160 năm liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng vào Đà Nẵng
Tiếng súng của liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ ở cửa sông Hàn (Đà Nẵng) tròn 160 năm trước, mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam.
Giữa thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy các nước tư bản phương Tây, trong đó có Pháp, mở những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, tìm kiếm thị trường. Triều Nguyễn thấy được nguy cơ bị xâm lược nên chọn Đà Nẵng làm cửa ngõ giao thương chính, thay vì ở tất cả hải cảng như trước và cho xây dựng tại đây nhiều thành, đồn phòng thủ kiên cố, cử binh lính trấn giữ.
Pháp chọn Đà Nẵng nổ súng
Từ năm 1847, quân Pháp nhiều lần thăm dò, thử sức lực lượng phòng thủ của triều Nguyễn ở vịnh Đà Nẵng và quyết định chọn Đà Nẵng làm nơi nổ súng. Đây là cảng biển nước sâu có vị trí chiến lược quan trọng trên con đường giao thương bằng đường biển từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương; dễ bề chia đôi đất nước và có thể đánh chớp nhoáng kinh đô Huế – cơ quan đầu não của triều đại phong kiến Việt Nam khi chỉ cách khoảng 100 km về phía Bắc…
Viện cớ triều đình nhà Nguyễn cấm đạo Công giáo, giết hại nhiều giáo sĩ, giáo dân, trong đó có một giáo sĩ người Tây Ban Nha, Pháp liên quân với Tây Ban Nha gấp rút chuẩn bị lực lượng, vũ khí tấn công xâm lược Việt Nam với sứ mệnh “khai hoá”, “cứu đạo”, mở ra cuộc chiến tranh 1858-1960.
Ngày 30/8/1858, Pháp huy động tàu hộ tống hạng nặng Némésis và ba tàu hộ tống hạng nhẹ, năm tàu pháo, một tàu trinh sát, ba tàu chở quân, hai tàu mượn của thương nhân, hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến, một đội pháo thủy quân lục chiến và vài tàu nhỏ khác xâm chiếm Đà Nẵng. Phía Tây Ban Nha có tàu trinh sát El Cano, hai tàu chở quân lính Âu châu và da đen từ Philippines qua.
Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Đà Nẵng ngày 1/9/1858. Ảnh: Tư liệu.
Đội quân khoảng 3.000 người do Phó đề đốc người Pháp Rigault de Genouilly chỉ huy. Một ngày sau, liên quân Pháp – Tây bố trí lực lượng kín cửa sông Đà Nẵng (sông Hàn) chờ lệnh khai hỏa. Phía Việt Nam khi đó hơn 2.000 quân đang trấn giữ tại các đồn, thành ở Đà Nẵng với vũ khí thô sơ là giáo mác, số ít súng thần công và súng hỏa mai.
Sớm 1/9, Rigault de Genouilly gửi tối hậu thư đòi Tỉnh thần Quảng Nam phải đầu hàng và nộp đồn lũy. Chưa qua thời hạn hai giờ, tướng Rigault de Genouilly đã lệnh cho pháo kích và các ổ súng đại bác nã pháo vào quân lính triều Nguyễn dưới chân núi Sơn Trà.
Ở mũi tấn công khác, hai tàu pháo của Pháp và tàu trinh sát của Tây Ban Nha tiến đến cửa sông Hàn thả neo, pháo kích vào hai đồn Nại Hiên Đông (đồn phía đông) và Điện Hải (đồn phía tây). Thành An Hải cũng bị tấn công ngay sau đó. Nhờ đông quân và hỏa lực mạnh, đến 10h ngày 1/9, liên quân đổ bộ chiếm đóng ba thành và làm chủ tình thế ở Đà Nẵng.
Nghe tin cửa sông Hàn lâm nguy, vua Tự Đức lệnh cho đặc phái viên Đào Trí dẫn theo 2.000 lính chi viện cho Tổng đốc Nam Ngãi là Trần Hoàng. Nhưng khi đến nơi thì hai đồn và thành Điện Hải đã mất. Triều đình lại cử thêm đô đốc Lê Đình Lý làm Tổng đốc đem thêm 2.000 binh lính trong cung tức tốc vào Đà Nẵng cứu vãn tình thế. Khi liên quân Pháp – Tây mở cuộc tuần chiến đến làng Cẩm Lệ, Đô thống Lê Đình Lý dù dũng cảm cầm cự đến cùng, nhưng bị trúng đạn và hy sinh sau đó ít ngày.
Chức Phòng triệt đồn Hòa Khê là Hồ Đắc Tú đáng lẽ phải mang quân ra cứu viện nhưng án binh bất động. Vua Tự Đức cho một quan tham tri đem cờ biển vào bắt Tú và cho Tống Phúc Minh thay Lê Đình Lý làm Tổng đốc. Nhà vua sau đó còn cử tướng Nguyễn Tri Phương đang làm quan trông coi ở Nam Kỳ ra làm Tổng đốc thay Tống Phúc Minh.
5 tháng sa lầy với thiếu thốn, bệnh tật
Tháng 11/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha bất ngờ tấn công hai đồn Hòa Khê và Nại Hiên. Hai tướng giữ đồn là Nguyễn Triều và Nguyễn An kháng cự quyết liệt nhưng đã tử trận vì quân của Tống Phúc Minh cứu viện không kịp. Tống Phúc Minh và thuộc hạ sau đó bị cách tất cả chức vụ.
Vua Tự Đức đã nhìn nhận 6 điều hạn chế trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược Pháp – Tây Ban Nha: Mọi hoạt động của quân lính không được bảo mật; vũ khí ít hiệu năng; tình báo ít xác thực; đồn ải không vững chắc; tinh thần binh sĩ không vững, tướng lệnh không nghiêm; phân tán thì bị yếu thế. Triều đình sau đó lệnh cho binh sĩ chỉnh đốn hàng ngũ, sửa sang lại đồn lũy.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, triều Nguyễn đã lệnh cho nhân dân thực hiện kế sách vườn không nhà trống. Sau hơn 5 tháng sa lầy ở Đà Nẵng, liên quân Pháp – Tây Ban Nha bắt đầu đối mặt với bệnh tật, nhiều người bị sốt rét, kiết lỵ, thậm chí bỏ mạng vì bệnh tả. Làng mạc, nhà cửa đã bị chính quân xâm lược phá hoại, nên binh lính phải căng lều hoặc dựng nhà tạm làm nơi trú thân.
Thành Điện Hải – nơi đầu tiên kháng Pháp. Ảnh: Nguyễn Đông.
Nhân dân đất Quảng ngày đêm dùng lưới đánh cá căng ngang dòng sông, làm sọt tre, đổ đất lấp sông Vĩnh Điện để thay đổi dòng chảy, khiến hạ lưu sông Hàn nông cạn và tàu thuyền của liên quân Pháp – Tây Ban Nha không thể tiến sâu vào trong bờ xả súng. Người công giáo đã không làm nội ứng tiếp tay như dự tính ban đầu của Pháp, khiến nội bộ chỉ huy liên quân lục đục.
Chiến công bước đầu ở Đà Nẵng được báo về Pháp và chỉ huy Rigault de Genouilly được thăng chức Đề đốc ngay sau đó. Nhưng toan tính tiến ngay ra Huế để đánh vào kinh đô triều Nguyễn của viên tướng này đã không thể thực hiện khi liên quân đã bị hao tổn nhiều sinh lực, không nắm rõ địa hình, địa vật cũng như không có thuyền nhỏ để di chuyển.
Giai đoạn này, Pháp – Tây Ban Nha không mở rộng phạm vi chiếm đóng. Hai bên có một vài trận đụng độ lẻ tẻ khi liên quân đi tuần vào ban đêm. Đến đầu năm 1859, thế trận của liên quân ở Đà Nẵng vẫn chưa rõ rệt.
Cuộc nổ súng lần hai đến lệnh cầu hòa
Nhận thấy không thể kéo dài mãi việc chiếm đóng cho kỳ được Đà Nẵng, ngày 2/2/1859, Rigault de Genouilly kéo 2/3 quân và phương tiện chiến đấu vào chiếm đóng Sài Gòn và chỉ 15 ngày sau thành Gia Định thất thủ. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng ở mặt trận Đà Nẵng lúc này đang thay đổi theo hướng bất lợi cho liên quân nên Rigault de Genouilly phải kéo quân trở ra. Trận đánh chiếm Đà Nẵng lần hai vào ngày 8/5/1859.
Sơ đồ hai trận đánh lớn cuối cùng của Pháp trong giai đoạn 1858-1860.
Binh lính triều Nguyễn dưới sự chỉ huy của tướng Nguyễn Tri Phương đã xây dựng hệ thống phòng thủ kéo dài từ chân núi Cẩm Khê đến đồn Liên Trì, bố phòng cẩn thận và chống trả quyết liệt những đợt tấn công của lính Tây bằng những đợt pháo đại bác. Tuy nhiên, do nhiều đợt đạn không trúng đích, quân giặc vẫn hùng hổ tiến lên, chọc thủng được phòng tuyến thứ nhất, buộc quân triều đình phải rút về phòng tuyến thứ hai và rút về Huế.
Dù chiếm đóng được thêm trận địa, liên quân Pháp – Tây Ban Nha lại tiếp tục đối mặt với thiếu thốn lương thực, đạn dược, bệnh tật… Trong khi đó nhiều nơi ở Việt Nam đã chiêu mộ nghĩa quân, tập hợp dũng sĩ ngày đêm thao luyện binh thư, quân sự và xin triều đình đến Đà Nẵng chống Pháp.
Giai đoạn này, bang giao giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc) căng thẳng. Rigault de Genouilly đưa ra đề nghị mở cuộc hòa đàm với nội dung tự do truyền đạo, thương mại và xin một khu đất làm sứ quán nhằm đảm bảo việc thi hành hiệp ước. Tháng 6/1859, Pháp phái đại úy Lafont đến nghị hòa, mục đích để trì hoãn chiến tranh ở Việt Nam nhằm đối phó với Trung Quốc.
Vua quan triều Nguyễn bàn qua tính lại vẫn không chốt việc nên hòa hay nên đánh thì đầu tháng 11/1859, Page (người thay Rigault de Genouilly phải về Pháp chữa bệnh) nổi nóng đã lệnh cho hạm đội Pháp – Tây nổ pháo kích hủy diệt mọi công sự ở Đà Nẵng. Trận đối đầu đó, nhờ ổ trọng pháo bố trí trên một ngọn đồi, quân nhà Nguyễn bắn trúng tàu Némésis – nơi viên tướng Page đứng chỉ huy.
Liên quân Pháp – Tây Ban Nha chịu nhiều thất bại sau đó. Le Page phải hạ lệnh rút toàn bộ quân viễn chinh ra khỏi Đà Nẵng ngày 23/3/1860, kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài 18 tháng. Quân xâm lược để lại Đà Nẵng những làng mạc bị tàn phá và một nghĩa trang chôn xác binh lính nằm ở lưng chừng bán đảo Sơn Trà.
Nỗ lực kháng Pháp, giữ chân để liên quân chỉ có thể đánh chiếm được các thành, đồn mà không thể tiến sâu vào nội địa, phá tan kế hoạch đánh chiếm Đà Nẵng để mở đường tấn công Huế của quân dân triều Nguyễn được coi là thắng lợi lớn và duy nhất ở mặt trận Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống quân xâm lược (từ 1858 đến 1884).
Vua Tự Đức vui mừng xuống chiếu động viên nhân dân. Tuy nhiên, hơn hai năm sau, triều đình nhà Nguyễn buộc phải ký Hiệp ước hòa bình và hữu nghị 1862 (thường gọi là Hòa ước Nhâm Tuất). Trong đó có điều khoản thương nhân Pháp – Tây Ban Nha được ra vào buôn bán ở cửa biển Đà Nẵng, tạo cơ hội cho liên quân có chỗ đứng chân ở Đà Nẵng để tiếp tục xâm lược sau này.
Không có thống kê cụ thể về số nghĩa sĩ Việt Nam tử trận trong gần hai năm đầu tiên chống Pháp, nhưng tại các nghĩa trang ở Đà Nẵng hiện có khoảng 5.000 hài cốt được quy tụ.
Nguyễn Đông
Tư liệu do Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp