Chư hầu nhà Chu – Wikipedia tiếng Việt

Chư hầu nhà Chu là những thuộc quốc, lãnh chúa phong kiến thời kỳ nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân Đế Tân nhà Thương gian ác mất lòng người, Tây bá Cơ Phát đã tập hợp các chư hầu lật đổ nhà Thương để lập nhà Chu .Để lan rộng ra và củng cố nền thống trị, quản trị hiệu suất cao những vùng đất to lớn đã chinh phục, nhà Chu triển khai chính sách phân phong cho các bạn bè, công thần, con cháu các vua đời trước. Tại mỗi vùng đất nhất định, nhà Chu giao đất và dân cho họ xây dựng những vương quốc có quy mô lớn nhỏ khác nhau .

Đầu thời Chu, có 2 đợt phân phong của Chu Vũ Vương và Chu Công Đán. Sau khi diệt nhà Thương, Chu Vũ vương nhớ công lao các vua đời trước, ông phong cho con cháu họ làm chư hầu:

Để thưởng công cho các tướng sĩ có công phò trợ diệt Thương, ông phong chư hầu cho các công thần, trong đó các nước lớn là :
Trên danh nghĩa, ba người em Quản Thúc Tiên, Sái Thúc Độ và Hoắc Thúc Xử có nghĩa vụ và trách nhiệm trợ giúp Vũ Canh Lộc Phủ nhưng trên thực tiễn là để giám sát, thế cho nên sử gọi là ” Tam giám “. Sau khi Chu Vũ Vương mất, Quản Thúc Tiên, Sái Thúc Độ và Hoắc Thúc Xử theo Vũ Canh phản lại nhà Chu ; Chu Công Đán dẹp loạn rồi giết Vũ Canh và Quản Thúc Tiên, lưu đày Hoắc Thúc và Sái Thúc. Đất của Vũ Canh và Quản Thúc bị chia làm đôi, phong cho 2 người :

  • Cải phong cho Vi Tử Khải từ đất Triều Tiên xa xôi về đất Ân cũ, gọi là nước Tống, để giữ hương hỏa nhà Ân
  • Phong người em thứ 9 của Chu Vũ Vương là Cơ Phong làm vua nước Vệ, tức là Vệ Khang Thúc.

Nước Đường làm mưa làm gió, Chu Thành Vương diệt nước Đường, phong cho người em nhỏ là Cơ Ngu làm vua, sau đổi là nước Tấn. Chu Thành Vương còn phong cho Hùng Dịch là con cháu Dục Hùng ( dòng dõi Hoàng Đế ) làm vua nước Sở .Theo Tuân Tử, đầu thời Chu đã phân phong cho toàn bộ 71 nước, trong đó họ hàng vua Chu chiếm 53 nước [ 4 ]. Theo Tả Truyện, con cháu đời sau của Tây bá Cơ Xương ( cha Chu Vũ Vương ) được phong 16 nước là :
Bốn nước là các con của Chu Vũ Vương :
Năm nước con cháu của Chu Công Đán là :
Ngoài ra, còn một số ít nước khác như Từ, Triệu, Cảnh, Ba, Giang, Hoàng, Tùy, Lã … Sang thời Chu Tuyên Vương, một chư hầu quan trọng khác Open là nước Trịnh, được phong cho Cơ Hữu là em nhỏ của Chu Tuyên Vương ( 806 TCN ). Đến thời Chu Bình Vương, có thêm một chư hầu quan trọng ở phía tây là nước Tần, người được phong là con cháu của Doanh Phi Tử, con Đại Lạc – một vị quan ship hàng nhà Tây Chu [ 5 ] .

Quan hệ với thiên tử nhà Chu[sửa|sửa mã nguồn]

Đương thời, khi làm phụ chính nhà Chu, Chu Công Đán đã sắp xếp lại chính sách phân phong, đại khái chính sách đó như sau :

  1. đất của thiên tử vuông vức 10000 dặm
  2. đất của công vuông vức 1000 dặm
  3. đất của hầu vuông vức 500 dặm
  4. đất của vuông vức 100 dặm
  5. đất của tử vuông vức 50 dặm

Khác với chư hầu thời nhà Hạ và thời nhà Thương có mối quan hệ khá lỏng lẻo và khá độc lập với các triều đại này, đại đa số các chư hầu đều là người thân thích hoặc công thần nhà Chu, chịu sự ràng buộc khá ngặt nghèo, có quan hệ vua tôi với thiên tử nhà Chu [ 6 ] .Chư hầu khi được phong phải tổ chức triển khai nghi lễ thụ phong, công bố khoanh vùng phạm vi biên giới, số đất đai. Các chư hầu khi được phong thường được thưởng luôn quan lại, nô lệ và đồ tế và nghi trượng … Chư hầu có nghĩa vụ và trách nhiệm với thiên tử nhà Chu như : triều kiến định kỳ, cống nạp, điều quân theo sự kêu gọi của vua Chu khi có cuộc chiến tranh hoặc làm lễ lớn để trợ tế … [ 7 ] [ 8 ] .Chế độ phong đất cho các chư hầu là giải pháp tốt nhất lúc đó nhằm mục đích thống trị có hiệu suất cao khu vực to lớn một cách không thay đổi. Việc phân phòng có ảnh hưởng tác động tới nhiều nước chư hầu cũ của nhà Ân và các bộ tộc ở xa xôi, đạt mục tiêu truyền bá nền văn minh Chu tới những nơi này, có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành khối thống nhất dân tộc bản địa trong lịch sử vẻ vang Trung Quốc [ 9 ] .

Các chư hầu đầu thời Chu có vai trò làm bình phong cho thiên tử ở trung tâm, vì vậy việc phân phong được gọi là “phong kiến thân thích, dĩ bình phiên Chu” (phong đất cho bà con thân thích làm rào giậu cho nhà Chu).

Trong các chư hầu thời kỳ đầu, nhà Chu giao cho các nước Tề, Lỗ, Tấn, Yên, Vệ có vai trò quan trọng hơn cả .Nước Lỗ có khoanh vùng phạm vi biên giới phía bắc đến dưới Thái Sơn, phía đông tới Quy Mông, phía nam đến núi Phù, núi Phong. Nơi đây có các bộ lạc Yểm, Thương. Chu Công dẹp loạn và ở trong triều, giao cho con là Bá Cầm về trị quốc, chia cho 6 họ bộ lạc của nhà Ân là Điều, Từ, Thượng, Tô, Trường Thược, Vĩ Thược. Lỗ có vai trò đứng đầu các chư hầu nhỏ và bộ lạc lưu vực sông Hoài thần phục nhà Chu [ 10 ] .Nước Tề ở đất Doanh Khâu, vốn là đất của người Bồ Cô. Biên giới nước Tề phía đông đến biển, phía tây đến sông Hoàng Hà, phía nam đến Mục Lăng, phía bắc đến Vô Để. Nước Tề có vai trò khống chế các bộ tộc phía đông thần phục nhà Chu [ 11 ] .Nước Vệ nằm ở vị trí vốn là đất cũ của nhà Ân. Vệ Khang Thúc được cấp cho 7 bộ tộc của nhà Ân là Đào, Thi, Phồn, Kỳ, Phàn, Phàm, Chung. Vệ có vai trò không thay đổi địa giới cũ của nhà Ân, lại nằm gần đất thiên tử nhà Chu, có vai trò bảo vệ cho nhà Chu [ 12 ] .Nước Tấn được phong ở vùng đất cũ của nhà Hạ, nhà Chu cấp cho 9 bộ lạc họ Hoài cũ của nhà Hạ, có vai trò tương khắc và chế ngự sự bành trướng của các bộ tộc Nhung Địch phía bắc .

Nước Yên được xem là phên giậu cho nhà Chu ở phía đông bắc, khống chế các bộ lạc Nhung Địch ở khu vực núi Yên và Liễu Tây, có ảnh hưởng đến khu vực giữa Bạch Sơn và Hắc Thủy.

Các sử gia khẳng định chắc chắn rằng, nhiều nước chư hầu lớn của nhà Chu được Tư Mã Thiên chép tôn xưng tước hiệu trong Sử ký mà đời sau mọi người quen gọi họ theo cấp bậc tước hiệu đó, còn tước hiệu thực của họ thấp hơn [ 13 ] .

Theo các sử gia, Tư Mã Thiên đã dựa vào 2 tài liệu cổ trước ông là Tần kỷKinh Xuân Thu; sách Tần kỷ viết theo quan điểm nước Tần, còn Kinh Xuân Thu viết theo quan điểm nước Lỗ. Các vua nước Tần, Trịnh vốn chỉ có tước , được Tư Mã Thiên chép thành tước công. Các vua nước Tề, Tấn, Lỗ vốn đều chỉ có tước hầu, được Tư Mã Thiên chép thành tước công (Tề Hoàn công, Tề Hiếu công, Tấn Văn công, Tấn Tương công, Lỗ Trang công…)[13].

Trong mỗi nước chư hầu, vua chư hầu có quyền lực tối cao lớn nhất, có quyền quản lý vùng đất được phong theo cách của mình, có đặc thù độc lập thoáng đãng với thiên tử [ 14 ]. Trong khoanh vùng phạm vi thống trị của mình, vua chư hầu có quyền lập cỗ máy chính quyền sở tại thống trị, tổ chức triển khai quân đội và lập nhà tù. Họ có quyền phong đất cho các quan lại cấp dưới như khanh, đại phu trong nước, gọi là ” lập gia ” .Đất phong cho các khanh đại phu gọi là ” thái ấp “. Thu nhập kinh tế tài chính từ các thái ấp là bổng lộc của các khanh đại phu. Dưới khanh đại phu là ” sĩ “, cũng được phong cho ” thực địa ” [ 8 ] .Chế độ phong đất của nhà Chu được thi hành dựa vào cơ sở huyết thống, có mối liên hệ ngặt nghèo với chính sách tông pháp, theo đó người con trai trưởng ( phải là người con lớn nhất do vợ chính sinh ra ) được thừa kế ngôi vị của cha, gọi là ” đại tông “, có trách nhiệm thờ phụng thủy tổ nhà mình. Những người con thứ cũng được phân phong gọi là ” Tiểu tông ” [ 8 ] .Những người em cùng mẹ với vua chư hầu hoặc bạn bè khác mẹ đều được phong làm ” khanh đại phu “. Những người bạn bè cùng mẹ hoặc khác mẹ của khanh đại phu đều được phong là ” sĩ “. Chư hầu trong quan hệ với thiên tử là ” tiểu tông “, nhưng trong nước là ” đại tông “. Khanh đại phu trong quan hệ với chư hầu là ” tiểu tông “, nhưng với ” sĩ ” bên dưới họ vẫn là ” đại tông “. Người con trưởng của vợ chính do ” sĩ ” sinh ra vẫn có thương hiệu ” sĩ “, còn những người con khác đều là tầm trung [ 8 ] .Vua chư hầu nắm quyền chi phối tại những vùng đất do họ trực tiếp quản trị, như thiên tử nhà Chu so với những vùng đất quanh kinh đô. Với những vùng đất đã phong cho các Khanh đại phu, khanh đại phu đến lượt mình lại có quyền chi phối [ 14 ] .

Thay đổi quan hệ với thiên tử[sửa|sửa mã nguồn]

Chế độ tông pháp của nhà Chu duy trì được hơn 300 năm thì sụp đổ, do không còn thích hợp với thời đại. Trải qua nhiều thế hệ thừa kế, mối quan hệ huyết thống giữa nhà Chu với các chư hầu và giữa các chư hầu càng xa ; với những nước không có quan hệ huyết thống với nhà Chu ( con cháu công thần, như nước Tề ) thì càng xa hơn, do đó sự khống chế của chính sách tông pháp ngày càng yếu [ 14 ] .Trải qua nhiều thế hệ, số lượng quý tộc ngày càng đông đúc, trong khi đất đai chỉ có số lượng giới hạn. Nhiều hậu duệ của các quý tộc trở thành tầm trung, không được phong đất, mất vị thế. Nhiều hậu duệ của Khanh đại phu trở thành sĩ, nhiều người hậu duệ hàng sĩ xuống trở thành tầm trung. Do đó tới thời Đông Chu, hàng ngũ ” sĩ ” rất đông, nhiều người trong số họ tích cực nhu yếu biến hóa chính sách cũ [ 14 ] .Nhà Chu từ khi dời sang phía đông ( Đông Chu ) để tránh sự uy hiếp của tộc Khuyển, Nhung thì ngày càng suy yếu, chỉ còn thương hiệu thiên tử trên danh nghĩa. Các nước chư hầu khởi đầu phá vỡ trật tự cũ, không chịu hoặc giảm thiểu sự cống nạp, khiến vương triều Chu rơi vào khó khăn vất vả về kinh tế tài chính, có những lần phải xin nước Lỗ trợ giúp [ 15 ] .

Phát triển, thôn tính và kết thúc[sửa|sửa mã nguồn]

Thời Xuân Thu, các chư hầu nổi lên đánh chiếm đất đai của nhau, thôn tính lẫn nhau, giành lấy quyền chỉ huy các chư hầu khác bằng tiềm năng. Trong thời Xuân Thu nổi lên các vua chư hầu Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Sở Trang vương, sau có thêm Ngô Hạp Lư và Việt Câu Tiễn. Nước Tần muốn tăng trưởng về phía đông để tranh bá nhưng bị nước Tấn chặn lại, Tần Mục công tăng trưởng về phía tây, trở thành bá chủ phía tây .Trong quy trình tăng trưởng giành quyền bá chủ và đấu tranh để sống sót, các chư hầu tàn phá lẫn nhau, nhiều nước nhỏ bị xóa khỏi. Các nước liên minh và chia rẽ theo những mối quan hệ rất phức tạp. Bản thân thiên tử nhà Chu cũng giảm diện tích quy hoạnh thống trị từ 1000 dặm xuống còn 200 dặm, chỉ tương tự một nước chư hầu. trái lại, các chư hầu như Tề, Tấn, Sở, Tần … khi mới phong chỉ có khoảng chừng 100 dặm, nhưng sau này đã tăng trưởng lên gấp nhiều lần, nổi bật là nước Sở có 5000 dặm .Trong quy trình tăng trưởng của các chư hầu, đến lượt các Khanh đại phu tăng trưởng thế lực và trở nên hùng mạnh trong lòng các nước chư hầu. Đến cuối thời Xuân Thu, các khanh đại phu nổi lên trở thành những quyền thần, nắm quyền chi phối chính trường tại một số ít nước chư hầu, nổi bật là các nước lớn Tấn, Tề, Lỗ. Cuối cùng, các vua chư hầu Khương Tề và Tấn đã mất nước về tay các quyền thần. Nước Tấn bị chia ba thành Hàn, Triệu, Ngụy, còn nước Tề chuyển sang họ Điền. Một trong những dấu ấn sau cuối mà nhà Chu còn bộc lộ một chút ít quyền lực tối cao trên danh nghĩa là việc 3 nhà Hàn, Triệu, Ngụy nước Tấn thỉnh cầu để được phong làm chư hầu .Sang thời Chiến Quốc, cuộc chiến tranh giữa các chư hầu ngày càng quyết liệt, ngày càng nhiều nước bị hủy hoại hoặc thu hẹp. Còn lại 7 nước lớn là Điền Tề, Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên và Tần gây cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Đến thế kỷ 3 TCN, thế lực của nước Tần ngày càng áp đảo trước 6 chư hầu lớn còn lại. Năm 249 TCN, vua nước Tần hủy hoại nhà Chu. Các chư hầu trải qua 28 năm không có thiên tử, dù là trên danh nghĩa .Đến năm 221 TCN, Tần vương Chính hủy hoại các chư hầu còn lại, thống nhất Trung Quốc, nhưng còn sót lại nước Vệ ở đất Dã Vương không bị diệt hẳn. Năm 209 TCN, Tần Nhị Thế lên ngôi mới diệt nước Vệ [ 16 ] [ 17 ]. Vệ là chư hầu ở đầu cuối do nhà Chu phân phong, thuộc tông thất nhà Chu, bị tàn phá bởi một chư hầu cũng vốn do nhà Chu phân phong, nhưng không thuộc tông thất nhà Chu .

Sự thừa kế của hậu thế[sửa|sửa mã nguồn]

Khác với những chư hầu thời nhà Hạ và Thương, các chư hầu nhà Chu sau khi bị hủy hoại vẫn được lưu lại tên gọi tại vùng chủ quyền lãnh thổ cũ của họ. Các triều đại về sau, từ nhà Hán trở đi, khi phong chư hầu cho thân thích hoặc công thần, vẫn ban cho các thương hiệu như chư hầu nhà Chu : Tề vương / Tề công, Lương vương / Lương công, Tấn vương / Tấn công, Ngụy vương / Ngụy công, Sở vương / Sở công, Tần vương / Tần công, …

Bảng tóm tắt niên đại các chư hầu nhà Chu[sửa|sửa mã nguồn]

Các chư hầu lớn nhà Chu có niên đại như sau[18]:

  • Sử ký Tư Mã Thiên, các thiên:
    • Chu bản kỷ
    • Tần bản kỷ
    • Lục quốc niên biểu
    • Vệ Khang Thúc thế gia
  • Trương Tú Bình, Vương Hiểu Minh (1998), Một trăm sự kiện của Trung Quốc, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
  • Cát Kiếm Hùng chủ biên (2006), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 1, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin
  • Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2002), Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Nhà xuất bản Lao động
  • Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất bản Đà Nẵng
  • Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành (1998), Cố sự Quỳnh Lâm, Nhà xuất bản Thanh Hoá
  • Phương Thi Danh (2001), Niên biểu lịch sử Trung Quốc, Nhà xuất bản Thế giới

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh