Arsenal W.F.C. – Wikipedia tiếng Việt

Bài này viết về câu lạc bộ nữ. Đối với câu lạc bộ nam, xem Arsenal F.C. Đối với những định nghĩa khác, xem Arsenal ( khuynh hướng )

Arsenal Women Football Club (tên cũ Arsenal Ladies Football Club) là một câu lạc bộ bóng đá nữ Anh được thành lập vào năm 1987 trực thuộc Arsenal.[1] Họ là câu lạc bộ thành công nhất trong lịch sử bóng đá nữ Anh, giành nhiều danh hiệu nhất trong các giải đấu quốc nội mà họ đã thi đấu, trong đó có 3 chức vô địch FA WSL, 12 FA Women’s Premier League, 14 Cúp FA, 10 Women’s Premier League Cup, 5 FA WSL Cup. Họ cũng là đội bóng Anh duy nhất từng vô địch UEFA Women’s Champions League.

1987 – 2009 : Thành lập và những thành công xuất sắc bắt đầu[sửa|sửa mã nguồn]

Arsenal Ladies F.C. được Vic Akers,[2] huấn luyện viên lo trang phục thi đấu của đội nam Arsenal thành lập với tên gọi là Arsenal Ladies Football Club, đồng thời là huấn luyện viên của đội tới năm 2009. Họ giành danh hiệu lớn đầu tiên, Cúp Liên đoàn nữ vào mùa giải 1991–92. Vào năm 1992 họ giành quyền lên chơi tại FA Women’s Premier League và vô địch ngay trong mùa giải đầu tiên. Tính tới 2010, họ đã giành 12 trong số 17 chức vô địch Premier League (trước khi lên chơi tại FA WSL vào năm 2011),[3] trong đó có kỷ lục 7 mùa liên tiếp vô địch từ 2004 đến 2010.[4]

Tính tới năm 2011, Arsenal Ladies đã có 11 Cúp FA nữ và 10 Cúp Liên đoàn nữ,[3] trong đó có 8 cú đúp Cúp quốc gia và Giải vô địch quóc gia vào các mùa giải 1992–93, 1994–95, 2000–01, 2003–04, 2005–06, 2006–07, 2007–08 và 2008–09, cùng bốn cú ăn ba quốc nội vào các năm 1992–93, 2000–01, 2006–07 và 2008–09. Arsenal cũng đại diện cho nước Anh tại bảy kỳ UEFA Women’s Cup và vào bán kết hai lần (2002–03 và 2004–05) trước khi giải đấu đổi tên.

Mùa 2006 – 07 là mùa giải thành công xuất sắc nhất của đội khi không chỉ giành ba thương hiệu trong nước mà cả UEFA Women’s Cup 2006 – 07, vượt mặt Umeå IK tại chung kết với tổng tỉ số 1 – 0, trở thành câu lạc bộ Anh tiên phong giành cúp châu Âu. Cùng với đó là Siêu cúp nữ Anh và Giải bóng đá Liên đoàn Hạt Luân Đôn. Với những thành tích trên họ đã giành thắng lợi trên mọi đấu trường họ tham gia và lập kỳ tích ăn sáu vô tiền khoáng hậu. [ 5 ] Arsenal Ladies cũng thắng cả 22 trận tại Premier League mùa giải này, ghi 119 bàn và chỉ lọt lưới 10 quả. [ 6 ]Arsenal không hề bảo vệ thành công xuất sắc Cúp châu Âu mùa giải 2007 – 08 sau khi bị Olympique Lyonnais loại ở tứ kết. Họ cũng thất bại trong trận chung kết League Cup trước Everton. Tuy nhiên họ vẫn bay cao tại giải vô địch vương quốc với chức vô địch thứ 5 liên tục nhờ 20 thắng lợi và chỉ hai kết quả hòa trong 22 trận, cũng như vô địch Cúp FA sau khi vượt mặt Leeds 4 – 1 trong trận chung kết. Mùa giải 2008 – 09 tận mắt chứng kiến kỷ lục 5 năm bất bại tại giải vô địch vương quốc phải dừng lại. Từ 16 tháng 10 năm 2003 ( thua Charlton Athletic ) [ 7 ] tới 29 tháng 3 năm 2009 ( thua 0 – 3 trên sân nhà trước Everton ) Arsenal đã tranh tài một mạch 108 trận không để thua một trận nào. Trong quãng thời hạn này đội cũng lập kỷ lục 51 trận thắng liên tục tại giải vô địch vương quốc, từ tháng 11 năm 2005 tới tháng 4 năm 2008. [ 2 ] Mặc dù thua Everton, Arsenal sau đó vẫn giành cú ăn ba trong mùa giải 2008 – 09, thắng lợi trên sân khách trước chính Everton với tỉ số 1 – 0 trong lượt trận sau cuối, giúp Vic Akers có thương hiệu VĐQG thứ 11 và cú ăn ba thứ tư .

2009 – nay : Thời hậu Akers và WSL[sửa|sửa mã nguồn]

Akers quyết định hành động từ nhiệm sau khi mùa 2009 kết thúc, và được thay thế sửa chữa bằng Tony Gervaise. Vào tháng 2 năm 2010, sau tám tháng cầm quân, Gervaise từ chức vì cho rằng vị trí của ông bị lung lay bởi tác nhân bên ngoài. [ 8 ] Huấn luyện viên đội dự bị Laura Harvey trở thành huấn luyện viên trưởng còn Gervaise tiếp quản vị trí của Harvey. [ 9 ] Sau đó Arsenal có tên trong list những đội bóng dự giải vô địch nữ mới FA WSL dự kiến mở màn vào đầu năm 2011. [ 10 ] Arsenal liên tục chứng tỏ sức mạnh ngay ở mùa tiên phong với thương hiệu vô địch vương quốc thứ 8 liên tục và đoạt vé dự UEFA Women’s Champions League. [ 11 ] Arsenal còn lên ngôi tại Cúp FA và Cúp Liên đoàn để hoàn tất cú ăn ba trong năm 2011. Trong mùa giải 2012 họ liên tục bảo vệ thành công xuất sắc chức vô địch vương quốc khi bất bại trong cả mùa cùng chức vô địch cúp Liên đoàn thứ hai liên tục .Ngày 1 tháng 2 năm 2013 Shelley Kerr được chỉ định thay cho Laura Harvey làm huấn luyện viên trưởng của Arsenal Ladies. Dưới sự dẫn dắt của bà, đội bóng đăng quang cúp vương quốc cùng một League Cup, đứng thứ ba tại giải quốc nội trong mùa giải 2013. [ 12 ] Sau chuỗi trận tuyệt vọng với chỉ một điểm sau bốn trận tiên phong mùa giải năm trước, cộng thêm việc bị loại tại Champions League trước Birmingham và giật mình thua Reading tại cúp Liên đoàn, Kerr quyết định hành động từ chức. [ 13 ] Mặc dù vậy trước khi chia tay câu lạc bộ, bà vẫn cùng Arsenal Ladies giành Cúp FA năm trước sau thắng lợi 2 – 0 trước Everton. Sau đó dưới thời của Pedro Losa, Arsenal lọt vào trận chung kết FA WSL Cup năm trước với Manchester City nhưng để thua đối thủ cạnh tranh với tỉ số 0 – 1. Họ liên tục lọt vào chung kết FA WSL Cup lần thứ 5 liên tục vào năm năm ngoái và giành thắng lợi 3 – 0 trước Notts County. Họ còn vô địch FA Women’s Cup năm năm nay. Tuy nhiên, Losa đã từ chức vào cuối mùa giải sau đó và được sửa chữa thay thế bằng Joe Montemurro .

Vào tháng 7 năm 2017, câu lạc bộ đổi tên thành Arsenal Women Football Club.[14] Montemurro đã dẫn dắt đội vô địch FA WSL 2018–19 lần đầu sau 7 năm, cùng với đó đánh dấu sự trở lại của đội tại Champions League sau 5 năm.

Arsenal Ladies vào năm 2009 .

Đội hình hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]

Tính đến 28 tháng 1 năm 2021.[15]

Ghi chú : Quốc kỳ chỉ đội tuyển vương quốc được xác lập rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ hoàn toàn có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA .

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Ban đào tạo và giảng dạy[sửa|sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 28 tháng 6 năm 2021.[16]

Chức vụ Tên
Huấn luyện viên trưởng Thụy ĐiểnJonas Eidevall
Trợ lí huấn luyện viên Úc
Trợ lí và huấn luyện viên phát triển cá nhân AnhLeanne Hall
Huấn luyện viên thủ môn Anh

Các đời huấn luyện viên

Sân vận động[sửa|sửa mã nguồn]

Hiện nay Arsenal Women tranh tài những trận sân nhà tại giải vô địch vương quốc trên sân Meadow Park, sân nhà của đội bóng nam Boreham Wood thuộc giải Conference Premier tại Borehamwood, Hertfordshire. Sân có sức chứa 4.000 chỗ, mặc dầu số khán giải trung bình trong những trận đấu chỉ là vài trăm. Các trận đấu của Arsenal tại UEFA Women’s Champions League cũng được tổ chức triển khai tại đây. Tuy nhiên nhờ link với Arsenal F.C. nên họ đôi lúc được phép tranh tài tại sân Emirates .
Arsenal Ladies ăn mừng cú đúp năm 1998 .

Liên kết với Arsenal F.C.[sửa|sửa mã nguồn]

Arsenal Women nhận được sự chăm sóc và tương hỗ từ câu lạc bộ nam Arsenal. David Dein, cựu phó quản trị Arsenal F.C., giữ vị trí quản trị của đội nữ cho tới khi ông rời đội vào 18 tháng 4 năm 2007, và được sửa chữa thay thế bởi Keith Edelman, giám đốc quản lý và điều hành của Arsenal, cho tới khi ông rời đi vào 1 tháng 5 năm 2008. Ivan Gazidis, tổng giám đốc điều hành quản lý của Arsenal, hiện là quản trị của Arsenal Women .

Nhiều người trong thành phần thi đấu của đội được Arsenal tuyển chọn để phát triển và kết hợp các đội nữ và học viện của câu lạc bộ. Hai đội nam và nữ cùng được tài trợ từ Emirates và Puma (và trước đây là Nike).

Những mùa giải được in đậm khi đội giành được cú đúp vô địch quốc gia và Cúp FA.
1992–93, 1994–95, 1996–97, 2000–01, 2001–02, 2003–04, 2004–05, 2005–06, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2009–10, 2011, 2012, 2018–2019
1992–93, 1994–95, 1997–98, 1998–99, 2000–01, 2003–04, 2005–06, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010–11, 2012-13, 2013–14, 2015–16
  • FA WSL Cup: 5 (kỷ lục)
2011, 2012, 2013, 2015, 2017–18
1991–92, 1992–93, 1993–94, 1997–98, 1998–99, 1999–2000, 2000–01, 2004–05, 2006–07, 2008–09
2000, 2001, 2005, 2006, 2007, 2008
  • London County FA Women’s Cup: 10 (kỷ lục)
1994–95, 1995–96, 1996–97, 1999–2000, 2003–04, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2009–10, 2010–11
1991–92
  • UEFA Women’s Champions League (trước đây là UEFA Women’s Cup): 1
2006–07

Thành tích tại UEFA Women’s Champions League[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://evbn.org
Category: Kết Quả