6 Khái Niệm Cốt Lõi Của Marketing

Thuật ngữ
“marketing” đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau vì người ta
nghĩ rằng khi các tình huống thay đổi, thuật ngữ này cũng phải thay đổi sao cho
phù hợp theo thời gian. Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn, một loạt các khái
niệm về “marketing” đã xuất hiện.

Trong bài báo này, saga.vn chỉ quan tâm đến CÁC KHÁI NIỆM CỐT LÕI chứ
không đề cập tất cả. Khái niệm cốt lõi là khái niệm có sự rút gọn rõ ràng,
được xác định, được chấp nhận rộng rãi, có liên quan và có thể xác minh được để
hiểu rõ quá trình marketing nhằm hướng các luồng hàng hóa và dịch vụ từ người sản
xuất đến khách hàng.

Những khái niệm cốt lõi này là:

  • Nhu cầu, mong muốn và nhu cầu có khả năng chi trả;

  • Sản phẩm;

  • Giá trị và sự hài lòng;

  • Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ;

  • Thị trường;

  • Marketer là khách hàng tiềm năng.

1. Nhu cầu, mong muốn
và nhu cầu có khả năng thanh toán

Nhu cầu

Nhu cầu là khao khát
hoặc ước muốn về sinh lý, tâm lý, an toàn, lòng tự trọng và được thể hiện mình.
Nhu cầu sinh lý là nhu cầu cơ bản ở con người như thực phẩm, nơi ở, quần áo,
tình dục; nhu cầu an toàn phát sinh khi cuộc sống của con người phải chịu những
sự bất an cả trong tự nhiên và nhân tạo. Họ muốn được bảo vệ khỏi những tổn thất
này khi họ thích sống tự do. Nhu cầu được tôn trọng là kết quả của sự cạnh
tranh và đố kị.

Đương nhiên, mỗi người
đều muốn nổi trội hơn người khác trong cuộc sống. Nếu người ta ăn cơm bình dân,
người khác sẽ nghĩ đến cơm Dehradoon Basmati (một loại thực phẩm của người Ấn Độ);
nếu một người có Maruti 800, thì người khác lại có Skoda; nếu người ta có đồ
trang trí bằng vàng, người kia đang nghĩ đến bạch kim; nếu một người đi bằng xe
hai bánh hoặc bốn bánh, người khác lại đi bằng máy bay và v.v. Cuối cùng, cũng
là điều quan trọng nhất, có một số nhu cầu được gọi là nhu cầu được thể hiện
mình.

Nhu cầu được thể hiện
mình là những nhu cầu mang lại cho họ một vị thế độc nhất, hiếm có, chỉ vài người
mới có được. Vì vậy, tất cả mọi người không thể đều là Ambanis, Jindal hay
Mittals – những người có thành tích lớn lao và hiếm có. Đa số mọi người đều chiến
đấu cho nhu cầu sinh lý, tiếp đó là nhu cầu an toàn, thấp hơn là nhu cầu được
tôn trọng và thấp nhất là nhu cầu được thể hiện mình.

Mong muốn

Mong muốn là sự ao ước
có được những thứ cụ thể để thoả mãn những nhu cầu sâu xa hơn đó. Trong thuật
ngữ marketing, mong muốn nghĩa là nhu cầu cộng với khả năng chi trả. Nghĩa là
nhu cầu là vô kể, còn mong muốn là có hạn. Ví dụ, nếu bạn hỏi một người là “anh
có muốn ăn xoài không? Nếu chúng có sẵn, anh ta sẽ nói hãy dành hai quả cho tôi
và ba quả cho cha tôi trên thiên đường”

Mong muốn là cái gì đó
được chọn từ nhu cầu. Nếu đó là câu hỏi về ‘nhu cầu’, mọi người sẽ nói “Tôi cần
cái này và cái kia; nếu đó là mong muốn; anh ấy nói tôi muốn điều này. Bằng
cách đó, cả nhu cầu và mong muốn đều có rất nhiều; tuy nhiên, mức độ mong muốn
ít hơn so với mức độ nhu cầu.

Tuy nhiên, khi chúng
ta nói mãi về những mong muốn thay vì nhu cầu, những mong muốn đang trở nên đa
dạng hơn để lựa chọn vì sự lựa chọn không chỉ là ước muốn. Vì vậy, nhu cầu có
thể là thực phẩm, nơi ở và quần áo.

Trong trường hợp những
nhu cầu này được chuyển đổi thành mong muốn – hãy đa dạng hóa nó. Thức ăn có thể
là roti, chapatti, bánh mì, Nan, burgers, cutlets, pizza, idli, dosa, trứng
tráng, nhiều loại như thịt gà, thịt cừu, thịt, thịt xông khói, xúc xích, thạch
và nhiều thứ khác. Trong trường hợp là nơi ở, nó có thể túp lều, nhà tranh, nhà
gỗ 1 tầng, trang trại, tòa nhà và những thứ khác. Với quần áo, nó có thể là áo
sơ mi, quần, cà vạt, quần đùi, đồ lót, saris, váy, váy dài maxi, medies,
minies, hot pants, quần sooc lửng, v.v.

Nhu cầu có khả năng chi trả

Khi nhu cầu phát sinh,
mong muốn hiện lên, thì yêu cầu cũng được sinh ra.Nhu cầu có khả năng thanh
toán là khi một người sẵn sàng mua một sản phẩm và có khả năng trả tiền cho nó.
Nhu cầu có khả năng chi trả là biểu hiện của nhu cầu được hỗ trợ bởi sức mua của
họ. Do đó, có sự khác biệt giữa nhu cầu, mong muốn và nhu cầu có khả năng chi
trả.

Nhu cầu là một ước muốn
đơn giản, mong muốn là một nhu cầu được lựa chọn khi họ thực sự quan tâm và nhu
cầu có khả năng chi trả là một cam kết rõ ràng. Với mỗi món hàng, nó có thể là
nhu cầu của người này, mong muốn của người kia và nhu cầu có khả năng chi trả của
một người khác nữa.

Vì vậy, một người đàn
ông giàu có nhu cầu có khả năng chi trả là một chiếc xe Mersedes sang trọng
nhưng nó chỉ là một mong muốn cho người trung lưu và chỉ là nhu cầu của một người
nghèo. Ví dụ này minh họa cho câu nói. “Nếu, ước muốn là những chú ngựa, mọi
người sẽ không ngại mà cưỡi chúng.”

Tiền không được trồng
trên cây mặc dù nó được gọi là cây tiền. Nơi mà mọi người sẽ lấy tiền và mua bất
cứ thứ gì họ muốn.

2. Sản phẩm (Marketing
Offer)

‘Sản phẩm’ (Marketing
Offer) là thứ mà tổ chức marketing hoặc những nhà marketer thực hiện theo yêu cầu
của người tiêu dùng. Đây là viết tắt của một sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng về chất lượng, số lượng, thời gian, giá cả, tính đồng đều, v.v. Sản
phẩm có thể là “hữu hình” hoặc “vô hình”.

‘Sản phẩm hữu hình’ là
một sản phẩm có thể nhìn thấy, hữu hình, được thử nghiệm, nếm thử bởi các giác
quan. Sản phẩm vô hình là một dịch vụ không nhìn thấy, vô hình, không di động,
có sự hiện diện thực tế tại một thời điểm và địa điểm. Các sản phẩm có thể được
phân loại thành hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa tư liệu sản xuất.

Với hàng hóa tư liệu sản
xuất, con người và công nghệ đóng vai trò mạnh mẽ. Một lần nữa, những hàng hóa
tư liệu sản xuất này có thể là hàng tiêu dùng bền vững và hàng tiêu dùng không
bền vững, hay còn được gọi là để tiêu thụ cuối cùng. Vì vậy, quạt, tủ lạnh, điện
thoại, tủ đựng cốc là bền vững và bánh quy, pizza, kem đánh răng, kem tóc, dầu,
đánh bóng vàv.v.. là hàng tiêu dùng không bền vững.

Với hàng hóa tiêu
dùng, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng hơn cả mặc dù công nghệ cũng rất quan
trọng. Đó là những sản phẩm nông nghiệp như:  sữa, trứng, rau, trái cây,
bơ, thị gà, thịt cừu, thịt xông khói, thịt bò, mật ong, v.v…

Nhắc lại thêm, hàng
hóa tư liệu sản xuất có thể là “công nghiệp” trái ngược với tiêu
dùng. Hàng hóa công nghiệp là các mặt hàng lắp đặt và thiết bị, dụng cụ cầm
tay, cung cấp cả dịch vụ văn phòng và nhà máy và dịch vụ bảo trì.

Mỗi công ty có thị trường
bao gồm sản phẩm hoặc dịch vụ hoặc dòng sản phẩm hoặc dịch vụ mà khách hàng chọn
từ dòng sản phẩm. Các dòng sản phẩm tạo danh mục sản phẩm của công ty mà toàn bộ
công ty có sẵn để cung cấp cho người tiêu dùng hoặc các lớp người tiêu dùng.

Việc tung ra sản phẩm
thị trường phải đáp ứng kỳ vọng của người tiêu dùng là một giá trị thực sự cho
lợi ích chi phí tối đa với mức giá hợp lý.

3. Giá trị và sự
hài lòng của người tiêu dùng

Giá trị được nhìn từ
góc độ của khách hàng, là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ mà từ đó người
tiêu dùng có được mức độ hài lòng nhất định.

Một giá trị được đánh
giá bởi mức độ hài lòng. Do đó, nếu mức độ hài lòng thấp, điều đó có nghĩa là sản
phẩm có giá trị thấp đối với người tiêu dùng và ngược lại.

Sự hài lòng là một trạng
thái tâm lý và không thể đo lường vì nó không định lượng được. Ở đây, khái niệm
về chi phí rất phù hợp. Cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều quan tâm đến chi
phí.

Ví dụ, một mặt hàng được
cung cấp miễn phí hoặc mặt hàng đó rất dễ mua, giá cả phải chăng thì mọi người
sẽ chớp lấy cơ hội mua ngay mà nếu không thì sẽ do dự khi mua nó nếu giá trở
nên không thể chấp nhận hoặc cắt cổ.

Ở đây, người ta có thể
xác định ‘chi phí’ cho người tiêu dùng là giá trị bằng tiền của những gì được
mua. Trong thực tế, nó là một vấn đề lớn đang được xem xét trong marketing bởi
vì nó có nghĩa là một sự hy sinh của một số sự thay thế hoặc những phần khác của
người tiêu dùng.

Lấy ột ví dụ khi người
cha đang có ý định mua một chiếc xe hơi.

Trong khi người con
trai nghĩ đến việc tham gia một khóa học thạc sĩ về quản lý thanh toán. Cả xe
hơi và khóa học đều tốn kém, nhưng chi phí của người cha chỉ cho phép xe hơi hoặc
khóa học.

Trong trường hợp này,
người cha phải bỏ ý tưởng mua hàng của mình để hỗ trợ giáo dục đại học cho con
trai có bảo đảm việc làm với mức lương cao. Cuối cùng, nhưng không kém phần
quan trọng, sự hài lòng được đo lường theo Nhu cầu, mong muốn và nhu cầu có khả
năng chi trả của người tiêu dùng.

4. Trao đổi, giao dịch
và mối quan hệ

Trao đổi

Trao đổi là cơ sở rất
cơ bản của marketing. Trong thực tế, một cái tên khác để gọi thuật ngữ “trao đổi”
là marketing. Các nhà sản xuất hàng tiêu dùng và vật liệu sản xuất đang cung cấp
tất cả các loại hàng hóa cần thiết cho xã hội theo độ tuổi theo trọng lượng đến
chất lượng, giá cả, địa điểm, thời gian, tính đồng đều và v.v.

Trừ khi, chúng được
trao đổi thành tiền hoặc giá trị của tiền bạc, thì điều đó không có nghĩa gì cả.
Nếu trao đổi không diễn ra, sự chồng chất hàng tồn kho sẽ diễn ra,  ảnh hưởng
xấu đến toàn bộ cơ chế sản xuất và phân phối vì nó không phù hợp với tiêu thụ.

Nếu Công ty ô tô
Toyota sản xuất 2.000 xe hơi mỗi ngày và không được trao đổi hoặc bán, Công ty
Toyota phải hài lòng với việc tích trữ sẵn. May mắn thay, 2.000 xe hơi, tiêu thụ
700 chiếc xe mỗi ngày trên đất Mỹ và 1.300 chiếc còn lại trên toàn thế giới. Do
đó trao đổi là một quá trình diễn ra sự cung cấp và thực hiện kiểm soát giá cả.

Nếu nhà sản xuất tặng
quà miễn phí, quyên góp, từ thiện, nó không còn được gọi là trao đổi. Thêm nữa,
nếu người ta lấy những thứ từ nhà máy riêng, trang trại riêng, khu vườn riêng,
nó cũng không tạo ra sự trao đổi. Nếu một người đàn ông kinh doanh dự trữ hàng
hóa để bán ở một mức giá, không được xem là trao đổi nếu anh ta cung cấp hàng
hóa cho các thành viên gia đình và bạn bè của mình miễn phí.

Giao dịch

Giao dịch là sự thỏa
thuận diễn ra giữa các bên của sàn giao dịch là người mua và người bán.

Người bán đã sẵn sàng
với lượng hàng hóa để cung cấp và người mua đã sẵn sàng với số tiền cần thanh
toán. Các thỏa thuận hoặc giao dịch này có thể là tiền mặt hoặc tín dụng. Trong
những sự cạnh tranh khốc liệt ngày nay, các giao dịch tiền mặt tạo thành một phần
nhỏ trong tổng số giao dịch.

Một số công ty bán
hàng hóa với tổng tiền trả bằng tín dụng lên mức 90%, trong khi tiền mặt chỉ
chiếm 10%.

Ngày nay, kinh doanh
càng được mở rộng, càng nhiều người mua hàng hóa và dịch vụ bằng thẻ tín dụng.
Quy tắc không phải là “tiền trao cháo múc”, mà là “mua trước trả
sau”. Vì vậy, mua một chiếc xe hơi, căn hộ hoặc nhà, hay học phí hoàn toàn
nằm trong tầm với của tầng lớp trung lưu và cả tầng lớp thấp hơn. Khái niệm
“EMI” đã giúp tất cả mọi người có thể thực hiện mọi điều ngay bây giờ và trả tiền
sau.

Các mối quan hệ

Các mối quan hệ là mối
quan hệ kinh doanh liên kết và lâu dài dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa tổ
chức marketing và  đặc biệt là khách hàng lâu dài. Trong thực tế, vấn đề về
sự thu hút và chăm sóc khác hàng dài lâu không hề đơn giản. Luôn nhớ một câu
sau:” Khách hàng là thượng đế”

Khách hàng luôn được đảm
bảo hạnh phúc nhờ sự hài lòng về mặt chất lượng, giá cả, thời gian, số lượng,
lượng cung thường xuyên.

Một khi khách hàng hiểu
được rằng nhà marketer luôn quan tâm đến mình trong mọi hoàn cảnh, anh ấy xây dựng
thiện chí với công ty; giới thiệu với bạn bè và người thân của mình, từ đó góp
phần tăng trưởng khách hàng cho công ty.

Trong trường hợp khách
hàng không hài lòng, nó giống như một quả xoài hỏng, anh ta làm cho các loại
xoài khác cũng bị hỏng theo. Đó là lý do tại sao mối quan hệ marketing đã trở
thành một khía cạnh chuyên biệt của marketing hiện đại, tin tưởng vào việc xây
dựng quan hệ đối tác lâu dài với khách hàng cho lòng trung thành lâu dài hơn.

5. Thị trường

Như đã đề cập trước
đó, thị trường không nhất thiết phải là một địa điểm. Thị trường gồm người mua
và người bán gặp trực tiếp hoặc họ liên lạc với nhau để có thông tin chi tiết về
những gì người bán phải cung cấp và những gì người mua sẵn sàng mua. Nó là một
cơ chế tạo điều kiện cho việc định giá một cách dễ dàng và nhanh chóng vì lợi
ích chung của người mua và người bán, sự hiện diện vật chất của hàng hóa và con
người tại một thời điểm không phải là thị trường.

Các lực lượng trao đổi
và kiểm soát giá diễn ra dễ dàng và nhanh chóng đại diện cho thị trường. Thị
trường ’là điểm khởi đầu bởi vì marketing theo sau nó. Đó là lưu lượng hàng hóa
từ người bán đến người mua và tiền hoặc giá trị của tiền theo người mua giúp tiếp
cận người bán để hoàn tất việc trao đổi.

Thị trường được phân
loại theo một số cách đã được đề cập ở đầu chương.

6. Marketer và
khách hàng tiềm năng

Marketer

Marketer là cá nhân hoặc
tổ chức tham gia vào việc cung cấp hàng hóa; họ có danh mục đầu tư của riêng
mình trong phạm vi các sản phẩm họ có thể cung cấp cho những người mua quan
tâm. Marketer chỉ tạo ra địa điểm, thời gian sở hữu và tiện ích nhận thức.

Họ không sản xuất
nhưng mua từ các nhà sản xuất  hàng tiêu dùng và vật liệu công nghiệp và
bán cho người mua hoặc để tiêu thụ cuối cùng hoặc để chế biến và bán tiếp.

Khách hàng tiềm năng

Người cộng sự của thị
trường và marketing là khách hàng tiềm năng. Nếu chỉ có các marketer (người
bán) hoặc chỉ có khách hàng tiềm năng, thì nó sẽ không thể tạo thành một thị
trường được. Marketer ở đó vì có khách hàng tiềm năng. Nếu không thì không có
ai để mua hàng hóa và dịch vụ.

Marketer sẽ làm gì? Đó
là lý do tại sao khách hàng tiềm năng là người tiêu dùng và họ đang ở vị trí của
thượng đế hoặc ở một hệ thống marketing. Khách hàng tiềm năng là người hoặc tổ
chức sẵn sàng mua và thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ. Khách hàng không hủy
hoại các marketer bởi vì chúng ta hiểu rằng không thể ”vỗ tay chỉ với một bàn
tay.”

Theo saga.vn

—————————-

Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí – Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership

334 lượt xem