Lam Kinh – Wikipedia tiếng Việt

Khu di tích lịch sử Lam Kinh cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây Bắc, nằm trên địa bàn thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đây là một di tích lịch sử quốc gia cấp từ năm 1962. Năm 2013, khu di tích này được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt.[1]

Nhân vật tạo lập Lam Kinh là Lê Thái Tổ. Sau 10 năm chỉ huy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ( 1418 – 1428 ) đánh đuổi giặc nhà Minh và lên ngôi nhà vua đóng đô ở Đông Kinh ( Thăng Long ), vua Thái Tổ lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Đồng thời nhà vua cho kiến thiết xây dựng ở quê nhà đất tổ Lam Sơn một kinh thành gọi là Lam Kinh hay còn gọi là Tây Kinh. [ 2 ]

Thành điện Lam Kinh phía bắc dựa vào núi Dầu, mặt Nam nhìn ra sông Chu – có núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi Hàm Rồng chắn phía tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được bố trí xây dựng theo trục Nam – Bắc trên một khoảng đồi gò có hình dáng chữ Vương (王). Bốn mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m, tường thành phía Bắc hình cánh cung có bán kính 164m, thành dày 1m. Qua khảo cổ và dấu tích còn lại cho thấy xưa kia ở đây đã từng tồn tại Ngọ môn, sân rồng, chính điện, khu Thái miếu… nguy nga tráng lệ.

Khu di tích lịch sử Lam Kinh rộng khoảng 30 ha, gồm những lăng phần, đền miếu và một hành cung của các vua nhà Hậu Lê mỗi lần về bái yết tổ tiên.

Vị trí địa lí[sửa|sửa mã nguồn]

Rồng đá ở Lam Kinh Kiến trúc Lam Kinh

Thành điện Lam Kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu, phía Nam nhìn ra sông Chu, xa là núi Chúa, bên trái là rừng Phú Lâm, bên phải là núi Hương. Mặt trước ngoài hoàng thành khoảng 100m còn lại dấu vết của cổng vào rộng trên 6m, hai bên có xây 2 bức tường thành hình cánh cung kéo dài đến sát bờ sông Ngọc, móng tường thành còn lại dày 1,08m, qua cổng thành khoảng 10m đến một con sông đào có tên là sông Ngọc. Sông này bắt nguồn từ Tây Hồ, chạy vòng qua trước thành và điện Lam Kinh. Theo sách Hoàng việt dư địa chí xưa kia, nước sông trong veo, đáy sông có nhiều sỏi tròn to nhỏ, trông rất đẹp. Trên sông có bắc một cây cầu tên là Tiên Loan Kiều hình cánh cung, còn có tên gọi là Cầu Bạch, trên cầu có nhà, thành dáng “Thượng gia hạ kiều”. Qua cầu khoảng 50m thì đến một giếng cổ. Trước kia dưới giếng còn thả sen để giữ cho nước mát trong những ngày hè nóng nực. Bờ giếng phía Bắc có lát bậc đá lên xuống, gọi là bến nước.[3]

Trước Ngọ môn có hai con nghê bằng đá đứng canh. Nền Ngọ môn rộng 11 m dài 14,1 m, có 3 cửa ra vào. Cửa giữa rộng 3,6 m, cửa hai bên rộng 2,74 m và được sắp xếp ở hàng cột chính giữa. Đặc điểm của bốn cột giữa là rất lớn, đường kính chân tảng đo được 78 cm. Ngọ môn 3 gian, bước gian giữa rộng 4,60 m, bước gian bên rộng 3,50 m .Căn cứ vào chiều rộng của nền Ngọ môn và xét về tỷ suất quy mô những khu công trình kiến trúc toàn khu hoàng cung, những nhà nghiên cứu về kiến trúc cổ đã đoán định, Ngọ môn thành điện Lam Kinh là một khu công trình kiến trúc khá quy mô .Qua Ngọ môn vào đến sân rồng ( còn có tên gọi là sân chầu ). Sân trải rộng khắp bề ngang chính điện và đến sát thềm hai nhà tả vu và hữu vu với tổng diện tích quy hoạnh 3.539,2 m² ( rộng 58,5 m dài 60,5 m ) .

Qua sân rồng đến khu chính điện, gồm 3 toà điện lớn xây trên nền đất rộng, cao 1,8m so với sân rồng, bề ngang 38m, chiều sâu 46m. Mặt bằng của điện bố trí hình chữ Công (工).

Từ sân rồng lên chính điện là thềm rộng lớn, rộng 5m có 9 bậc với 3 lối lên, có chiều rộng không bằng nhau, lối giữa rộng 1,8m, lối bên rộng 1,21m. Hai bên lối giữa trang trí hình rồng tạc tròn, thân uốn khúc, trên thân khắc hoa văn hình ngọn lửa trên sóng xoắn, trên đầu thể hiện một bờm, mép rồng trang trí hình râu xoắn, dưới cằm có râu dài xoắn hình vặn thừng, tay rồng giống bàn tay người nắm gọn râu phần dưới đặt trên một viên ngọc. Gọi là long hí châu (rồng giỡn ngọc trai).

Vĩnh Lăng, lăng vua Lê Thái Tổ[sửa|sửa mã nguồn]

Khu lăng mộ vua Lê Thái Tổ tại Di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Lăng vua Lê Thái Tổ, Di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Lăng Lê Thái Tổ được thiết kế xây dựng trên một dải đất phẳng phiu cách điện Lam Kinh 50 m. Vĩnh Lăng được chọn đặt một thế rất đẹp, phía trước có minh đường thoáng rộng và tiền án là núi Chúa, phía sau có gối tựa là núi Dầu, hai bên tả, hữu có hai dãy núi tạo thế ” hổ phục rồng chầu “. Đối diện lại có sông làm ” bạch hổ ” .Bố cục và phong thái mai táng của Vĩnh lăng đơn thuần nhưng tôn nghiêm, tự nhiên và nhã nhặn. Lăng đắp đất hình lập phương, xung quanh xây chèn bằng đá đục ở bên ngoài, có kích cỡ 4,4 x 1 m. Trước Lăng có hai hàng tượng quan hầu và tượng những con giống tạc bằng đá dựng ở đây để trấn trạch ( bốn đôi con giống đối nhau theo thứ tự hai nghê, hai ngựa, hai tê giác, hai hổ ). Giữa hai hàng tượng chầu vào là một lối đi rộng 2 m25 gọi là đường ” thần đạo “. Nhìn toàn cảnh lăng Lê Thái Tổ ( Vĩnh Lăng ) thật giản dị và đơn giản, thân mật tuy nhiên rất tôn nghiêm và sang trọng và quý phái .

Bia Vĩnh Lăng[sửa|sửa mã nguồn]

Bia Vĩnh Lăng được dựng cách lăng 300 m đường chim bay ở tây nam thành điện Lam Kinh. Bia làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối cao 2,97 m ; rộng1, 94 m ; dày 0,27 m ; đặt trên sống lưng một con rùa lớn cũng được tạc từ đá trầm tích biển nguyên khối có chiều dài 3,46 m ; rộng 1,9 m ; cao 0,94 m kể cả đế .Nhà bia được dựng lại năm 1961 nền nhà có hình gần vuông mỗi cạnh là 8,8 m và nhà có 4 mái cong lợp ngói mũi hài, dưới được đỡ bằng 16 cột, mỗi góc 4 cột theo kiểu nhà Lê. Nghệ thuật trang trí tinh xảo, phong thái trang trí trên bia tương thích với nội dung văn bia do Nguyễn Trãi soạn. Văn bia ngắn gọn, cô đọng phản ánh khá đầy đủ thân thế, sự nghiệp công lao của vua Lê Thái Tổ .

Các lăng mộ khác[sửa|sửa mã nguồn]

Lăng những Vua và Hoàng hậu khác trong khu sơn lăng của Triều Lê Sơ ở Lam Kinh gồm :

Đền thờ Lê Lợi[sửa|sửa mã nguồn]

Khu đền thờ vua Lê Lợi thuộc địa phận xã Xuân Lam ( nay là thị xã Lam Sơn ), huyện Thọ Xuân, cách khu di tích Lam Kinh 150 m về phía Nam. Đền do 1 số ít nhà hảo tâm đứng ra quyên góp vào những năm đầu của thế kỷ 20 để làm nơi thờ vua Lê Thái Tổ ( Trong khi khu di tích Lam Kinh bị tàn phá chưa được trùng tu ). Hiện khu đền thờ này đã được sáp nhập vào quản trị cùng với khu di tích Lam Kinh .

  1. ^ http://www.kinhtenongthon.com.vn/Story/vanhoa/2013/9/43576.html Lưu trữ 2013-09-29 tại Wayback Machine Khu Di tích lịch sử Lam Kinh đón nhận bằng Di tích Quốc gia đặc biệt
  2. ^ “蓝山起义598周年暨民族英雄黎利忌日583周年纪念典礼在清化省举行”. 越通社(Thông tấn xã Việt Nam). 22 tháng 9 năm 2016.

  3. ^ “阮春福前往清化省蓝京国家级特殊历史遗迹区上香和开展参观考察活动”. 越通社(Thông tấn xã Việt Nam). 23 tháng 12 năm 2018.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh