2 Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo ở nước ta – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.32 KB, 24 trang )

đến tiến sĩ đã và đang công tác và có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực

kinh tế, xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống giáo dục nước ta còn những

hạn chế nhất định. Nhìn tổng thể cả về quy mô và chất lượng đào tạo, giáo dục nước ta chưa

đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của các mục tiêu kinh tế – xã

hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến tới

xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thể hiện thông qua:

+ Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển đất nước, chưa

tiếp cận được với trình độ và kết quả giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên

thế giới. Chất lượng thấp thể hiện ở chỗ: Kiến thức hội nhập của học sinh, sinh viên Việt

Nam còn kém; sau khi tốt nghiệp nhiều sinh viên còn hạn chế về năng lực, tư duy sáng tạo,

về kỹ năng thực hành và khả năng thích ứng nghề nghiệp. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn

hạn chế, nhiều học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường chưa tìm được việc làm.

+ Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỹ cương trong giáo dục – đào tạo vẫn có chiều

hướng gia tăng. Động cơ học tập của một bộ phận sinh viên, học sinh trung học chưa tốt,

đặc biệt có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng.

+ Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc phục song vẫn

còn mất cân đối và bất hợp lý. Nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp tập trung

quá nhiều vào các thành phố lớn, khu công nghiệp lớn. Hình thức đào tạo cũng còn nhiều

bất cập, chưa chú trọng nhiều đến hình thức giáo dục không chính quy, giáo dục bên ngoài

nhà trường, đặc biệt cho những người đang lao động.

+ Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu

cầu vừa tăng nhanh quy mô vừa phải bảo đảm và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục –

đào tạo. Đặc biệt, đội ngũ giảng viên các trường đại học ít có điều kiện thường xuyên tiếp

cận, cập nhật tri thức và những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới. Tốc độ tăng

giảng viên ở các trường đại học chưa tương xứng với tốc độ tăng của sinh viên.

+ Ngân sách dành cho giáo dục của nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực

và trên thế giới, mới chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiếu của giáo dục – đào tạo. Việc

16

phân bổ ngân sách giữa các bậc học, giữa các địa phương không hợp lý đã tạo nên sự mất

cân đối trong phát triển giáo dục ở các bậc học và các vùng.

+ Cơ sở vật chất, kỹ thuật vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, nhiều

nơi còn thiếu thốn hoặc bị xuống cấp nghiêm trọng. Tình trạng dạy chay còn phổ biến ở một

số nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa. Việc nối mạng internet trong các trường học còn chưa

đáng kể.

+ Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa.

Chương trình giáo dục còn mang nặng tính hàn lâm, nặng về thi cử; chưa chú trọng đến tính

sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp; chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của thực

tiễn phát triển kinh tế – xã hội cũng như nhu cầu của người học; chưa gắn bó hiệu quả với

nghiên cứu khoa học – công nghệ và triển khai ứng dụng.

2.2.2 Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo

– Thực trạng xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục –

đào tạo

Thời gian qua, các cơ quan nhà nước đã ban hành được nhiều văn bản quy phạm

pháp luật với phạm vi điều chỉnh bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động giáo dục – đào

tạo. Nhiều quy phạm pháp luật đã được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của

thực tiễn. Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xây dựng các văn bản

quy phạm pháp luật, điều chỉnh mọi hoạt động giáo dục và đào tạo. Kế đến là Luật Giáo dục

năm năm 2005 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009. Ngoài ra còn nhiều văn bản khác do Bộ

Giáo dục và đào tạo ban hành. Một số văn bản đã điều chỉnh đúng các vấn đề có tính bức

thiết. Một số văn bản khác được ban hành kịp thời để điều chỉnh những hoạt động mới phát

sinh đối với giáo dục và đào tạo.

Tuy nhiên, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa động bộ và còn

nhiều hạn chế. Tư duy pháp lý đã được đổi mới ở mức độ nhất định song còn mang nặng

quan điểm pháp lý đơn thuần, chưa chú ý đến sự vận động khách quan của hoạt động giáo

dục và những điều kiện thực tế bảo đảm thực hiện pháp luật trong đời sống. Trong lĩnh vực

giáo dục và đào tạo, đặt biệt đối với một số loại hình đào tạo mới như đào tạo sau đại học,

17

đào tạo từ xa, đào tạo ngoài công lập,… văn bản pháp luật còn tản mạn, thiếu tính hệ thống

và đồng bộ. Phần lớn các lĩnh vực trong hệ thống giáo dục quốc dân được điều chỉnh bằng

các văn bản dưới luật của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các cơ quan hành

chính nhà nước.

– Thực trạng xây dựng và kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo

Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thống nhất từ trung

ương đến địa phương. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý không ngừng tăng cả về số

lượng và chất lượng.

Thế nhưng, chất lượng của bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đại học và chất

lượng của cán bộ quản lý còn nhiều bất cập, hạn chế. Bộ máy thiếu tính ổn định; đội ngũ

cán bộ chuyên trách về giáo dục đào tạo còn quá mỏng, không tương xứng với khối lượng

công việc được giao; bộ máy quản lý ngành GD-ĐT luôn tự bằng lòng với những thành tích

không thực tế, với những chính sách, quy chế lỗi thời mà không thấy rõ sự tụt hậu của GĐĐT Việt Nam. Bộ máy quản lý giáo dục còn nặng nề, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu

cầu phát triển trong giai đoạn mới. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chậm đổi mới và hoạt

động kém hiệu quả, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo.

Việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý cũng còn nhiều hạn chế.

– Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo

Trong những năm qua, bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo cùng với hệ

thống giáo dục quốc dân đã tổ chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về giáo dục đào

tạo trên các lĩnh vực: thành lập trường theo chủ trương xã hội hóa giáo dục; đã chú ý tới cơ

cấu vùng miền và các đối tượng chính sách xã hội; mở rộng nhanh quy mô đào tạo, tăng dần

mức đầu tư từ ngân sách; huy động nhiều nguồn đầu tư; bước đầu thực hiện phân cấp, giao

quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục; tăng cường đào tạo đội ngũ

giáo viên và cán bộ quản lý; mở rộng hợp tác quốc tế; đổi mới chương trình, quy trình,

phương pháp đào tạo; triển khai kiểm định chất lượng giáo dục…

Tuy nhiên, cũng bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém như: quy hoạch phát triển giáo dục

đào tạo thiếu cụ thể và thiếu tính khả thi, tập trung quá nhiều trường ở các thành phố lớn;

18

việc cho phép thành lập trường còn dễ dãi; phân bổ ngân sách còn dàn trải, thiếu tính cạnh

tranh; chưa có giải pháp và cơ chế phù hợp để việc đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, thị

trường lao động; chưa có đổi mới căn bản về chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo;

chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về việc giao quyền tự chủ và tự chịu

trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đại học…

– Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật

Căn cứ các quy định của pháp luật, thanh tra giáo dục đã kiện toàn bộ máy từ Bộ đến

địa phương ở các trường; đã kiểm tra và xử lý nhiều hành vi vi phạm, các hành vi làm giả hồ

sơ, văn bằng, chứng chỉ, thi hộ, thi kèm…Tuy nhiên, hoạt động kiểm tra, giám sát chưa bao

quát hết nội dung quản lý giáo dục – đào tạo, chưa có chiến lược tổng thể mà chủ yếu xử lý

các vụ việc do dư luận phản ánh; chế tài xử lý quá nhẹ, không có tác dụng ngăn chặn, răn

đe; chưa kịp thời phát hiện các sai sót, khiếm khuyết của các quy định pháp luật giáo dục –

đào tạo để điều chỉnh, bổ sung kịp thời.

2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

Nền giáo dục nước ta bị ảnh hưởng tiêu cực bởi cơ chế thị trường, việc thi hành kỷ

cương kỷ luật và pháp chế ngành còn chưa nghiêm túc. Bệnh chạy theo thành tích, chủ

nghĩa hình thức còn nặng nề dẫn đến đánh giá sai lệch kết quả thực của giáo dục.

Công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo còn yếu kém, bất cập và chậm đổi

mới, nặng về kinh nghiệm, thiếu cơ sở lý luận và khoa học.

Sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền địa phương nhiều lúc nhiều nơi còn

chưa sát sao và thiếu thường xuyên, liên tục. Bên cạnh đó, có những nơi lại can thiệp sâu lấn

sân vào hoạt động chuyên môn của hoạt động giáo dục – đào tạo gây cản trở công tác phát

triển giáo dục.

Mặt khác, sự suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, giáo

viên, giảng viên cũng gây không ít khó khăn cho sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.

Nhưng nhìn chung, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới những hạn chế đó là

do sự quản lý của nhà nước về giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Do vậy, việc đưa ra

19

những định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

là yếu tố khách quan.

2.3 Định hướng đổi mới công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

2.3.1 Yêu cầu tất yếu của đổi mới công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào

tạo

Đổi mới là một quá trình liên tục có tính kế thừa và tiếp tục phát triển ở bậc cao hơn

của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Giáo dục là loại hình hoạt động xã hội

rộng lớn luôn biến đổi và phát triển theo quá trình biến đổi và phát triển của đời sống xã hội.

Tuy nhiên do đặc thù về tính chất và nội dung nên giáo dục có tính kế thừa và ổn định tương

đối trong các giai đoạn phát triển của lịch sử.

Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo là quá trình chuyển đổi toàn diện từ

nhận thức, tư duy quản lý nhà nước về giáo dục đến các chính sách, cơ chế, nội dung,

phương thức, biện pháp, công cụ quản lý nhà nước về giáo dục…cho phù hợp với những

chuyển đổi về thể chế chính trị, môi trường và trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá.

Quá trình đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục là quá trình liên tục, kế thừa những

thành quả của giai đoạn trước để phát triển ở tầng, bậc cao hơn phù hợp với bối cảnh mới về

phát triển kinh tế-xã hội, trong nước và quốc tế. Vì thế, đổi mới quản lý nhà nước về giáo

dục là một tất yếu trong quá trình cải cách tổ chức bộ máy nhà nước.

2.3.2 Định hướng đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục

Một là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục và đào tạo.

Bởi vì, cán bộ quản lý giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt

động giáo dục, đào tạo. Nhà nước cần có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ quản lý giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý, bảo đảm

phát triển sự nghiệp giáo dục. Đồng thời, các cán bộ quản lý phải không ngừng học tập rèn

luyện nâng cao năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân.

20

Thứ hai, tăng cường công tác dự báo, quy hoạch và xây dựng kế hoạch định hướng

phát triển giáo dục – đào tạo trong chương trình tổng thể phát triển kinh tế xã hội của đất

nước, của từng ngành và từng địa phương, có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu giáo

dục và đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Khắc phục tình trạng mất

cân đối như hiện nay. Gắn xây dựng với sử dụng và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ

quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm.

Thứ ba, hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý của nhà nước về giáo dục và

đào tạo từ trung ương đến địa phương. Thực hiện phân cấp quản lý giáo dục một cách hợp

lý giữa trung ương và địa phương nhằm bảo đảm nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo

dục quốc dân và nâng cao tính chủ động của các cơ sở giáo dục – đào tạo tại địa phương.

Đồng thời, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực sự mở rộng dân chủ cho tất cả

các đơn vị.

Thứ tư, cùng với việc tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, nhà nước phải có

biện pháp phân bổ và quản lý ngân sách hợp lý và phù hợp với nhu cầu từng địa phương,

từng ngành học, bậc học đáp ứng nhu cầu ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo vừa tiết

kiệm, vừa hiệu quả.

Thứ năm, quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo là vấn đề rộng và phức tạp. Vì vậy,

cần phải xây dựng cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo theo cả năm lĩnh vực: quản lý chuyên

môn, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, quản lý bộ máy và quản lý cơ sở vật chất kết hợp

với thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục và phân cấp quản lý hợp lý.

Thứ sáu, thực hiện nghiêm túc kiểm tra, thanh tra nhà nước về việc thực hiện những

quy định pháp luật trong giáo dục và đào tạo thông qua hoạt động thanh tra giáo dục nhằm

thiết lập kỷ cương trong hoạt động giáo dục, ngăn ngừa các hiện tương vi phạm chính sách,

pháp luật của nhà nước, bảo vệ lợi ích của người học và cơ sở giáo dục – đào tạo. Cần nâng

cao chất lượng và đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra giáo dục từ trung ương xuống địa

phương, trong đó đặc biệt quan tâm đến tầm quan trọng của thanh tra công tác chuyên môn,

thanh tra công tác quản lý nhân sự, công tác quản lý tài chính.

21