HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ QUA CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC

           Bài làm của học sinh (Sưu tầm)

Trong vương quốc văn học, “ biên giới ” là hai từ không khi nào sống sót. Minh chứng rõ nhất là từ rất lâu rồi cho đến nay, đề tài về số phận và vẻ đẹp người phụ nữ luôn là một đề tài nóng, được vô số tác giả mày mò và bộc lộ. Tô Hoài, Kim Lân, Xuân Quỳnh, Nguyễn Minh Châu – bốn tác giả ở bốn quy trình tiến độ khau nhau, với bốn phong thái nghệ thuật và thẩm mỹ riêng nhưng đã gặp nhau ở hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của mình. “ Vợ chồng A Phủ ” với nhân vật Mị, “ Vợ nhặt ” với nhân vật Thị, “ Sóng ” với hình tượng “ em ” hay “ Chiếc thuyền ngoài xa ” với người đàn bà hàng chài, bốn người phụ nữ ấy đã làm nên bức tượng đài người phụ nữ Nước Ta mà trong mỗi thực trạng, họ mang số phận và vẻ đẹp riêng .Thơ ca từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn gánh trên vai một số phận long đong, xấu số, một nỗi đau xuyên thời hạn, khoảng trống và tìm gặp nhau ở điểm chung :

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Nguyễn Du)

Mị trong “ Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài phải gánh chịu trên sống lưng kiếp sống của một con vật, dù mang danh con dâu nhà thống lí ( con dâu gạt nợ ). Song hành với Mị luôn là hình ảnh con trâu con ngựa, con rùa lùi lũi … cho thấy một kiếp người xấu số, sống không bằng con vật. Quyền sống có vẻ như không nằm trong tay cô : vì cha mà cô không đành lòng tự tử, rồi vì A Sử ngăn cản bắt trói vào cột mà cô không hề đi chơi trong đêm tình mùa xuân … Một đời sống ngột ngạt tù túng, quyền con người bị tước đoạt – đó là hiện thân của xã hội mà kẻ thống trị hoàn toàn có thể giày xéo bất kỳ người dân nào .Không chịu kiếp sống con vật như Mị nhưng người vợ nhặt trong “ Vợ nhặt ” của Kim Lân lại phải sống lay lắt, vật vờ trong nạn đói kinh khủng những năm 1945. Chính cái đói đã làm mất đi vẻ đẹp êm ả dịu dàng của một cô gái trẻ, đẩy Thị vào thảm kịch : theo không người ta về làm vợ để có cái ăn. Hoàn cảnh xô đẩy, bản tính người bị che lấp, còn đâu lòng tự trọng và vẻ đẹp nhân cách nữa. Thị chính là một vật chứng cho “ nạn nhân của thực trạng ” .Gây sốc cho bạn đọc chính là số phận xấu số đến bi thảm của người đàn bà hàng chài : đời sống khổ cực trên thuyền trên biển đã đẩy mái ấm gia đình mụ từ ấm êm, hòa thuận đến bạo hành, đói nghèo. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa một con người chất chứa mội nỗi khổ to lớn, khiến người đọc nhìn vào cũng đau lòng. Cứ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, mụ phải chịu đựng những trận đòn roi của người chồng vũ phu – đau xót làm thế nào ! Người đàn bà hàng chài sống cam chịu, nhẫn nhục như chính mụ lựa chọn số phận xấu số ấy mà chẳng hề phản kháng, đấu tranh .Mỗi người một số phận, hình tượng “ em ” trong “ Sóng ” của Xuân Quỳnh lại mang một nỗi đau về niềm tin. “ Em ” trong tình yêu luôn trăn trở, suy tư, ngẫm nghĩ và đặc biệt quan trọng luôn khát khao niềm hạnh phúc. Trong sự đổ vỡ của tình yêu, Xuân Quỳnh luôn phập phồng lo ngại :

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa…

Chung quy lại, trong cả bốn tác phẩm, dù ở thời đại nào, khoảng trống nào, thực trạng nào, người phụ nữ vẫn luôn là phái yếu chịu nhiều thiệt thòi, xấu số … Đau đớn là vậy, nhưng hình tượng người phụ nữ trong văn học luôn chứa đựng một vẻ đẹp nội tâm thâm thúy đáng trân trọng .

         Nếu như ta đã thấy Mị sống kiếp con vật khi làm dâu gạt nợ nhà Thống lí Pá Tra; thì ta cũng sẽ nhận ra một cô Mị hiếu thảo, chăm chỉ, yêu tự do qua câu nói “Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Trốn về nhà sau khi bị bắt làm dâu gạt nợ, định tự tử bằng nắm lá ngón nhưng nhìn người cha già yếu, cô không đành lòng để cha một mình gánh vác nợ nần. Thật hiếm thấy một người con gái hiếu thuận như vậy! Chính vẻ đẹp tâm hồn ấy, chứ không phải là nhan sắc rực rỡ khiến “trai đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”, cũng không phải tài năng thổi sáo giỏi, đã giúp Mị tỏa sáng trong ấn tượng của người đọc.

Không đẹp cũng chẳng kĩ năng nhưng cô vợ nhặt của nhà văn Kim Lân lại lấy được thiện cảm của người đọc từ từ bằng chính hành vi của mình. Kim Lân tả thị lúc đầu là một cô nàng chao chát chỏng lỏn, vì miếng ăn mà quên mất lòng tự trọng ; nhưng càng về sau, ngòi bút của ông lại đầy cảm thông, thương xót. Thị chua ngoa nhưng cũng là một cô gái biết e thẹn khi về làm dâu, biết lễ nghĩa khi ra đời mẹ chồng. Làm dâu, làm vợ rồi, thị dần thể hiện hết những vẻ đẹp của một người phụ nữ : cần mẫn giúp mẹ chồng quét dọn nhà cửa, cư xử lễ phép và tế nhị …Sự chuyển biến ở thị đã khiến người đọc kinh ngạc, thì hẳn sẽ không khỏi sửng sốt khi mày mò ra vẻ đẹp ở người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu. Chưa ở đâu, chưa một tác phẩm văn học nào mà người phụ nữ lại thể hiện rõ thiên tính nữ như trong “ Chiếc thuyền ngoài xa ”. Mụ xấu xí, thô kệch, mặt rỗ, tấm sống lưng áo bạc phếch … khiến người đọc mới làm quen đã thiếu thiện cảm … Nhưng từ từ, vẻ đẹp tâm hồn của một người phụ nữ từng trải đã thuyết phục tất cả chúng ta. Mụ thâm thúy và vị tha, giàu đức hi sinh : mụ đồng cảm nỗi khổ của chồng, cam chịu bị đánh mà không một lời oán trách ca than. Mụ siêng năng tần tảo kéo lưới suốt đêm khiến khuôn mặt tái nhợt đi, để đàn con được ăn no. Mụ trải đời thâm thúy nên chỉ ra và nghiên cứu và phân tích rõ cho Phùng và Đẩu thấy những chưa ổn trong chủ trương của nhà nước. Đặc biệt, tình mẫu tử mụ dành cho các con thật là vô biên …

         Nếu người đàn bà hàng chài sâu sắc và từng trải trong cuộc sống thì “em” trong thơ Xuân Quỳnh lại sâu sắc và thấu hiểu trong tình yêu. “Em” đẹp như sóng và cũng mạnh mẽ như sóng. “Em” “dữ dội” đấy nhưng cũng rất “dịu êm”, đôi lúc “ồn ào” nhưng có những khi thật “lặng lẽ”. “Em” trong thơ Xuân Quỳnh với cảm xúc nồng cháy đã ánh lên những phẩm chất cao đẹp: thủy chung “Dẫu xuôi về phương Bắc- Dẫu ngược về phương Nam- Nơi nào em cũng nghĩ- Hướng về anh một phương”, tin tưởng vào tình yêu “Ở ngoài kia đại dương- Trăm ngàn con sóng đó- Con nào chẳng tới bờ- Dù muôn vời cách trở”, sẵn sàng hi sinh để bất tử hóa tình yêu “Làm sao được tan ra- Thành trăm con sóng nhỏ- Giữa biển lớn tình yêu- Để ngàn năm còn vỗ”…

Quả thật, số phận xấu số không làm mờ đi vẻ đẹp của người phụ nữ trong văn học, tiêu biểu vượt trội cho vẻ đẹp của người phụ nữ Nước Ta : tảo tần, siêng năng, thủy chung, thâm thúy, từng trải, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha, yêu mái ấm gia đình … Đó là những vẻ đẹp khuất lấp cần mày mò để thấy được chiều sâu nhân văn trong mỗi tác phẩm .Trong đời sống, trong tình yêu, người phụ nữ nào chẳng khao khát có được niềm hạnh phúc, có một mái ấm mái ấm gia đình đúng nghĩa. Và đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn điển hình nổi bật nhất của những người phụ nữ trong các tác phẩm văn học .Trong Vợ chồng A Phủ, Mị lầm lũi là vậy bởi sống lâu trong cảnh khổ, Mị đã quen khổ ; thế nhưng khi nghe tiếng sáo từ lấp ló ngoài đầu núi, đến văng vẳng ở đầu làng, rồi lửng lơ bay ngoài đường … sức sống trong Mị như hồi sinh. Mị thấy yêu đời trở lại, Mị thấy mình trẻ, Mị khao khát tự do và muốn được đi chơi. Tất cả đã cho thấy người phụ nữ dù trong đau khổ tù túng thì trái tim họ vẫn luôn hướng về, luôn hy vọng và khát khao niềm hạnh phúc. Chính do đó, Mị đã chạy theo A Phủ, chạy theo niềm hạnh phúc của mình, rời bỏ mảnh đất Hồng Ngài đau thương .Trong “ Vợ nhặt ” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, thị theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm một mái ấm mái ấm gia đình, một nơi được phủ bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dậy ở Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật – đó là dẫn chứng rõ nhất cho khát vọng sống, khát vọng niềm hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hồn thị .

         Hay như người đàn bà hàng chài, trong đau khổ bất hạnh, khuôn mặt mụ vẫn “ửng sáng lên như một nụ cười”, khi nhắc đến chuyện “ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Mụ thương con và hiểu chồng, mụ cố gắng chắt lọc lấy hạnh phúc chứ nhất quyết không li hôn với gã chồng vũ phu.

Đặc biệt, khát khao niềm hạnh phúc được Xuân Quỳnh bộc lộ mãnh liệt trải qua hình tượng “ són ” và “ em ”. “ Em ” trăn trở, giàu lòng trắc ẩn, day dứt về tình yêu chính vì “ em ” luôn tìm kiếm niềm hạnh phúc toàn vẹn “ Bồi hồi trong ngực trẻ ”. Yêu say đắm, tha thiết, nhưng khát khao tình yêu đích thực, khát khao niềm hạnh phúc vẫn luôn thường trực trong trái tim người phụ nữ .Trong văn học, hình tượng người phụ nữ không mới mẻ và lạ mắt nhưng dưới ngòi bút của mỗi tác giả, hình tượng ấy lại đem đến cho bạn đọc cảm xúc khác nhau trải qua những tác phẩm khác nhau. Dù là thơ, truyện hay tiểu thuyết, các tác giả vẫn luôn tập trung chuyên sâu làm điển hình nổi bật hình tượng người phụ nữ với số phận xấu số nhưng ẩn sâu những vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Nước Ta với khát khao niềm hạnh phúc mãnh liệt .

         Bài làm của học sinh (Sưu tầm)

Trong cuộc sống mỗi con người tất cả chúng ta không hề thiếu vắng hình ảnh những người phụ nữ, đó là những người bà, người mẹ chở che, những người chị đảm đang, người vợ tảo tần … Văn học Nước Ta cũng vậy, luôn tôn vinh hình tượng người phụ nữ với toàn bộ những gì tốt đẹp nhất .Ta phát hiện một cô gái trẻ với đôi mắt khát khao được sống phía sau khung cửa nhà Thống lí Pá Tra, cô gái ấy là Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ ” của nhà văn Tô Hoài. Tôi thấy một người phụ nữ với sự êm ả dịu dàng, đảm đang ẩn sau vẻ “ chao chát chỏng lỏn ” trong truyện ngắn “ Vợ nhặt ” của nhà văn Kim Lân. Tôi rung động trước con “ Sóng ” lòng của thi sĩ Xuân Quỳnh. Tôi càng chua xót và thương cảm hơn khi nghĩ về người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa ” của nhà văn Nguyễn Minh Châu .Tuy Open trong những thực trạng khác nhau nhưng họ đều hiện lên là một hình tượng mẫu mực bậc nhất trong nền văn học Nước Ta – hình tượng người phụ nữ. Họ đã từng Open là người phụ nữ dân tộc bản địa Open trong thơ Nguyễn Khoa Điềm địu con con lên rẫy bẻ ngô, ru con ngủ mà mồ hôi ướt đẫm ; hay là Dít, là Mai với đôi mắt đen láy cương nghị trong “ Rừng xà nu ” của Nguyễn Trung Thành …

          Trong “Vợ chồng A Phủ”, Mị hiện lên từ cuộc sống câm lặng trong kiếp làm dâu gạt nợ nhà Thống lí. Ta không thể quên Mị đã từng kiên quyết nói rằng thà đi làm nương chứ không chịu bị gả vào nhà Thống lí. Sự mạnh mẽ ấy cuối cùng không thể giúp Mị thoát khỏi kiếp làm dâu gạt nợ. Mị đã muốn chết nhưng rồi không thể, nắm lá ngón hái về đành vứt xuống đất. Mị muốn thoát khỏi nhà Thống lí, Mị đã khóc nhiều đêm liền, nhưng rồi nước mắt cũng cạn, Mị đành “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chỉ còn biết thả mình theo tiếng sáo để trở về ngày xưa cũ, khi Mị còn tự do. Sức sống tiềm tàng của Mị tạo nên một ấn tượng khó phai về người con gái này, cô câm lặng nhưng không cam tâm chết. Thế nhưng trong đêm cởi trói cho A Phủ, cũng như bao lần Mị thổi lửa hơ tay hơ lưng giữa đêm để lưu giữ hơi nồng nơi tâm hồn; nhưng đêm nay giọt nước mắt A Phủ đã khiến Mị trỗi dậy lòng thương người, đã hâm nóng và thổi lên ngọn lửa trong tâm hồn Mị. Không còn gương mặt “buồn rười rượi”, gương mặt Mị giờ sáng bừng lên quyết liệt. Mị giống như vị cứu tinh cứu lấy không chỉ cuộc đời A Phủ mà còn cứu lấy chính mình.

Cũng sinh ra trong kháng chiến chống Pháp nhưng thị trong “ Vợ nhặt ” không giống Mị. Thị xuất hiện với vẻ bên ngoài xấu xí, cái miệng chua ngoa nhưng lại trở nên ngần ngại khi về tới nhà Tràng. Mang thân vợ nhặt về làm dâu nhà người, thị đã đối xử với mẹ con Tràng bằng toàn bộ lòng biết ơn và tình yêu của mình : thị quét tước sân vườn thật sạch, kín đầy ang nước, phơi cả đống quần áo đã vắt khươm mươi niên ở góc nhà. Thị không một lời oán trách khi và vào miệng miếng cháo cám chát xít và nghẹn bứ. Ở thị, tôi thấy một người phụ nữ tinh tế trước thời cuộc, đảm đang, cam chịu và chuẩn bị sẵn sàng san sẻ yêu thương giữa những ngày đói kém nhất. Thị mang đến một làn gió mới tươi mát thổi vào tâm hồn Tràng, cụ Tứ và cả người dân xóm ngụ cư .

          Bông “hoa dọc chiến hào” Xuân Quỳnh lại mang đến chút tự tình lãng mạn trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt bằng bài thơ “Sóng”. Nhạy cảm, tinh tế, Xuân Quỳnh trong vai “em” đã đứng trước biển lớn để giãi bày khao khát yêu thương, mạnh dạn xóa đi rào cản của quan niệm về người phụ nữ thụ động trong tình yêu. Trải qua bao trăn trở, Xuân Quỳnh quyết định hóa thân tan thành “trăm con sóng nhỏ” để vỗ mãi ru êm tình yêu muôn thuở. Một người phụ nữ nội tâm, tràn đầy khao khát và giàu đức hy sinh như vậy đã vẽ nên hình ảnh mềm mại của “Sóng” trong làng thơ Việt Nam.

Tôi tìm thấy “ hạt ngọc ẩn giấu của tâm hồn con người ” nơi người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa ” của Nguyễn Minh Châu. Trong con giông bão của “ đêm trước ngày thay đổi ”, chị phải khó khăn vất vả xoay xở, một bên là nỗi lo cho từng miếng cơm manh áo, một bên là nỗi đau thân xác từ những trận đòn roi. Chị nói rằng “ đàn bà hàng chài không hề sống cho mình ”, bởi cuộc sống chị đã xấu số từ nhỏ : sinh ra trong mái ấm gia đình khá giả nhưng ngoại hình xấu xí, chị suôn sẻ được anh con trai hàng chài yêu thương. Sóng gió cuộc sống ập đến, phá vỡ niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy khi “ thuyền quá nhỏ, nhà lại thêm đông con ”. Những trận đòn roi mà gã chồng vũ phu giáng xuống tấm sống lưng gầy của chị không chỉ đơn thuần là vì hắn “ khổ quá ” như chị vẫn thường nói, đó còn là trận đòn từ những éo le, xấu số do thực trạng xô đẩy tấm thân chị. Thế nhưng từ sâu trong bùn đất, chị sáng lên với vẻ đẹp tâm hồn rạng ngời – vẻ đẹp của mẫu tính. Chị chỉ niềm hạnh phúc nhất khi thấy các con được ăn no, chị không đau lòng khi bị đánh, chị chỉ cần cho con thuyền được ấm cúng “ tuyệt mĩ ”. Người đàn bà mặt rỗ, khắc khổ với tấm sống lưng áo bạc phếch đã phản ánh hiện thực đời sống phức tạp dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu .Bốn tác phẩm khác nhau trọn vẹn về tác giả cũng như thực trạng sinh ra nhưng lại có chung một góc nhìn về người phụ nữ. Họ tuy có những cảnh ngộ riêng, gánh chịu những xấu số, khổ đau, mang những nỗi niềm riêng, nhưng đều là những gì đẹp nhất, dịu dàng êm ả nhất, thuần khiết nhất. Mị đại diện thay mặt cho tuổi trẻ, cho sức sống tiềm tàng dù bị đày đọa thân xác, cho cả tình yêu thương con người vô bờ bến mặc kệ mọi nguy hại, thậm chí còn cả cái chết. Thị – vợ anh Tràng – trong những tháng ngày đói khát nhất của dân tộc bản địa lại tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn với sự tinh tế mà dịu hiền, can đảm và mạnh mẽ chọn cho mình chỗ dựa qua ngày đói mặc kệ dị nghị. Có lẽ Thị sẽ trở thành một người mẹ tốt với bản năng sẵn có của một người mẹ, Thị sẽ yêu thương con mình như yêu thương Tràng và bà cụ Tứ – những người đã cứu vớt đời Thị. Xuân Quỳnh trong nỗi đau đổ vỡ tình yêu, đã can đảm và mạnh mẽ chuẩn bị sẵn sàng mặc kệ ý niệm cũ để tìm niềm hạnh phúc riêng. Và với vẻ đẹp mẫu tính sáng ngời, cũng giống như Quỳ trong “ Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ”, Nguyễn Minh Châu khắc họa người đàn bà hàng chài với tình thương yêu vô bờ bến, đức quyết tử và sự nhẫn nhục, cam chịu để chiến đấu với giặc đói giặc dốt vây hãm. Những người phụ nữ ấy không quá đẹp ở ngoại hình nhưng lại khiến người đọc bị thuyết phục bởi vẻ đẹp nhân cách. Sẽ còn là Từ trong truyện ngắn “ Đời thừa ” của Nam Cao, là chị Chiến trong “ Những đứa con trong mái ấm gia đình ” là bà cụ Tứ mẹ Tràng trong “ Vợ nhặt ” … Trong mọi lứa tuổi, mọi những tầng lớp, mọi quá trình lịch sử dân tộc, ta đều phát hiện những người phụ nữ “ anh hùng, quật cường, trung hậu, đảm đang ” như Bác Hồ từng nói. Vẻ đẹp phụ nữ Nước Ta đã, đang và sẽ còn tỏa sáng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc dân tộc bản địa .Phụ nữ giống như những bông hoa, mỏng mảnh nhưng không kém phần kiên cường, có đóa hoa đẹp về sắc tố nhưng có đóa hoa lại ngát hương thơm, nhưng toàn bộ đều có chung một trách nhiệm đó là nuôi dưỡng sức sống cho cuộc sống, luôn hết mình khoe sắc và giữ gìn giống nòi cho muôn đời sau. Ý thức được điều đó, bằng ngòi bút nhân đạo của mình, các nhà văn nhà thơ văn minh, đặc biệt quan trọng là qua các tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ ” ; “ Vợ nhặt ” ; “ Sóng ” và “ Chiếc thuyền ngoài xa ” đã kiến thiết xây dựng hình tượng người phụ nữ hiện lên như những tượng đài quật cường, đại diện thay mặt cho những người phụ nữ Nước Ta qua các thời kỳ, luôn sáng ngời mẫu tính, tình thương yêu, sự dịu hiền, đảm đang và tình cảm chân thành nhất nơi tâm hồn con người .

Source: https://evbn.org
Category: Giới Tính