Chùa Dâu – Wikipedia tiếng Việt

Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Thiền Định tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại.[1]. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.

Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ : chùa Dâu thờ Pháp Vân ( 法雲寺, ” thần mây ” ), chùa Đậu thờ Pháp Vũ ( 法雨寺, ” thần mưa ” ), chùa Tướng thờ Pháp Lôi ( 法雷寺, ” thần sấm ” ), chùa Dàn thờ Pháp Điện ( 法電寺 ” thần chớp ” ) và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp .Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị hủy hoại trong cuộc chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu .

Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng này ở cả vùng Dâu lẫn cả nước.

Chùa được kiến thiết xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ tiên phong đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khai công kiến thiết xây dựng năm 187 và triển khai xong năm 226, là ngôi chùa truyền kiếp nhất và gắn liền với lịch sử dân tộc văn hóa truyền thống, Phật giáo Việt Nam, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử lịch sử vẻ vang ngày 28 tháng 4 năm 1962. [ 1 ]Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km .Chùa được thiết kế xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua những thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về thiết kế lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. [ 1 ] Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê .

Truyền thuyết / Sự tích[sửa|sửa mã nguồn]

Truyền thuyết Mạc Đinh Chi[sửa|sửa mã nguồn]

Mạc Đinh Chi là người hết lòng yêu thương mẹ nhưng mẹ ông bị bắt giam. Khi những quan phủ nhu yếu xây một ngôi chùa tháp chín tầng, cầu chín nhịp, chùa trăm gian, ông đã làm ngay bằng vàng mã. Cuối cùng mẹ ông được thả, ăn mừng ông đã kiến thiết xây dựng chùa như nay .

Truyền thuyết Man Nương[sửa|sửa mã nguồn]

Man Nương hay nàng Mèn là một người con gái rất sùng đạo, năm 10 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, nay là huyện Tiên Du, tỉnh TP Bắc Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng tiên phong sang Việt Nam truyền đạo tại đây .Một hôm, thiền sư đi vắng và dặn Man Nương trông coi chùa cẩn trọng. Tối đến Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La về và bước qua người, sau đó bà thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật, không phải lo phiền .Hai mươi tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con gái vào ngày 8 tháng Tư ( âm lịch ), đem đến chùa trả lại Thiền sư. Ông dùng cây tầm xích ( gậy tích trượng ) gõ vào cây Dung Thụ ( dâu ) ở cạnh chùa ; cây dâu tách ra, thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép vào. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại xanh tươi và chúng sinh thoát nạn hạn hán .Tiếp đó có trận mưa to, cây dâu bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức ( sông Dâu ) rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho quân lính vớt lên để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi. Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào và bảo ” Có phải con mẹ thì đi lên theo mẹ ” lập tức kéo cây lên thuận tiện. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Bốn bức tượng phật đó được đặt ở bốn ngôi chùa khác nhau ở trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng. Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật ( Phật đá tỏa sáng ) .
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được kiến thiết xây dựng theo kiểu ” nội công ngoại bang “. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính : tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương ; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng những vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu ( Pháp Vân ), Bà Đậu ( Pháp Vũ ), và những hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính .Một trong những ấn tượng khó hoàn toàn có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có khuôn mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê nhà Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp .Do chùa Đậu ( TP Bắc Ninh ) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên tượng Bà Đậu ( Pháp Vũ ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao quý. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18 .Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, hoàn toàn có thể có niên đại thế kỷ 14 .Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn rất lâu rồi, được nung bằng tay thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng chừng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ ” Hòa Phong tháp “. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán .Có câu thơ lưu truyền dân gian : .

Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.

Ngày hội chùa Dâu được tổ chức triển khai rất trang trọng và quy mô, tuyến hành hương về nơi đất Phật còn lan rộng ra tới chùa Phúc Nghiêm – chùa Tổ – nơi thờ Phật Mẫu Man Nương .

Các cao tăng tương quan[sửa|sửa mã nguồn]

  • Tỳ Ni Đa Lưu Chi
  • Chi Cương Lương
  • Khương Tăng Hội
  • Pháp Hiền
  • Thiền Sư Sùng Phạm 1004 – 1087
  • Sư Tính Mộ (1706 – 1775)
  • Sư Tuyên Chiếu ? 1793?

Lễ hội chùa Dâu diễn ra vào ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm và là liên hoan gắn liền với Phật giáo. Ngoài ra trong tiệc tùng còn có nhiều nghi thức và những game show dân gian .

Chú ý : hãy nháy chuột vào những ảnh để xem ảnh cỡ lớn và rõ trong Wikimedia commons .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]