Các di tích lịch sử văn hóa – Cấu trúc luận văn – https://leading10.vn

7. Cấu trúc luận văn

2.2.2. Các di tích lịch sử văn hóa

Hồ Chí Minh – TP.Hồ Chí Minh có quy trình hình thành và tăng trưởng hơn 300 năm, các di tích lịch sử văn hóa trên địa phận là bức tranh mang đậm dấu ấn về dẫn chứng vật chất và ý thức phản ánh những giá trị lịch sử, văn hóa của Thành phố trong suốt quy trình tìm hiểu và khám phá, thiết kế xây dựng, đấu tranh của các thế hệ dân cư ở vùng đất này. Do đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử văn hóa ở đây là việc làm thiết yếu góp thêm phần quan trọng trong giáo dục truyền thống lịch sử yêu nước, truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ, bộc lộ đạo lý “ uống nước nhớ nguồn ” của nhân dân ta. Và việc tăng trưởng du lịch dựa trên những giá trị của di tích lịch sử văn hóa cũng là cách vừa để bảo tồn, phát huy và giáo dục truyền thống cuội nguồn yêu nước, quý báu của dân tộc bản địa, vừa là để bộc lộ và ca tụng ý thức đó với bè bạn năm châu .
Các di tích lịch sử văn hóa của Thành Phố Hồ Chí Minh gồm có nhiều loại : Các di tích lịch sử ; Các di tích kiến trúc thẩm mỹ và nghệ thuật ; Các di tích khảo cổ ; Các kho lưu trữ bảo tàng và thắng cảnh có giá trị lịch sử .
Hiện nay, tại Thành Phố Hồ Chí Minh có 168 khu công trình, khu vực có tín hiệu di tích, trong đó có 132 khu công trình, khu vực đã được xếp hạng, gồm : 1 di tích cấp vương quốc đặc biệt quan trọng, 53 di tích cấp vương quốc ( 25 di tích lịch sử, 26 di tích kiến trúc thẩm mỹ và nghệ thuật, 2 di tích khảo cổ ) và 178 di tích cấp thành phố ( 35 di tích lịch sử, 43 di tích kiến trúc thẩm mỹ và nghệ thuật ) .

Bảng 2.1: Số lượng và mật độ di tích trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh
đến hết tháng 8/2011, phân theo đơn vị hành chính

STT Đơn vị Diện tích (km2)
Tổng số
di tích
Mật độ Di tích
(di tích /10km2)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Quận 1
Quận 2
Quận 3
Quận 4
Quận 5
Quận 6
Quận 7
Quận 8
Quận 9
Quận 10
Quận 11
Quận 12
Q. Gò Vấp
Q. Tân Bình
Q. Tân Phú
Q. Bình Thạnh
Q. Phú Nhuận
Q. Thủ Đức
Q. Bình Tân
H. Củ Chi
H. Hóc Môn
H. Bình Chánh
H. Nhà Bè
H. Cần Giờ
7,73
49,74
4,92
4,18
4,27
7,19
35,69
19,18
114,00
5,72
5,14
52,78
19,74
22,38
16,06
20,76
4,88
47,76
51,89
434,50
109,18
252,69
100,41
704,22
33
6
11
2
17
7
1

8
3
1
1
13
3
10
2
7
8

15
6
6
5
3
42,69
1,21
22,36
4,78
39,81
9,74
0,28

7,01
5,24
1,95
0,19
6,58
1,34
6,23
0,96
14,34
1,67

0,34
0,55
0,24
0,50
0,04
Toàn Thành phố 2.095,01 168 0,80

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM

Mật độ di tích trung bình tòan thành phố là 0,8 di tích/10km2. Tuy nhiên, số
lượng và mật độ di tích không đều trên toàn địa bàn Thành phố (Bảng 2.1). Có thể
chia thành bốn mức phân bố các di tích như sau:

– Mật độ dày ( trên 20 di tích / 10 km2 ) : gồm Q. 1, Q. 3 và Q. 5 – Mật độ khá dày ( từ 10 đến dưới 20 di tích / 10 km2 ) : Q. Phú Nhuận
– Mật độ trung bình ( từ 5 đến dưới 10 di tích / 10 km2 ) : gồm Q. 6, Q. Gò Vấp và Q. Tân Phú
– Mật độ thưa ( dưới 5 di tích / 10 km2 ) : gồm các Q., huyện còn lại

2.2.2.1. Di tích lịch sử

Di tích lịch sử ở TP. Hồ Chí Minh gồm những di tích lịch sử lưu niệm danh nhân, lưu niệm sự kiện lịch sử diễn ra ở Thành Phố Hồ Chí Minh trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ .
Bên cạnh những di tích mang ý nghĩa di tích lưu niệm danh nhân, di tích lưu niệm sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, là những khu vực – cơ sở cách mạng – nơi nuôi giấu các cán bộ hoạt động giải trí cách mạng, cơ sở ship hàng cho chỉ huy, chỉ huy, nơi tập trung lực lượng, vũ khí nơi diễn ra các trận đấu can đảm của quân dân ta với địch trong hai cuộc kháng chiến .
Trong các di tích lịch sử ở TP.Hồ Chí Minh, có nhiều di tích ghi dấu tội ác của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai đã giam giữ tra tấn dã man những người yêu nước, các chiến sỹ cách mạng không may bị chúng bắt .
 Dinh Độc Lập – di tích cấp gia đặc biệt quan trọng :
Tọa lạc tại số 135 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Nghé, Quận 1. Lúc đầu Dinh Độc Lập là cơ quan đầu não của chính quyền sở tại thực dân Pháp ở Nam Kỳ. Tòa nhà từng được gọi là Dinh Thống đốc Nam Kỳ hay còn gọi là Dinh Norodom, Dinh Toàn quyền Đông Dương, Phủ Cao ủy Đông Dương đã được chính chính quyền sở tại Ngô Đình Diệm tiếp quản năm 1955, từ đó chính thức được gọi là Dinh Độc Lập .
Dinh Độc Lập có khuôn viên rộng 12 ha, gồm 4 tầng chính, hai gác lửng, tầng trệt và hai đoạn tầng hầm dưới đất. Trên nóc Dinh Độc Lập có sân đậu trực thăng, phía dưới có mạng lưới hệ thống hầm vững chắc, được trang bị mạng lưới hệ thống điện đài và mạng lưới hệ thống để chỉ huy rất văn minh. Dinh Độc Lập là nơi ở và thao tác của Tổng thống Nước Ta Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu từ tháng 10/1967 đến 21/4/1975 .
Ngày 30/04/1975 khi xe tăng quân Giải phóng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, Tổng thống sau cuối của Nước Ta Cộng hòa là Dương Văn Minh phải công bố đầu hàng vô điều kiện kèm theo trước chính quyền sở tại cách mạng .
Tháng 11/1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc đã diễn ra tại Dinh Độc Lập .
Với những giá trị đặc biệt quan trọng, ngày 25/06/1976 Bộ Văn Hóa – tin tức đặc cách xếp hạng là di tích lịch sử vương quốc. Đến ngày 12/08/2009, di tích lịch sử – văn hóa Dinh Độc Lập được Thủ tướng nhà nước ký quyết định hành động xếp hạng là di tích vương quốc đặc biệt quan trọng .
Ngày nay, Dinh Độc Lập là một trong những địa chỉ tham quan trọng điểm của TP. Hồ Chí Minh, hàng ngày đón rước hàng nghìn lượt khách quốc tế và trong nước đến thăm quan. Ngoài ra, đây còn là nơi chỉ huy Đảng, Nhà nước, Quốc hội nghênh tiếp các nguyên thủ vương quốc với nghi lễ trang trọng, là nơi lý tưởng để tổ chức triển khai các sự kiện, các hội nghị, hội thảo chiến lược, chiêu đãi mang tầm quốc tế và vương quốc .
 Địa đạo Củ Chi :
Địa đạo Củ Chi sinh ra khoảng chừng từ những năm 1947 – 1948 trên địa phận hai xã Tân Phước Trung và Phước Vĩnh An. Địa đạo được xem là một kỳ tích “ làng ngầm ” có độ dài khoảng chừng 200 km .
Địa đạo nằm sâu trong lòng đất khoảng chừng 2 – 3 m, nhưng cũng có đoạn sâu 10 – 12 m. Nhìn theo mặt phẳng cắt dọc địa đạo có nhiều tầng, tầng trên gọi là thượng tầng dưới gọi là ” trầm ” chạy song song, nhưng nhiều nhất cũng chỉ có 3 tầng. Hệ thống địa đạo có “ đường xương sống ” ( địa đạo chính ), từ đó tỏa ra vô số nhánh ngang – dọc, có nhánh đổ ra bờ sông, bờ suối, ao hồ, hố bom … Dọc theo địa đạo có lỗ thông hơi để thông khí xuống hầm. Nối liền với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có hầm chưa vũ khí, lương thực, có giếng nước, nhà bếp Hoàng Cầm, hầm chỉ huy, hầm ngủ, hầm in ấn tài liệu, hầm giải phẫu, …. và có cả hầm lớn được ngụy trang khôn khéo để xem phim, văn nghệ …
Từ năm 1960 – 1975 Mỹ, Ngụy đã thực thi khoảng chừng 5000 vụ hành quân càn quét với tiềm năng bới tung địa đạo, nhưng dựa vào mạng lưới hệ thống đường hầm, công sự, chiến hao quân và dân Củ Chi đã chiến đấu vô cùng gan góc lập nên những chiến công thần kỳ .
Hiện nay khu di tích địa đạo Củ Chi có hai khu vực chính. Địa đạo Bến Dược gồm 13 khu công trình chính, trong đó đồ sộ nhất là đền tưởng niệm liệt sĩ, ngôi

đền liệt sĩ lớn nhất nước ta hiện nay khắc tên 50.000 liệt sĩ trên đá hoa cương. Và
khu vực thứ hai là địa đạo Bến Đình, trước đây là căn cứ huyện ủy huyện Củ Chi.

Khu di tích địa đạo Củ Chi được nhìn nhận là một khu công trình đánh giặc độc lạ của quân và dân huyện “ Củ Chi đất thép thành đồng ”. Khu di tích này được bộ Văn hóa – tin tức xếp hạng là di tich lịch sử vương quốc vào năm 1979 .
Di tích địa đạo Củ Chi đã lôi cuốn phần đông khách du lịch thăm quan trong nước và quốc tế, là nơi giáo dục truyền thống lịch sử yêu nước và cách mạng so với thế hệ trẻ, là niềm tự hào tự tôn của người Nước Ta và bạn hữu ưu thích tự do quốc tế .
 Căn cứ Rừng Sác :
Căn cứ Rừng Sác có diện tích quy hoạnh khoảng chừng 600 km2, là vùng rừng có đủ các loại cây ngập mặn. Tại đây, hàng trăm sông rạch chia Rừng Sác thành hàng trăm hòn đảo triều lớn nhỏ, lúc chìm, lúc nổi theo nước thủy triều. Sông rạch, cây rừng và hòn đảo triều tạo cho Rừng Sác thành một “ trận đồ bát quái ” nằm sát TP HCM. Trong đó quan trọng nhất là mạng lưới hệ thống sông Lòng Tàu nối Hồ Chí Minh với Biển Đông .
Từ năm 1934, địa thế căn cứ Rừng Sác đã có Chi bộ Đảng đứng chân và là nơi trú ẩn của các chiến sỹ Nam Kỳ. Năm 1945, đây là nơi diễn ra hội nghị Đa Phước để hợp nhất các lực lượng chiến đấu ở 3 mặt trận : Phía Nam, phía Tây và phía Đông thành bộ đội Đường Văn ( sau này thành bộ đội Mặt Trận Việt Minh ). Trong suốt chiều dài của đại chiến chống ngoại xâm, địa thế căn cứ Rừng Sác có trách nhiệm chính là án ngữ đường thủy chiến lược Lòng Tàu, hủy hoại các kho tàng, bến bãi rộng lớn của địch ( trong đó có thành Tuy Hạ ) và bảo vệ cho lực lượng tiếp tế của ta. Tại đây, đoàn đặc công Rừng Sác đã chiến đấu và thắng lợi hơn 1.000 trận đánh, tàn phá hàng trăm tàu, xuồng, phương tiện đi lại cuộc chiến tranh và loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn quân địch. Tại đây, 860 chiến sỹ đã dũng mãnh hi sinh .
Với những trận đánh “ Xuất quỷ, nhập thần ”, quân địch đã phải thừa nhận chúng đã gặp phải “ một cuộc cuộc chiến tranh lạ mắt ”. đặc khu Rừng Sác ngày này đã trở thành niềm tự hào của quân và dân miền Đông Nam Bộ. Năm 2004, địa thế căn cứ Rừng Sác đã được bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp vương quốc và trở thành điểm đến mê hoặc không chỉ với khách du lịch trong nước mà rất lôi cuốn hành khách quốc tế đến thăm quan và khám phá .
 Một số di tích và khu di tích lịch sử khác :

Đến nay, trên địa bàn Thành phố, ngoài các di tích quan trọng trên đây còn
có nhiều di tích khác có giá trị cũng đã được xếp hạng (Phụ lục 2).

– Chùa : đến năm 2011, cả Thành phố có 14 ngôi chùa được xếp hạng Di tích lịch sử cấp thành phố .

+ Chùa Thanh Sơn được thành lập vào khoảng đầu thế kỷ 19. Tọa lạc tại số
1111 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 9. Trong hai cuộc kháng chiến,
chùa này từng là cơ sở của huyện ủy Thủ Đức, là cơ sở nuôi giấu cán bộ chiến sĩ,
nơi hội họp của cán bộ, chiến sĩ, noi điều trị cho thương bệnh binh, nơi tập trung và
vận chuyển hàng tiếp tế ra các khu căn cứ.

Chùa được xếp hạng di tích lịch sử thành phố năm 2008 .

+ Chùa Xá Lợi còn được gọi là chùa Phật học Xá Lợi, là trụ sở trung ương
của Hội Phật học Việt Nam hoạt động từ năm 1951 đến năm 1981.

Chùa Xá Lợi tọa lạc tại địa chỉ số 89 đường Bà Huyện Thanh Quan, phường 7, Quận 3, với khuôn viên rộng hơn 2500 mét vuông, được phong cách thiết kế 2 tầng lầu độc lạ, mở màn cho kiểu kiến trúc phía trên là bái đường, bên dưới là giảng đường. Chùa Xá Lợi là khu vực ghi dấu những mốc lịch sử của tiến trình thống nhất Phật giáo Nước Ta, … đặc biệt quan trọng là những cuộc tranh đòi bình đẳng tôn giáo, chống chính sách tẩy chay tôn giáo, độc tài của Ngô Đình Diệm. Nổi bật trong trào lưu đấu tranh này là sự kiện ngày 11 tháng 6 năm 1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cầu nguyện cho đạo pháp vĩnh cửu và thức tỉnh chính quyền sở tại Ngô Đình Diệm. Các cuộc đấu tranh kinh khủng của tăng ni phật tử sau đó đã góp thêm phần dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền sở tại Ngô Đình Diệm .
Ngày nay, chùa Xá Lợi không chỉ là một di tích lịch sử đơn thuần mà là nơi lưu giữ những di sản giá trị như tháp bằng vàng đựng Xá Lợi Phật tổ được làm cách nay hơn một nghìn năm, thư viện của chùa lưu giữ khoảng chừng 5500 đầu sách văn hóa, triết học xã hội, tôn giáo cùng những trang tầm cỡ Phật giáo. Chùa Xá Lợi không chỉ là nơi nghiên cứu và điều tra về phật pháp mà còn là niềm tự hào về truyền thống cuội nguồn lịch sử của phật giáo Nước Ta .

Cũng được xếp hạng là di tích lịch sử cấp thành phố, 12 ngôi chùa còn lại
vừa là nơi tôn nghiêm, thanh tịnh của xứ Phật, vừa là nơi từng diễn ra những sự
kiện gắn liền với hai cuộc kháng chiến của dân tộc (Phụ lục 2)

– Đình :

+ Đình Phong Phú có khu đất rộng 4,2 ha, tọa lạc trên đường Đình Phong
Phú, Khu Phố 3, Phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9, được xếp hạng di tích lịch sử
cấp quốc gia năm 1993. Đình này gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của nhân
dân làng Phong Phú và Sài Gòn – Gia Định trong hai cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đây là trụ sở liên lạc tập kết của cán
bộ cách mạng quận Thủ Đức.

+ Đình Bình Đông tọa lạc tại Cù Lao rạch Bà Tàng, phường 7, quận 8, được
xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1997. Đây là một ngôi đình cổ, nơi nhân
dân thể hiện niềm tin, tín ngưỡng và cũng là nơi mang ý nghĩa quan trọng liên quan
đến những hoạt động của Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Sài Gòn. Đồng thời đây cũng
là nơi cất giấu các tài liệu của Nguyễn Ái Quốc sau khi các thủy thủ chuyển từ nước
ngoài về một cách bí mật và an toàn.

Ngoài ra, các đình An Phú, đình Cầu Sơn, đình Cây Sộp, đình Dương Văn Thạnh, đình Thanh Phú, đình Hòa Thạnh, đình Phú Thạnh, đình Tân Túc, đình Hòa Tây cũng được xếp hạng di tích lịch sử cấp TP. Đa số các đình đều là cơ sở cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế Quốc Mỹ. Là những nơi ghi dấu hoạt động giải trí cách mạng của nhân dân các địa phương. Và ngày này, đó là những nơi thờ cúng tâm linh, nơi diễn ra các liên hoan của Thành phố .

Đền thờ ông Phan Công Hớn:

Phan Công Hớn ( Phan Văn Hớn ) sinh năm 1829, là người cùng Nguyễn Văn Quá tổ chức triển khai các hoạt động giải trí trong trào lưu chống thực dân Pháp ở vùng Hóc Môn và Đức Hòa. Nổi bật nhất là sự kiện khởi nghĩa đêm 8 tháng 2 năm 1885, ông tổ chức triển khai cho nghĩa quân đốt dinh Q. Bình Long, giết Đốc Phủ Ca, nhưng thất bại. Đến nay, người dân Hóc Môn còn truyền dụng câu ca dao ghi lại sự kiện do ông chỉ huy .

Có đầu đốc phủ đem bêu cột đèn”

Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng khí phách và sự hy sinh của ông là tấm
gương về tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường chống quân xâm lược và bè lũ tay
sai bán nước, xứng đáng để thế hệ sau noi theo.

Nhân dân đã lập đền thờ ông tại ấp Tây Bắc Lân, xã Bà Điểm, Huyện Hóc Môn. Đền thờ được xếp hạng di tích lịch sử cấp Thành phố năm 2003 .

Miếu Cây Quéo nằm ở khu phố 2, phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, được
xây dựng cách nay khoảng 100 năm. Miếu thờ Bà Chúa Xứ và Ngũ Hành Nương
Nương. Miếu được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Thành phố năm 2006.

Miếu là cơ sở tín ngưỡng dân gian, là nơi gắn liền với những sự kiện cách mạng của chi bộ Đảng và quần chúng nhân dân, là khu vực của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, nơi tổ chức triển khai các lớp học quốc ngữ .

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh