Bình giảng bài thơ Đất Vị Hoàng của Trần Tế Xương – Văn mẫu lớp 12

Bình giảng bài thơ Đất Vị Hoàng của Trần Tế Xương

Đề bài: Hãy bình giảng bài thơ “Đất Vị Hoàng” của Tú Xương.

    Có đất nào như đất ấy không?

    Phố phường tiếp giáp với bờ sông.

    Nhà kia lỗi phép con khinh bố,

    Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.

    Keo cú người đâu như cứt sắt,

    Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.

    Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,

    Có đất nào như đất ấy không?

Bài văn mẫu

Quảng cáo

” Vị Hoàng ” là quê cha đất tổ của nhà thơ Tú Xương. Làng Vị Hoàng thời xưa có sông Vị Thủy chảy qua. Ngày Tây chiếm đóng thành Nam, khi cờ ba sắc Open thì sông Vị Thuỷ lấp dần. Vị Hoàng vốn là một miền quê có thứ chuối ngự ngon nổi tiếng, cùng với thơ Tú Xương đã trở thành thổ ngơi, đặc sản nổi tiếng quê nhà, một trăm năm về trước, được truyền tụng trong dân gian : ” Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương “. Vị Hoàng cũng vốn là ” nơi sang chảnh, chốn nhiều quan “. Nhưng rồi biển dâu đổi khác, trong buổi giao thời hổ lốn dở Tây dở ta, ngày càng lộn xộn tang thương, đạo lí sa sút, suy đổi. Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh quốc gia bị mất chủ quyền lãnh thổ, quê cũ làng xưa thay đổi, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh quốc gia bị mất chủ quyền lãnh thổ, quê cũ làng xưa thay đổi, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đã có bài ” Vị Hoàng hoài cổ ” man mác buồn thương, lại thêm bài thơ ” Đất Vị Hoàng ” này để nói lên những chuyện xấu xa đồi bại ờ Vị Hoàng, ở thành Nam .
Bài ” Đất Vị Hoàng ” được viết theo thể thơ thất ngồn bát cú Đường luật, thủ vĩ ngâm. Câu 1 và câu 8 là câu hỏi tu từ ” Có đất nào như đất ấy không ? ” ‘, nhà thơ hỏi để mà nguyền rủa, giọng thơ trở nên đau đớn, chua xót. Nơi chôn nhau cắt rốn thân thương nay đã biến hóa nhiều rồi, ngày ngày diễn ra bao cảnh đau lòng. Còn đâu nữa hình ảnh đẹp một thời, để tự hào và ” nhớ ” :

Quảng cáo

    “Anh đi anh nhớ non Côi

    Nhớ sông Vị Thuỷ, nhớ người tình chung”.

Trong bài ” Sông Lấp “, Tú Xương viết ” Sông kia rày đã nên đồng – Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai .. ” Cảnh ấy có khác gì ở đây : ” Phố phường tiếp giáp với bờ sông “. Tây và bọn tay sai chiếm ruộng, chiếm bãi, chiếm đất, chiếm phố, chiếm nhà. Phố xá càng mọc lên thì bọn vô lương càng ra sức vơ vét làm giàu. Trong nhà ngoài phố, kẻ chợ làng quê, nơi gần chốn xa, nhất là ở Vị Hoàng nhỡn tiến đó. ” Nhà kia … mụ nọ … ” vừa ám chỉ vừa vạch mặt chỉ tên đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnh nhà ” lỗi phép “, con cháu bất hiếu ” Con khinh bố “. Có cảnh đời, đảo điên tình nghĩa ” chanh chua ” như mụ nọ ” Vợ chửi chồng “. Có lẽ chỉ vì tiền mà đồi bại đến cùng cực thế ! Hai mối quan hệ làm rường cột của đạo lí : tình phụ tử, nghĩa phu — thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Hỏng từ mái ấm gia đình hỏng ra. Không còn là hiện tượng kỳ lạ riêng biệt nữa .
Thời bấy giờ nhan nhản phố phường những ” tiết hạnh khả phong ” như mụ Phó Đoan, những gái tân thời như cô Hoàng Hôn, cô Tuyết ( Sốđỏ ) những me Tây như mụ Tư Hồng ” Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, lẫy lừng hăm sáu tỉnh ” ( câu đối của Nguyễn Khuyến ). Những ” em chã ” những trưởng giả, thượng lưu rởm đang ” Âu hoá ” sống phè phỡn, nhố nhăng !
Hai câu thơ 3,4 trong phần thực như bức biếm hoạ nhị bình đăng đối, với bao vết ố, nét nhơ ghê tởm, đặc tả sự đồi bại về luân thường đạo lí :

Quảng cáo

    “Nhà kia tôi phép, con khỉnh bố

    Mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng”.

Hai câu trong phần luận lan rộng ra ý thơ trong phần thực, làm cho bức tranh ” Đất Vị Hoàng ” được tô đậm sắc màu hiện thực. Không còn ước lô nữa. Hai nét vẽ về cảnh đời đáng buồn, đáng thương hại đối nhau. Một bộ tứ bình biếm hoạ hoàn hảo. Ở cái đất Vị Hoàng ấy nhan nhản những loại người ” tham lam ” và ” keo cú “. ” Keo cú ” đến bán tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ kinh ngạc hỏi và so sánh : ” người đâu như cứt sắt ” sao mà đáng sợ, đáng khinh bỉ ! Lại có loại người ” tham lam ” đến cùng cực, nhịp sống cuộc sống họ chỉ là ” chuyện thở rặt hơi đống “, ” Thở ” là nhãn tự ; rất linh diệu ; nếu thay bằng chữ ” nói ” hay là một từ nào khác thì không lột tả được thực chất loại người tham lam đê tiện này. Vì đã ” thở ” nên phải đi liền với ” hơi ” – ” hơi đồng “, tài lộc. Chỉ vì tiền, coi tiền tài là trên hết, và trước hết trong mọi mối quan hệ mái ấm gia đình và xã hội. ” Rặt ” là từ cổ, nghía là ” toàn là “, ” đều là “. Phép hòn đảo ngữ rất có giá trị thẩm mĩ, tạo nên ngôn từ kinh hoàng, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc lên án loại người tham lam, keo cú mất hết nhân tính :

    “Keo cú người đâu như cứt sắt,

    Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”.

Hai câu kết đẩy vần thơ lên cao trào của giọng điệu châm biếm và lên án. Không còn là chuyện riêng, chuyện riêng biệt ở cái làng Vị Hoàng nhỏ bé nữa, mà là hiện thực thối nát, đồi bại xấu xa, đạo lí suy đồi, đảo điên … trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến của một nước bị mất chủ quyền lãnh thổ. Cái xấu cái ác đã trở thành nỗi đau nỗi nhục của nhiều người, trên một khoảng trống to lớn ” Bắc, Nam ” và ” người bao tỉnh “. Nghệ thuật thủ — vĩ ngâm dưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn, vừa căm giận khinh bỉ cái xã hội kim tiền, cái xã hội chó đểu mà 30 năm sau Vũ Trọng Phụng phải nguyền rủa !

    “Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh

    Có đất nào như đất ấy không?”.

   “Đất Vị Hoàng” là bài thơ trào phúng độc đáo của Tú Xương. Muốn yêu quê, muốn tự hào về quê hương mà không được nữa. Nhà thơ sống trong tâm trạng đầy bi kịch. Bốn câu trong phần thực và luận là bộ tứ bình biếm hoạ về bốn loại người trong xã hội dở Tây dở ta buổi đầu. Trong gia đình, con thì bất hiếu, “lỗi phép”, vợ thì “chanh chua” lăng loàn; ngoài xã hội, đâu đâu cũng chỉ có hạng người “tham lam” và “keo cú” vênh váo. Đạo lí suy đồi mà nguyên nhân sâu xa là nước mất chủ quyển, là sự tác oai tác quái của mặt trái đồng tiền. Nhà thơ vừa đau xót, vừa khinh bỉ. Đúng là Tú Xương “đã đi bằng hai chân” hiện thực trào phúng và trữ tình, tạo nên giọng điệu riêng hiếm thấy.

Bài thơ toàn Nôm, ngôn từ bình dị mà tinh tế. Bốn câu hỏi Open trong bài thơ làm cho ngôn từ thêm kinh hoàng, đầy ám ảnh. Thơ liền mạch, đúng là Tú Xương đã xuất khẩu thành thơ. Bút pháp điêu luyện mà tự nhiên, hồn nhiên, nhất khí mà bình dị. Trong thơ ca dân tộc bản địa ít có bài thơ thủ vĩ ngâm hay như bài thơ ” Đất Vị Hoàng ” này. Tú Xương mãi mãi là nhà thơ trào phúng bậc thầy trên thi đàn dân tộc bản địa .

Giới thiệu kênh Youtube VietJack

Ngân hàng trắc nghiệm miễn phí ôn thi THPT Quốc Gia tại khoahoc.vietjack.com

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh