El Salvador – Wikipedia tiếng Việt

Tôn giáo tại El Salvador
Tôn giáo Tỷ lệ
Công giáo Roma 67%
Tin lành 23%
Không tôn giáo 7%
Khác

  

3%

El Salvador (tiếng Tây Ban Nha: República de El Salvador, IPA: [re’puβlika ðe el salβa’ðor], Tiếng Việt: Cộng hòa En Xan-va-đo[3]) là một quốc gia tại Trung Mỹ. Tên nguyên thủy tiếng Nahuatl của đất này là “Cuzhcatl”, có nghĩa là “Đất của báu vật”. Địa danh này được người Tây Ban Nha phiên âm là “Cutzcatlan”.

Sau cuộc chinh phục của người Tây Ban Nha, địa danh được đổi thành Provincia De Nuestro Señor Jesucristo El Salvador Del Mundo tức là “Tỉnh thành của Đức Chúa Giêsu Ki Tô, Đấng Cứu Thế”, sau rút ngắn lại là “El Salvador”.

El Salvador nằm bên bờ Thái Bình Dương, giữa Guatemala và Honduras .
Vào thời kì tiền Colombo, vùng chủ quyền lãnh thổ này chịu ảnh hưởng tác động của nền văn minh Maya, rồi đến nền văn minh của người Indian Pipil với việc xây dựng vương quốc Cuscatlán ( vùng Đá quý ). Năm 1524, Pedro de Alvarado, người Tây Ban Nha, chinh phục El Salvador. Quốc gia này thoát khỏi sự quản lý của Tây Ban Nha năm 1821 và trở thành một phần của đế quốc México. Thành viên của Liên hiệp những Tỉnh Trung Mỹ ( 1823 – 1838 ), El Salvador công bố nền cộng hòa năm 1841 .Cuối thế kỷ XIX, quốc gia lại xảy ra những cuộc xung đột liên tục giữa phe tự do và phe bảo thủ. Dưới chính sách độc tài của Tướng Maximiliano Martinez ( 1931 – 1944 ), nông dân nổi dậy chống đối và bị đàn áp dã man ( 1932 ). Năm 1950, Đại tá Oscar Osorio lên cầm quyền và triển khai những cải cách xã hội .Năm 1972, quân đội áp đặt ứng viên của họ để gạt bỏ ứng cứ viên trái chiều, José Napoleón Duarte. Từ đó, cuộc chiến tranh du kích và khủng bố hoành hành khắp quốc gia. Năm 1977, nội chiến bùng nổ. Năm 1979, nhóm thay máu chính quyền lên cầm quyền và được Hoa Kỳ ủng hộ. Từ năm 1980, Tổng thống J. N. Duarte thực thi cải cách ruộng đất .Năm 1992, những cuộc thương lượng giữa nhà nước với lực lượng du kích kháng chiến đã dẫn đến việc ký hiệp định tự do, chấm hết 11 năm nội chiến. Năm 1994, Armando Calderón Sol đắc cử Tổng thống. Năm 1997, Mặt trận Giải phóng Dân tộc Farabundo Marti chuyển thành một đảng phái chính trị chiếm được 27 trong tổng số 84 ghế trong cuộc bầu cử lập pháp. Năm 1999, Francisco Flores trở thành Tổng thống mới .

El Salvador theo chế độ Cộng hoà Tổng thống. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu Chính phủ, được bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm.

Quốc hội : nhất viện gồm 84 nghị sĩ được bầu cho nhiệm kỳ 3 năm và có quyền tái cử .Toà án tối cao : gồm 14 quan toà do Quốc hội chỉ định, ngoài những có những toà án những cấp .Các đảng phái chính trị : El Salvador theo chính sách đa đảng. Các đảng chính là : Đảng Mặt trận giải phóng dân tộc bản địa Pha-ra-bun-đô Mác-ti ( FMLN – cầm quyền ), Liên minh Cộng hoà Quốc gia ( ARENA ), Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo ( PDC ), Đảng Hoà giải dân tộc bản địa ( PCN ) …
Quốc gia nhỏ và có tỷ lệ dân số cao ở Trung Mỹ ; Nam và Tây Nam giáp Thái Bình Dương, Bắc giáp Guatemala, Đông giáp Honduras. Địa hình gồm đồng bằng ven biển với đặc thù khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, hai dãy núi lửa ( đỉnh Santa Ana. 2.386 m ) bao quanh vùng cao nguyên có không khí trong lành, nơi dòng sông Lempa chảy ngang qua và tập trung chuyên sâu hầu hết dân cư trong nước .
Nền kinh tế tài chính El Salvador hầu hết dựa vào kiều hối từ Mỹ và nông nghiệp với những mẫu sản phẩm truyền thống cuội nguồn miền nhiệt đới gió mùa. Từ tháng 1 năm 2001, nhà nước El Salvador quyết định hành động sử dụng đồng đô la Mỹ thay thế sửa chữa cho đồng colong nội tệ. Nguồn thu nhập ngoại tệ cơ bản của quốc gia dựa vào gần 3 tỷ USD kiều hối / năm. nhà nước El Salvador chủ trương mở thị trường xuất khẩu mới, tương hỗ góp vốn đầu tư quốc tế và hiện đại hoá mạng lưới hệ thống thuế .Nông nghiệp chủ yếu tăng trưởng những loại cây lương thực : ngô, kê, đậu và lúa, mía và cafe. Đường, bông vải gỗ, cafe là những loại sản phẩm xuất khẩu chính. Một số ngành công nghiệp ( hóa dầu, lọc dầu, xi-măng, dệt … ) tăng trưởng nhờ khu công trình thủy điện sông Lempa. Cuộc nội chiến ( 1977 – 1992 ) đã làm cho quốc gia rơi vào thực trạng kiệt quệ. Mặc dầu nhà nước vận dụng giải pháp khắc khổ và trấn áp được nạn lạm phát kinh tế nhưng vẫn không tạo được niềm tin so với những nhà đầu tư quốc tế .

Tính đến năm 2016, GDP của El Salvador đạt 26.610 USD, đứng thứ 103 thế giới và đứng thứ 17 khu vực Mỹ Latinh.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

http://docxem.com/cuoc-song-dang-so-tai-quoc-gia-nguy-hiem-bac-nhat-the-gioi.html Lưu trữ năm ngoái – 10-24 tại Wayback Machine

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh