Người Cơ Tu – Wikipedia tiếng Việt

Người Cơ Tu (còn gọi là người Ca Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca-tang) là một dân tộc sống ở Miền Trung (Việt Nam) và Hạ Lào. Dân số người Cơ Tu có khoảng trên 103 nghìn người. Tại Việt Nam người Cơ Tu là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam[3][4], được Joshua Project phân loại là Katu Đông (Eastern Katu).[5] Tại Lào theo Joshua Project năm 2019 có 29.000 người, được xếp loại là Katu Tây (Western Katu).[2] Người Cơ Tu nói tiếng Cơ Tu, một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á.

Dân số và địa phận cư trú[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Nước Ta, theo tìm hiểu dân số 1999 thì dân tộc bản địa này có dân số 50.458 người [ 6 ], cư trú đa phần trên dãy núi Trường Sơn, tại những huyện Đông Giang, Tây Giang, huyện Nam Giang ( Quảng Nam ), A Lưới, Phú Lộc ( Thừa Thiên-Huế ) .Theo Tổng tìm hiểu dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Tu ở Nước Ta có dân số 61.588 người, cư trú tại 38 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Tu cư trú tập trung chuyên sâu tại những tỉnh : Quảng Nam ( 45.715 người, chiếm 74,2 % tổng số người Cơ Tu tại Nước Ta ), Thừa Thiên-Huế ( 14.629 người, chiếm 23,8 % tổng số người Cơ Tu tại Nước Ta ), Thành Phố Đà Nẵng ( 950 người ), Thành phố Hồ Chí Minh ( 54 người ) [ 7 ] .

Tại Lào, theo Ethnologue thì năm 1998 dân tộc này có 14.700 người[8], cư trú chủ yếu tại thượng nguồn sông Xê Kông, trong các tỉnh Xekong, Saravan, Champasak.

Người Cơ Tu trồng cây lương thực theo lối phát rừng làm rẫy, thu hái những lâm thổ sản. Công cụ lao động khá nghèo nàn như rìu, dao, gậy chọc lỗ tra hạt. Các hoạt động giải trí kinh tế tài chính khác gồm có chăn nuôi, dệt, đan lát, hái lượm, đánh cá, săn bắn và trao đổi sản phẩm & hàng hóa theo cách vật đổi vật. Trong năm chỉ có đúng 1 mùa làm rẫy, gieo vào tháng 3-4 và gặt vào tháng 10-11. Cây lương thực đa phần là lúa, ngô, sắn .

Văn hóa – Nhà cửa[sửa|sửa mã nguồn]

Lễ hội đâm trâu hàng năm thường diễn ra trước mùa tỉa lúa, dựng lều giữa sân. Khi mặt trời ló dạng khởi đầu thủ tục cúng Giàng và những vị thần linh, hòa tấu khúc nhạc cúng từ nhạc cụ. Mọi người cùng nhau nhảy múa chung quanh con trâu, một người được cho là có công cho làng cho trâu uống nước. Đánh dấu điểm đâm, thịt trâu được chia cho cả làng cùng nhau nướng ăn .

Trong làng người Cơ Tu, các nếp nhà sàn tạo dựng theo hình vành khuyên hoặc gần giống thế. Ngôi nhà rông cao, to, đẹp, hơn cả là nơi tiếp khách chung, hội họp, cúng tế, tụ tập chuyện trò vui chơi.

pinh blâng của người Cơ Tu ở Quảng Nam được phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học.Nhà mồcủa người Cơ Tu ở Quảng Nam được phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học .Có đậm cá tính riêng trong tạo hình và trang trí phục trang, khác những tộc người khác trong khu vực, nhất là phục trang nữ. Nam giới người Cơ Tu đóng khố, ở trần, đầu hoặc vấn khăn hoặc để tóc ngắn thông thường. Khố có những loại thông thường ( không trang trí hoa văn và ít sắc tố ), loại dùng trong tiệc tùng dài rộng về kích cỡ và trang trí đẹp với sắc tố và hoa văn trên nền chàm. Mùa rét, họ khoác thêm tấm choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa văn theo nguyên tắc bố cục tổng quan dải băng truyền thống lịch sử với những màu trắng đỏ, xanh. Người ta mang tấm choàng có nhiều cách : hoặc là quấn chéo qua vai trái xuống hông và nách phải, thành vài vòng rồi buông thõng xuống trùm quá gối. Lối khoác này tay và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân trước ngực vòng ra thân sau .

Phụ nữ Cơ Tu để tóc dài búi ra sau gáy, hoặc thả buông. Xưa họ để trần chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Họ mặc váy ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn. Họ thường mặc áo chui đầu khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong những loại áo giản đơn nhất (trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải). Áo loại này chỉ là hai miếng vải khổ hẹp gập đôi, khâu sườn và trừ chỗ tiếp giáp phía trên làm cổ. Khi mặc cổ xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay ngắn. Áo được trang trí ở vai, ngực, sườn, gấu, với các màu đỏ, trắng trên nền chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo tương tự như vậy: theo lối ghép hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống.

Họ ưa mang những đồ trang sức đẹp như vòng cổ, vòng tay đồng hồ đeo tay ( mỗi người có khi mang tới 5,6 cái ), khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt cũng như những chuỗi hạt cườm, vỏ sò, mã não .. Nhiều người còn đội trên đầu vòng tre có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng ( rơnơk ) và cắm 1 số ít loại lông chim. Một vài vùng có trục cưa răng cho nam nữ đến tuổi trưởng thành khi đó làm tổ chức triển khai lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt. Đồ trang sức đẹp phổ cập là vòng tay, vòng cổ, khuyên tai. Các phong tục xăm mặt, xăm mình, cưa răng, đàn ông búi tóc sau gáy đã dần được vô hiệu .

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh