TMT – QLNT

CHUYÊN ĐỀ

DẠY HỌC TOÁN LỚP 1 THEO ĐỊNH HƯỚNG

 PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC

         A. Đặt vấn đề

       Xã hội ngày càng phát triển thì việc hình thành các kỹ năng, năng lực để đáp ứng những yêu cầu phát trển đó càng trở nên quan trọng và cần thiết, nó trở thành một trong những vấn đề đáng quan tâm của toàn xã hội nói chung và trong hệ thống giáo dục nước nhà nói riêng.Trong định hướng đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2018 đã nêu rõ: một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình theo định hướng năng lực.Theo Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn điện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Đối với GDPT, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.

        Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân, nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng kết hợp nhiều yếu tố (phẩm chất, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực có các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải có đó là các năng lực chung cốt lõi. Năng lực cốt lõi bao gồm những năng lực cơ bản: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp,  năng lực tính toán, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.

         Chương trình môn Toán Tiểu học hình thành, phát triển ở học sinh năng lực toán học với các thành tố: tư duy và lập luận toán học; mô hình hoá toán học; giải quyết vấn đề toán học; giao tiếp toán học; sử dụng công cụ, phương tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã quy định trong Chương trình tổng thể; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp, rèn luyện nhân cách để trở thành người lao động và người công dân có trách nhiệm.Cùng với tất cả các môn học khác trong chiến lược phát triển toàn diện, có thể nói Toán học đóng một vai trò hết sức quan trọng, nó rèn luyện cho các em không chỉ đơn thuần là tính toán mà điều chủ yếu là năng lực tư duyvà bồi dưỡng phương pháp suy luận cho HS.

       Trên cơ sở đó tổ CM lớp 1 thực hiện chuyên đề “Dạy học Toán lớp 1 theo định hướng phát triển năng lực” nhằm tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng

với sự phát triển của xã hội, của thời đại và đặc biệt là của ngành Giáo dục.

      B. NỘI DUNG

  1. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.

      -Trong quá trình dạy học, GV là chủ thể tổ chức, điều khiển và HS là chủ thể hoạt động học tích cực chủ động và sáng tạo. GV phải cải tiến không ngừng PPDH và giúp HS cải tiến PP học thông qua các hoạt động: Khám phá, thực hành, vận dụng.

    – Không có PPDH nào là vạn năng; mỗi phương pháp đều có giá trị riêng của nó. Tính hiệu quả hay không hiệu quả của phương pháp phụ thuộc vào người dạy. Nếu GV biết cách kết hợp và bổ sung các PPDH cho nhau thì sẽ tránh sự nhàm chán và tạo sự năng động trong cách nghĩ, cách làm của HS.

     – Trong dạy toán, ngoài mục tiêu chủ yếu là bồi dưỡng năng lực tính toán, người GV còn phải chú ý đến việc phát triển năng lực tư duy và bồi dưỡng phương pháp suy luận cho HS.

    – Phải tổ chức cho học sinh hoạt động (với đồ vật thật, mô hình, kí hiệu toán học,…).   Cần tạo hứng thú học toán cho học sinh bằng việc tổ chức các trò chơi học tập, xây dựng các tình huống kích thích, cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập.

     – Cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo, trên cơ sở tạo dựng các tình huống có vấn đề, trong đó học sinh dựa trên vốn hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có, được tham gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức.

     – Việc dạy học phải gắn với các tình huống thực mà học sinh được trải nghiệm.

    2. Những điểm mới của chương trình môn Toán 1 theo chương trình GDPT 2018.

   Thứ nhất, về thời lượng

   Chương trình môn Toán lớp 1 mới giảm 01 tiết/tuần (cả năm giảm 35 tiết)

  Thứ hai, về nội dung:

   Chương trình môn Toán lớp 1 hiện hành được cấu trúc thành 4 mạch kiến thức:

  – Số học

 – Đại lượng và đo đại lượng

 – Yếu tố hình học

– Giải bài toán có lời văn.

* Chương trình môn Toán lớp 1 mới được cấu trúc thành 2 mạch kiến thức:

– Số và phép tính

– Hình học và Đo lường.

Chương trình môn Toán lớp 1 mới không có riêng mạch kiến thức “Giải bài toán có lời văn”, nhưng nội dung này được đề cập đến trong phần thực hành giải quyết vấn đề ở tất cả các mạch kiến thức.

* Trong nội dung Hình học của chương trình môn Toán lớp 1 mới có đề cập đến yêu cầu: Nhận biết được vị trí, định hướng trong không gian như: trên – dưới, phải – trái, trước – sau, ở giữa. Nội dung này không có trong chương trình môn Toán lớp 1 hiện hành. Ngoài ra, so với chương trình hiện hành, nội dung hình học không gian đã được đưa vào sớm hơn, ngay từ lớp 1.

Đặc biệt, trong chương trình môn Toán lớp 1 mới, có riêng phần Hoạt động thực hành và trải nghiệm. Trong phần này, gồm các hoạt động nhằm giúp học sinh vận dụng những tri thức, kiến thức, kĩ năng, thái độ đã được học trong môn toán và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo; phát triển cho học sinh năng lực tổ chức và quản lí hoạt động, năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp; tạo dựng một số năng lực cơ bản cho người lao động tương lai.

Bốn đặc trưng cơ bản dạy học theo định hướng phát triển năng lực :

      – Một là, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn…

     – Hai là, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới… Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, quy lạ về quen… để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của mỗi HS

     – Ba là, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở thành môi trường giao tiếp GV – HS và HS – HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.

     – Bốn là, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo yêu cầu cần đạt của chương trình trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót( tạo điều kiện để học sinh tự bộc lộ, tự thể hiện, tự đánh giá).

   – Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cựchóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.

  – Những định hướng chung, tổng quát về đổi mới phương pháp dạy học các môn học thuộc chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là:

     – Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát

triển năng lực tự học trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng

tạo của tư duy.

     – Có thể lựa chọn một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc: “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.

     – Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với hình thức dạy học. Tùy theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; trong lớp học, ngoài lớp học… Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho người học.

    – Cần sử dụng đủ, hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiếu đã quy định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học.

        * Các năng lực mà môn học Toán hướng đến:
Năng lực chung

+ Năng lực tự chủ, tự học.

+ Năng lực giao tiếp hợp tác.
+ Năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo.
Năng lực đặc thù

+ Năng lực sử dụng công cụ, phương tiện toán học

+ Năng lực mô hình hóa toán học.
+ Năng lực giải quyết vấn đề toán học.

+ Năng lực tư duy và lập luận toán học

+ Năng lực giai tiếp toán học.

* Những yêu cầu cần có trong một tiết học:

+ Phát huy tối đa các năng lực trong giờ học cho học sinh

+ Tạo không khí hào hứng, thoải  mái, tự nhiên cho học sinh trong giờ học.

+ Phát hiện năng lực chuyên biệt của học sinh

+ Phát triển năng lực, phẩm chất học sinh thông qua phương pháp thảo luận nhóm

+ Phát triển năng lực, phẩm chất học sinh thông qua phương pháp tổ chức trò chơi.

         3. Một số giải pháp thực hiện

       3.1.Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực của học sinh

       Phương pháp dạy học tích cực: PPDHTC là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV sử dụng một nhóm PP giáo dục và dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học đồng thời chống lại thói quen học tập thụ động của người học.

        Các dấu hiệu tích cực trong học toán gồm:

 – HS hăng hái phát biểu ý kiến.

– Không bằng lòng lời giải của cô và của bạn.

– Không  bằng lòng với một cách giải quyết duy nhất.

– Thường hay thắc mắc, đặt ra câu hỏi và đòi hỏi được giải đáp, hay chia sẻ suy nghĩ với bạn.

– Thường hay ngơ ngác trên lớp và suy nghĩ về vấn đề liên quan.

– HS còn tự giác, chủ động làm bài – tự học, trao đổi nhận xét bài cho bạn – hợp tác.

         3.1.1. Phương pháp trực quan

        Là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người giáo viên làm cho HS năm được tri thức kĩ năng của môn toán dựa trên các hoạt động quan sát trực tiếp của trẻ đối với các hiện tượng, các sự vật cụ thể có ở đời sống xung quanh trẻ. Khi sử dụng phương pháp trực quan cần lưu ý đồ dùng trực quan phải đẹp, thu hút được sự chú ý và hứng thú của HS. Đồ dùng trực quan phải phong phú đa dạng.

        a) Cách sử dụng

– Phải có mức độ không được lạm dụng, khi trẻ đã hiểu vấn đề thì không dùng trực quan nữa mà cần nêu được bản chất toán học của tri thức cần dạy.

       b) Ví dụ

    Dạy số 3 là đưa ba bông hoa liền một lúc, không được đưa ra từng bông một.

– Khi dạy hình thành phép cộng cho học sinh lớp 1 các vật dụng phải là các vật di chuyển được như con gà, con thỏ. ….. vì phép cộng là phép hợp của 2 vật di chuyển được lại với nhau.

– Không sử dụng các đồ vật vô tri vô giác như bông hoa, cái kẹo, cái ô…..

– Tăng cường đưa trẻ vào quan sát thực tiễn.

– Cho trẻ tham gia vào thao tác đồ dùng trực quan

      3.1.2. Phương pháp gợi mở – vấn đáp

      a) Định nghĩa

Phương pháp gợi mở vấn đáp là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người giáo viên không đưa ra kiến thức trực tiếp mà giáo viên dùng hệ thống câu hỏi cho HS suy nghĩ trả lời từng câu.

      b) Lưu ý khi sử dụng phương pháp này

– Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác.

– Câu hỏi không được quá dễ hay quá khó.

– Câu hỏi phải làm cho HS suy nghĩ. Cấm đưa ra những câu hỏi mà học sinh chỉ phải trả lời ở dạng: Có, không, đúng, sai.

      c) Ví dụ : 6 + 4 = a

  Hỏi có bao nhiêu bạn kết quả a ?

  Bao nhiêu kết quả b ?

  – Làm cho trẻ hiểu được điều sai để nhận ra đúng.

– Không nên kết luận quá sớm.

– Cho trẻ giải thích kết quả của mình.

– Ứng xử cho phù hợp không áp đặt.

      d) Cách hỏi

 – GV đưa ra câu hỏi trước để HS suy nghĩ rồi mới yêu cầu cách trả lời.

 – Khi hỏi không nên để HS trả lời đồng thanh, nói leo hoặc “vuốt đuôi”.

– Khi HS trả lời GV cần chú ý lắng nghe đẻ sửa chữa sai lầm về mặt ngôn ngữ hoặc về mặt toán.

– Cần khuyến khích HS tự sửa chữa sai lầm của mình với của bạn.

– Cấm: mắng mỏ, mạt sát, chỉ trích, chửi bới chê bai khi HS trả lời sai.

         3.1.3. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề

        a) Định nghĩa: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV tạo ra các tình huống có vấn đề, rồi điều khiển học sinh tự phát hiện vấn đề hoạt động tự giác và tích cực để giải quyết vấn đề thông qua đó đạt được mục tiêu học.

         b) Thế nào là một vấn đề đối với người học

– Người học chưa thể thực hiện được yêu cầu đặt ra

 – Người học chưa được học một qui tắc có tính chất thuật giải để giải đáp câu hỏi hoặc để thực hiện yêu cầu đặt ra.

        c) Thế nào là một tình huống có vấn đề

   – Tồn tại một vấn đề theo nghĩa trên.

   – Tình huống phải gửi nhu cầu nhận thức.

   – Phải tạo được niềm tin ở khả năng người học

       d) Các bước tiến hành

 – Bước 1: GV nêu vấn đề, thường là đưa ra tình huống có vấn đề để học sinh trực tiếp chỉ ra vấn đề hoặc là HS sau khi tìm hiểu sẽ tự tìm ra vấn đề.

 – Bước 2: GV hướng dẫn HS tìm các chiến lược để giải quyết vấn đề.

– Bước 3: GV theo dõi và giúp đỡ HS.

– Bước 4: Hướng dẫn HS cách trình bày giải quyết vấn đề.

– Trình bày khả năng ngôn ngữ  và khả năng toán học được hình thành

      3.1.4. Phương pháp luyện tập thực hành

      Định nghĩa: Là phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV tổ chức cho HS giải quyết các nhiệm vụ hay các bài tập để tự HS khắc sâu kiến thức đã học hoặc phát triển kiến thức đó trở thành kiến thức mới hoặc vận dụng kiến thức đó làm tính giải toán và áp dụng thực tế.

– Lưu ý: ¾ tổng số tiết toán là luyện tập thực hành.

– Phải có sự chuẩn bị tốt cho việc luyện tập thực hành.

– Tôn trọng tính độc lập của trẻ em, để cho trẻ suy nghĩ tìm ra biện pháp thực hành.

     3. 1.5. Phương pháp giảng giải – minh hoạ: PPGGMH là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV dùng lời nói để giải thích tài liệu toán có kết hợp với phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.

– Chú ý: Bất đắc dĩ mới dùng phương pháp này

– Khi dùng phương pháp này không giảng giải quá 5 phút

      4. Đổi mới đồng bộ PPDH và ĐGHS trong dạy học Toán ở Tiểu học

      Để “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học”, “bồi dưỡng PP tự học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy độc lập”, có thể góp phần “phát triển toàn diện NL và PC” của HS tiểu học, định hướng dạy học toán ở tiểu học cần vận dụng một cách đa dạng các hình thức tổ chức với các phương pháp dạy học; chú trọng thực hành, ứng dụng, gắn kết kiến thức toán học với thực tế cuộc sống hằng ngày của các em, với các môn học khác và các hoạt động giáo dục trong hay ngoài nhà trường; chú trọng tổ chức hoạt động tự học (cá nhân, cặp, nhóm, cả lớp, ở nhà…) cho HS (với sự hướng dẫn, giám sát, đánh giá của GV, cha mẹ HS); GV cần đặc biệt chú ý, quan tâm đến việc dạy học phù hợp từng đối tượng HS; kết hợp việc giúp các em tự lĩnh hội được kiến thức toán học (thông qua hoạt động học) với việc hình thành, phát triển NL, PC của HS. GV cần chuyển quá trình thuyết giảng thành quá trình tổ chức hoạt động học cho HS, có thể thông qua các hoạt động: Gợi động cơ, tạo hứng thú; Trải nghiệm, khám phá; Phân tích, rút ra bài học; Thực hành;  Ứng dụng. Qua quá trình thực hiện các hoạt động học toán (cá nhân, cặp, nhóm, cả lớp, ở nhà…), ngoài việc HS hình thành và phát triển NL tư duy, năng lực tính toán thì HS cũng có thể phát triển một số NLPC như tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề.

        4.1. Đổi mới trong việc lập kế hoạch dạy học Toán

     Giáo viên thiết kế Kế hoạch dạy học (KHDH) Toán theo tinh thần đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học với tinh thần “dạy học là tổ chức cho học sinh hoạt động để tự tiếp thu kiến thức và phát triển năng lực”. Cải tiến cách thiết kế KHDH đảm bảo yêu cầu tinh giản, vững chắc các kiến thức, các hoạt động cơ bản của tiết dạy, đảm bảo cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ  năng phù hợp với trình độ học sinh, nhất là  đối với học sinh là dân tộc thiểu số. Mục tiêu cần đạt cho từng đối tượng học sinh của lớp, những việc giáo viên cần phải làm, những yêu cầu cụ thể dành cho các nhóm học sinh khác nhau và phát triển năng lực học sinh theo yêu cầu.

       Để đổi mới phương pháp dạy học Toán theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo định hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học cần thực hiện như sau:

      – Trước hết Giáo viên phải dành thời gian đọc, nghiên cứu kĩ chương trình tổng thể và chương trình môn học, trong đó yêu cầu phải nắm vững mục tiêu môn Toán và các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh. Nắm vững mục tiêu của môn toán trong cả cấp học trước khi xác định mục tiêu bài học. Điều này giúp giáo viên nhận biết khả năng tư duy của trẻ, nhận biết khiếm khuyết ở một phần nào của nội dung để có biện pháp phù hợp.

      – Theo nội dung sách giáo khoa, xác định mục tiêu cụ thể cho từng bài.

      – Từ mục tiêu và nội dung sách giáo khoa thiết kế các hoạt động dạy học, mỗi hoạt động dạy học phải xác định được đạt mục tiêu, phát triển năng lực nào cho học sinh, mỗi hoạt động dạy học giáo viên phải thiết kế và lựa chọn sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học nào cho phù hợp, trong mỗi phương pháp ấy giáo viên sử dụng kỹ thuật, hình thức đánh giá nhận xét như thế nào nhằm phát triển năng lực học sinh.

           4.1.1. Chuẩn bị cho việc lập kế hoạch dạy học

        – Kế hoạch dạy học không có kiểu giáo án mẫu như trước đây dùng chung cho mọi giáo viên.

       – Giáo viên thật sự tâm huyết, cầu tiến, đổi mới trong Kế hoạch DH môn học từng bài nên có một phần ghi những kinh nghiệm thành công, những nội dung cần điều chỉnh sau khi dạy hoc cũng như ghi các nhận xét với những học sinh nhằm làm cơ sở cho việc nhận xét đánh giá thường xuyên theo Thông tư 27.

       – Nói chung, kế hoạch dạy- học toán ghi lại cách tổ chức, hướng dẫn cho HS học trong một tiết dạy cụ thể, không phải là bài soạn nội dung để truyền thụ đến HS.

        4.1.2. Kế hoạch dạy học cần chỉ rõ vai trò, mối tương tác giữa các chủ thể (Giáo viên – Học sinh) trong tiết dạy.

         Vậy Kế hoạch dạy-học cần thể hiện điều gì?

         Thể hiện rõ mục tiêu bài dạy:

– Kiến thức cơ bản

– Kĩ năng cơ bản.

– Yêu cầu giáo dục phát triển.

– Các Phẩm chất, năng lực được hình thành và phát triển.

– Về cơ bản, nội dung, chương trình, mục tiêu dạy học có yêu cầu đáp ứng 2 nhiệm vụ: Phổ cập cho các đối tượng học sinh trong lóp và phát triển cho các HS cao hơn.

– Mục tiêu bài dạy thể hiện rõ tính phù hợp cho nhiều đối tượng.

        4.1.3. Quá trình tổ chức dạy- học

  Bao gồm: Mỗi quy trình cần thể hiện:

 – Phương pháp đặc trưng, trọng tâm – phương pháp phối hợp.

+ Các hoạt động chủ yếu của Thầy và Trò (hình thức hoạt động, giải quyết nhiệm vụ nào? Yêu cầu của mỗi nhiệm vụ là gì? Hệ thống các lệnh hướng dẫn của Thầy và hoạt động đáp ứng của Trò …)

+ Lưu ý: Các hình thức tổ chức hoạt động (Nhóm 2, nhóm 4, ……, các trò chơi học tập, …) đều trập trung vào phương pháp chủ yếu, đặc trưng.

           VD: Giáo viên có thể cho nhóm 4 học sinh cùng tham gia hoạt động (hợp tác) để thực hiện việc xác định một nội dung học tập nào đó bằng phương pháp quan sát, so sánh, phân tích, quy nạp, … thông qua các lệnh điều khiển hoạt động cho học sinh để hướng dẫn học sinh phương pháp tiếp cận vấn đề, phương pháp học tập (phương pháp khác hình thức hoạt động ).

+ Thể hiện sự hoạt động đồng bộ giữa Thầy với Trò, sự tương ứng giữa các hoạt động, sự hợp tác làm việc; sự theo dõi – kiểm soát; tư vấn thúc đẩy các hoạt động của cá nhân, nhóm, của cả lớp.

       4.2. Cấu trúc kế hoạch dạy – học Toán

       Hoạt động 1: Khởi động, kết nối

 – Tổ chức, thiết lập môi trường làm việc, quan trọng là chuẩn bị tâm thế, tư thế cho học sinh bắt đầu học toán.

– Tổ chức kiểm tra, có thể tái hiện kiến thức cũ đã học hoặc lồng ghép tùy giáo viên; đánh giá nhiệm vụ học tập (tổng quát, toàn diện, không chỉ thiên về kiến

thức, kĩ năng cơ bản).

– Tổ chức kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.

– Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học, bảng lớp, giới thiệu bài học mới.

         Hoạt động 2: Khám phá

 – Giúp học sinh khám phá nội dung kiến thức mới và cơ bản.

 – Ở hoạt động này, giáo viên lên kế hoạch đầy đủ (bao gồm: tiến trình các bước dạy, phương pháp chủ yếu, hoạt động của Thầy và Trò, sử dụng các phương tiện, công cụ dạy học; hệ thống lệnh điều hành các hoạt động, … )

       Hoạt động 3: Hoạt động luyện tập cơ bản

– Mục đích chủ yếu là tạo sự nối kết giữa kiến thức vừa khám phá với luyện tập đơn giản.

– Ở hoạt động này, giáo viên chỉ cần nêu các lệnh điều hành:

+ Nêu nhiệm vụ tổng quát

+ Yêu cầu cần thực hiện.

 VD:

 + Nhiệm vụ tổng quát: thực hiện bài tập số …… trang ……

 + Yêu cầu:

 * Hình thức hoạt động: Hoạt động theo nhóm … (2, 3, 4, …)

 – Tìm hiểu đề bài, những đặc điểm cơ bản của đề bài và tìm phương pháp giải.

 * Hình thức hoạt động: nhóm 2:

– Trao đổi cách làm, kết quả, đánh giá kết quả lẫn nhau.

– Báo cáo, thông tin lại kết quả làm việc của nhóm (kết quả, các sai sót, nguyên nhân, cách giải quyết).

         Hoạt động 4: Hoạt động luyện tập thực hành

– Mục đích chủ yếu là giúp HS vận dụng kiến thức, kĩ năng đã nắm bắt ở hoạt động 2, 3 vào những nội dung luyện tập, những tình huống khác nhau ở mức độ cao hơn.

– Ở hoạt động này, giáo viên cũng chỉ nêu các lệnh điều hành như ở hoạt động 3.

        Nhưng có dự kiến thêm về số lượng bài thực hành cho các đối tượng khác nhau (theo mục tiêu hoàn thành khác nhau).

        Hoạt động nối tiếp sau tiết học ( nếu có )

      – Mục đích chủ yếu: Tạo cơ hội cho các em gắn các nội dung đã học vào hoạt động thực tiễn, thích ứng và tự lực hoặc tự xây dựng kế hoạch hợp tác (với anh chị, cha mẹ hoặc bạn bè hoặc với những điều kiện khác nhau, …)

      – Ở hoạt động này GV nên có bảng hướng dẫn thực hiện công việc:

VD: Tìm hiểu vấn đề này ở từ điển (tên, nhà xuất bản), hoặc tìm hiểu vấn đề này thêm ở tạp chí, tập san, chuyên san … ở thư viện, tiệm sách; hoặc ở website ……; hoặc sưu tầm các mẫu vật có ở vườn nhà, …… nên ghi chép những nội dung quan sát được; nên nhờ sự cộng tác của anh chị, người thân, bạn bè, ……

       Mỗi hoạt động đều nên có lưu ý về tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm, củng cố, nêu giải pháp khắc phục.

      Để góp phần “phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất” của HS Tiểu học, trong quá trình dạy học Toán, GV cần phải tổ chức cho HS hoạt động học (theo cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp) cùng với hoạt động tự nhận xét và nhận xét sảnphẩm của bạn hay nhóm bạn, qua đó HS có thể tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức, rèn kĩ năng cần thiết.Khi HS thực hiện hoạt động học thì GV thực hiện các hoạt động ĐG (quan sát, tư vấn, hướng dẫn HS, nhận xét…). Để có thể tổ chức cho HS hoạt động học được hiệu quả, GV cần phải xác định rõ mục tiêu hay yêu cầu cần đạt và nội dung bài học, từ đó thiết kế thành các hoạt động học và hoạt động ĐG (nhận xét, tự nhận xét…) để HS thực hiện. GV tổ chức hoạt động dạy học Toán cùng với hoạt động ĐG để góp phần hình thành, phát triển năng lực phẩm chất HS. Trong quá trình tổ chức hoạt động học Toán và ĐGHS trong giờ học Toán, để thực hiện yêu cầu “vì sự tiến bộ của HS”, GV phải được chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong toàn bộ giờ học nói riêng và quá trình giảng dạy nói chung. Với trách nhiệm của mình, cùng với năng lực sẵn có và sự tâm huyết nghề nghiệp, yêu thương HS, việc đổi mới đồng bộ PPDH và ĐGHS trong DH môn Toán ở tiểu học sẽ giúp HS tiến bộ trong học tập môn Toán, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học./.

                                              Hoàng Diệu , ngày 08 tháng 4  năm 2022

                                           Người báo cáo lý thuyết: Cô giáo Đoàn Thị Lánh