểu học.- Không ít phụ huynh khó hình dung được rằng bước sang một môi trường học tậpmới, trẻ hoàn toàn lạ lẫm, các em chưa được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học, chưatìm thấy hứng thú trong học tập, những điều mới lạ trong những bài học còn trừutượng chưa kích thích được tính tự giác, tích cực của trẻ. Vì thế, trẻ chưa hình thànhđược cách thức học tập khoa học và hiệu quả.- Có những bậc phụ huynh cứ nghĩ rằng cho con ăn uống, may sắm áo quần vàsách vở là đủ. Trong khi đó, điều trẻ cần là cha mẹ chỉ dẫn các em hiểu rõ nội quy họctập cần phải làm gì? Làm như thế nào? Làm để được cái gì?- Ở thời điểm này, điểm số còn quá chung chung đối với trẻ. Tuy nhiên, nhiều giađình lại yêu cầu trẻ hàng tuần, hàng tháng phải có một số điểm 10 nhất định, làm chotrẻ chỉ biết “chạy” theo điểm, để được cha mẹ khen thưởng.- Một nguyên nhân khác là cách dạy của giáo viên chưa phù hợp, khiến các emngỡ ngàng, khó làm quen trước việc dạy của giáo viên mới (không giống như ở mẫugiáo). Giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá mọi công việc của trẻ, nhưng chưađộng viên, khuyến khích kịp thời, làm cho mối quan hệ giữa giáo viên và học sinhluôn có khoảng cách, các em khó gần gũi với giáo viên.D. Cách giúp trẻ vượt qua bước ngoặt lớp một:- Chia sẻ cùng trẻ. Trong thời điểm này, các bậc phụ huynh nên chuẩn bị nhữngđiều kiện tốt nhất cho trẻ, ngoài quần áo, đồ dùng học tập… thì việc tạo cho trẻ mộttâm lý sẵn sàng là rất quan trọng.- Hãy nói với trẻ biết trước về môi trường mới, thầy cô mới, nội dung học tập mới,những khó khăn cũng như thuận lợi nhất định để trẻ tập làm quen ngay ở nhà. Đồngthời nếu có điều kiện cha mẹ cũng nên cho trẻ làm quen với môi trường học tập mớitrong dịp hè, như cho trẻ đến trường để thăm quan, làm quen với anh chị lớn tuổi hơn,tập thói quen chấp hành nội quy…- Cha mẹ tạo điều kiện thuận lợi cho con học tập, xây dựng bầu không khí gia đìnhluôn vui vẻ, ấm cúng, đừng đặt quá nhiều kỳ vọng vào con cái, tạo cho trẻ tâm lýthoải mái trong khi học tập.- Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường, tôn trọng nhân cách trẻ,động viên các em trong suốt quá trình học tập… là con đường ngắn nhất để cùng trẻkhắc phục những khó khăn tâm lý ở những ngày đầu khi bước vào lớp 1.Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang13- Theo các chuyên gia tâm lý, học sinh lớp 1 khi tiến hành hoạt động học tập luôngặp phải những khó khăn tâm lý nhất định, diễn ra trên nhiều mặt: hiểu biết, thái độvà thói quen hành vi đạo đức. Rào cản tâm lý trong hoạt động học tập của các em donhiều nguyên nhân khác nhau.- Trong nhà trường, cần nâng cao hơn nữa quan hệ giao lưu giữa giáo viên và họcsinh, khắc phục cản trở trong quan hệ thầy trò.- Trong gia đình cần có sự quan tâm đúng mức, cha mẹ tạo điều kiện thuận lợi chocon học tập, xây dựng bầu không khí gia đình luôn vui vẻ, ấm cúng, đừng đặt quánhiều kỳ vọng vào con cái, tạo cho trẻ tâm lý thoải mái trong khi học tập. Tăng cườngsự phối hợp giữa gia đình và nhà trường, tôn trọng nhân cách trẻ, động viên các emtrong suốt quá trình học tập… là con đường ngắn nhất để cùng trẻ khắc phục nhữngkhó khăn tâm lý trong học tập ở năm đầu bậc tiểu học.Người làm thu hoạchLê Quốc ThiệnLê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ – Mỹ Tho – Tiền Giang14