Xây dựng nông thôn mới: một số vấn đề đặt ra
Chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vai trò to lớn từ trong quá trình lịch sử hình thành quốc gia dân tộc và trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua các giai đoạn cách mạng, nông dân luôn là lực lượng hùng hậu, trung thành nhất đi theo Đảng, góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống của người nông dân. Trực tiếp và toàn diện nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 7, khóa X, về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết xác định, đến năm 2015: 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và đến năm 2020,: 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên tổng số 9.121 xã của cả nước theo 19 tiêu chí được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 16-4-2009.
Nông thôn mới có thể khái quát theo 5 nội dung cơ bản: Thứ nhất, đó là làng, xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; Thứ hai, sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; Thứ ba, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, nông thôn ngày càng nâng cao; Thứ tư, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn; Thứ năm,xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.
Trên cơ sở bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới gồm 5 nhóm nội dung (nhóm quy hoạch, nhóm hạ tầng kinh tế – xã hội, nhóm kinh tế và tổ chức sản xuất, nhóm văn hóa – xã hội – môi trường, nhóm hệ thống chính trị), Chính phủ đã ban hành Quyết định 800 QĐ-TTg, ngày 04-6-2010 về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020, nêu rõ 19 tiêu chí và 7 nhóm giải pháp.
Có thể nói, Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm, xuyên suốt của Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; là chương trình khung, tổng thể phát triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương trình mục tiêu quốc gia và 14 chương trình hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai ở địa bàn nông thôn trên phạm vi cả nước. Xây dựng nông thôn mới thực chất là chương trình do nhân dân lựa chọn, đóng góp công sức thực hiện và trực tiếp hưởng lợi. Chương trình xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế – chính trị – xã hội vì nó mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân nông thôn (chiếm khoảng 70% dân số cả nước), thông qua đó, chương trình sẽ điều hòa lợi ích, thành quả công cuộc đổi mới cho người dân khu vực nông thôn.
Ngay trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã nhanh chóng trở thành phong trào của cả nước. Nhiệm vụ về xây dựng nông thôn mới được xác định rõ trong nghị quyết đại hội Đảng các cấp từ tỉnh đến huyện và xã. Ban Bí thư Trung ương khóa X đã trực tiếp chỉ đạo Chương trình thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền. Bộ máy quản lý và điều hành Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được hình thành từ Trung ương xuống địa phương. Các bộ, ngành đã ban hành 25 loại văn bản hướng dẫn địa phương về tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, quy hoạch nông thôn mới. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển khai cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới”. Ngày 08-6-2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phát động thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm qua, phong trào xây dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội. Quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới, Ban Chỉ đạo Trung ương đã kế thừa kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng nông thôn mới tại 11 xã điểm của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về xây dựng nông thôn mới, công tác quy hoạch và lập đề án xây dựng xã nông thôn mới. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, Ban Chỉ đạo đã thống nhất các xã lựa chọn những tiêu chí mà đa số người dân thấy cần thì tập trung làm trước, khuyến khích triển khai những công việc từng thôn, xóm, từng hộ dân có thể tự làm được đã tập trung cao cho nhiệm vụ phát triển sản xuất, dồn điền, đổi thửa, tập trung ruộng đất gắn với quy hoạch đồng ruộng, cơ giới hóa các khâu trong quá trình sản xuất, chế biến và đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất. Đã huy động tổng lực các nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới, ngoài nguồn vốn Nhà nước hỗ trợ, rất chú trọng huy động các nguồn vốn khác, như từ ngân hàng, doanh nghiệp và xã hội, đặc biệt là huy động nội lực trong nhân dân, như góp công lao động, hiến đất, vật liệu, tiền, đóng góp tinh thần và động viên người thân thành đạt tham gia. Bên cạnh đó, đã quan tâm tới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng nâng cao kỹ năng tay nghề, giải quyết việc làm cho nông dân theo cả hai hướng phi nông nghiệp và nông nghiệp; quan tâm tới chất lượng các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xây dựng tình làng nghĩa xóm, giữ gìn vệ sinh môi trường và an ninh nông thôn. Đồng thời, chú trọng phát động và tổ chức rộng khắp phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Thành tựu qua những con số
Có thể nói, quá trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cơ bản bảo đảm, tạo sự thuận lợi trong giao lưu buôn bán và phát triển sản xuất; Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề. Đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật chất tinh thần cho người dân, hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường; dân chủ cơ sở được phát huy; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; vị thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao. Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ sở vững chắc tiếp tục nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Các địa phương đã quan tâm hơn và tập trung chỉ đạo thực hiện những nội dung trọng điểm, bức xúc trên địa bàn và có nhiều cơ chế, chính sách linh hoạt để huy động nguồn lực thực hiện chương trình. Nhờ đó, tốc độ đạt tiêu chí của các xã tăng lên rõ rệt. Kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống người dân được các địa phương quan tâm xây dựng, nâng cấp; bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, thu nhập của cư dân nông thôn tăng nhanh hơn.
Về lập và phê duyệt quy hoạch nông thôn mới, đã có 97,4% số xã hoàn thành phê duyệt quy hoạch, dự kiến hoàn thành 100% số xã vào năm 2015. Về phát triển giao thông nông thôn, chương trình đã xây dựng được trên 5 nghìn công trình với khoảng 700.000km đường giao thông nông thôn. Đến nay, đã có 23,3% số xã đạt tiêu chí giao thông, dự kiến đến hết năm 2015 đạt 35,3%. Trên lĩnh vực thủy lợi, hiện có 44,5% số xã đã đạt tiêu chí, dự kiến đến hết năm 2015 đạt 52,7%; 75,6% xã đạt tiêu chí về điện, dự kiến hết năm 2015 đạt 80,9%.
Cùng với đó, công tác phát triển sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ tại nhiều địa phương. Nhiều địa phương thực hiện dồn điền, đổi thửa, thiết kế lại kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện đưa cơ giới hóa vào sản xuất. Đồng thời, đổi mới tổ chức sản xuất thông qua tăng cường hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức liên kết sản xuất với mô hình “cánh đồng lớn”, sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao. Nhiều địa phương đã chủ động ban hành chính sách hỗ trợ người dân mua máy cày, gặt, sấy, đưa tỷ lệ cơ giới hóa của các khâu này tăng từ 40% – 50% lên 80 – 90% như các tỉnh: Thái Bình, Hà Tĩnh, An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp.
Nhờ những nỗ lực đó mà giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đạt khá cao. Cụ thể: Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014 mức đạt bình quân trên 250 triệu đồng/ha; Hà Nội đạt trên 200 triệu đồng/ha; An Giang 120 triệu đồng/ha; Lâm Đồng 95 triệu đồng/ha… Thu nhập của người dân nông thôn đạt bình quân 22,1 triệu đồng/người/năm, tăng 1,98 lần so với năm 2010. Tỷ lệ hộ nghèo nông thôn chỉ còn 10,1%, giảm bình quân 2%/năm (2008 – 2014). Đến hết năm 2014 đã có 56,5% số xã đạt tiêu chí về văn hóa, dự kiến đến hết năm 2015 đạt 66,5%. Đã có trên 60% số dân nông thôn tham gia các hình thức bảo hiểm y tế tự nguyện; trên 20% số xã có câu lạc bộ (đội văn nghệ); khoảng 25% người dân thường xuyên tham gia các hoạt động thể thao; 70% số thôn, xóm được công nhận làng văn hóa; có 40% số xã thành lập tổ thu gom rác thải. Thêm vào đó, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đã động viên, khơi dậy tinh thần đoàn kết giúp đỡ trong cộng đồng dân cư.
Về hệ thống chính trị, tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn được đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao vai trò hạt nhân lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ xã đã có bước trưởng thành nhanh; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở đạt chuẩn được quan tâm. Đến hết năm 2014 có 68,2% số xã đạt tiêu chí về hệ thống tổ chức chính trị, xã hội, dự kiến đến hết năm 2015 đạt 79,5%.
Nhìn chung, đến hết năm 2014, có 785 xã đạt chuẩn (8,8%) và bình quân mỗi xã còn lại đạt 10 tiêu chí, tăng 5,38 tiêu chí so với năm 2010. Dự kiến đến hết năm 2015, cả nước sẽ có 1.800 xã đạt chuẩn (đạt 20%), 1.527 xã đạt từ 15-18 tiêu chí và chỉ còn 600 xã đạt dưới 5 tiêu chí.
Tuy nhiên quá trình xây dựng nông thôn mới cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết, đó là:
Thứ nhất, chưa có quy hoạch và quản lý có hiệu quả về không gian chung nông thôn – đô thị, công nghiệp – nông nghiệp, về hạ tầng nông thôn, nên đã dẫn đến không gian nông thôn truyền thống đang bị phá vỡ tại nhiều nơi, mất đi tính đặc thù với các giá trị bản sắc văn hóa, mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường gia tăng;
Thứ hai, xã hội nông thôn chưa được tổ chức thích hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ cơ sở còn bị vi phạm ở nhiều nơi, mâu thuẫn xã hội gia tăng, văn hóa truyền thống bị mai một;
Thứ ba, kinh tế nông thôn phát triển nhưng thiếu tính bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Người dân thiếu việc làm ổn định, nghèo đói giảm chậm và có xu thế tái nghèo ở một số địa phương, một bộ phận dân cư còn sống dưới mức nghèo khổ;
Thứ tư, cơ chế lồng ghép các nguồn lực từ các chương trình, dự án chưa rõ ràng và chưa quan tâm tới đặc thù từng địa phương. Thực tế các địa phương mới chỉ tiến hành ghép vốn đối với các công việc, mục tiêu có cùng nội dung. Tuy nhiên, điều này lại gây khó trong tổng hợp kết quả đạt được của từng dự án, chương trình từ việc ghép các nguồn vốn của các chương trình, dự án trên địa bàn.
Đánh giá chung về quá trình thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới
Qua 5 năm triển khai thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới, có thể đánh giá sơ bộ về những mặt được và chưa được của quá trình này như sau:
Về mặt tích cực
Một là, đây là một chương trình lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực, triển khai trong bối cảnh các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đang tập trung cho Đại hội Đảng và bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp. Trong điều kiện kinh tế vĩ mô còn có những yếu tố bất ổn, kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái, sau 5 năm thực hiện, Chương trình đã đạt được một số kết quả khá rõ rệt:
– Được các tầng lớp nhân dân cả nước, nhất là cư dân nông thôn nồng nhiệt đón nhận và hưởng ứng.
– Đại hội Đảng bộ các cấp đều có nghị quyết về nội dung này và đưa thành chương trình hành động với nhiều chỉ tiêu cụ thể.
– Chính phủ cũng ưu tiên đầu tư cho Chương trình này. Trong điều kiện kinh tế còn khó khăn, ngân sách hạn hẹp, Chính phủ vẫn đầu tư tăng hơn cho nông nghiệp, nông thôn..
Hai là, đội ngũ cán bộ triển khai Chương trình ở các cấp từng bước hiểu việc, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo. Một số địa phương vào cuộc quyết liệt và đạt kết quả tốt trên nhiều mặt, điển hình như An Giang, Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Vĩnh Phúc…
Ba là, xây dựng nông thôn mới đang trở thành phong trào rộng khắp cả nước, bước đầu huy động được sự tham gia của người dân và cộng đồng.
Về mặt hạn chế
Thứ nhất, kiến thức về xây dựng nông thôn mới của đội ngũ cán bộ kể từ các bộ, ngành Trung ương liên quan đến cấp cơ sở đều còn rất hạn chế (nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở rất yếu về kiến thức và phương pháp tổ chức xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã). Nhu cầu đào tạo là rất lớn (khoảng 300.000 lượt) trong khi còn thiếu đội ngũ giảng viên và tài liệu chuẩn. Đây đang là trở ngại lớn nhất cho thực hiện Chương trình.
Thứ hai, công tác tuyên truyền cho nhân dân, nhất là cư dân nông thôn còn chưa “đủ tầm”. Do đó chưa phát huy được đầy đủ vai trò chủ thể của người dân. Nhiều nơi vẫn hiểu nội dung của Chương trình xây dựng nông thôn mới là “Dự án đầu tư”, từ đó thụ động trông đợi sự hỗ trợ của Chính phủ.
Thứ ba, công tác quy hoạch, xây dựng Đề án (Kế hoạch) nông thôn mới của xã theo 19 tiêu chí được coi là điều kiện tiên quyết của Chương trình. Tuy nhiên đến nay, công tác này triển khai còn lúng túng và chậm.
Thứ tư, phát triển sản xuất, tăng thu nhập được coi là gốc của xây dựng nông thôn mới nhưng đang là vấn đề khó nhất trong thực hiện tiêu chí này của Chương trình. Đa số cán bộ chỉ đạo (cả cấp tỉnh, huyện) cũng đều lúng túng, không biết làm gì để chuyển biến được sản xuất “cái gì cũng có nhưng đều rất nhỏ bé”, cần phải chuyển đổi mạnh để dần bước sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Thứ năm, nguồn lực cần thiết cho xây dựng nông thôn mới là rất lớn. Chính phủ đã đưa ra công thức hướng dẫn là vốn đóng góp từ dân khoảng 10%, từ doanh nghiệp 20%, từ tín dụng 30% và từ Ngân sách là 40%. Trong đó, giai đoạn đầu vốn ngân sách đóng vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa tạo đà và tạo niềm tin để huy động các khoản đóng góp khác. Tuy nhiên, vốn ngân sách trung ương hiện còn rất thấp. Nhận thức được vai trò của đầu tư tư nhân là rất quan trọng đối với xây dựng nông thôn mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/NĐ-CP về chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Nhưng sau 5 năm triển khai thực hiện, sự biến chuyển không đáng kể. Các doanh nghiệp đều chưa mặn mà, chưa tin tưởng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Thứ sáu, trong cơ cấu đầu tư xây dựng nông thôn mới, đa phần các xã đều lo tập trung vào xây dựng hạ tầng (có nơi chiếm đến 95% tổng nguồn lực), thường ít chú ý đến đầu tư cho sản xuất và văn hóa.
Đó là những trở ngại lớn trong việc thực hiện triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Do vậy để đẩy nhanh tốc độ đạt được các mục tiêu đề ra của Chương trình thì phải khẩn trương nghiên cứu tháo gỡ, không chỉ đối với những vấn đề thực tiễn cụ thể ở mỗi địa phương mà còn cần phải có nghiên cứu , giải quyết triệt sâu sắc hơn từ khía cạnh cơ sở lý luận.
Một số giải pháp để sớm thực hiện thành công Chương trình xây dựng nông thôn mới
Có thể nói xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân và có tác động rõ rệt đến khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Để quá trình xây dựng nông thôn mới thành công, trong giai đoạn tới, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Một là, cần phải khắc phục ngay sự không thực tế, thiếu tính lý luận và xu thế phong trào hóa trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách xây dựng nông thôn mới cho sát hợp với thực tế.
Cần có cơ chế lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình hỗ trợ có mục tiêu các dự án trên địa bàn nông thôn theo hướng tăng cường phân cấp tối đa cho hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Về lâu dài đề nghị Quốc hội xem xét giảm bớt số lượng các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng tập trung, trọng điểm.
Hai là, cần có những cơ chế tạo điều kiện có sự tham gia trực tiếp của người dân với vai trò chủ thể và các tầng lớp, các tổ chức xã hội, gắn phát triển kinh tế với bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Có như vậy mới bảo đảm nông thôn phát triển bền vững. Việc đó sẽ bảo đảm một không gian kinh tế, văn hóa, xã hội ổn định, sinh thái bền vững cho sự phát triển chung của đất nước, tạo điều kiện cho công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra có hiệu quả, ít tốn kém.
Ba là, cần chú ý tới tính chất đa dạng cả về điều kiện sống, tập quán, tài nguyên… trong xây dựng các mô hình nông thôn mới, không nên khuôn mẫu áp đặt chung cho mọi nơi.
Bốn là, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân, cải thiện môi trường sống, nâng cao sức khỏe con người, phát triển sự nghiệp công ích, bảo đảm trật tự trị an, phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm an sinh xã hội và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước ở nông thôn đúng như mục tiêu của Đảng là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Năm là, tăng cường nguồn lực cho chương trình xây dựng nông thôn mới tương xứng với mục tiêu đề ra. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn khó khăn, sức dân lại có hạn, trước yêu cầu của công cuộc xây dựng nông thôn mới đã được phát động sâu rộng cần có những cơ chế ưu đãi, đủ sức hấp dẫn để mời gọi được nhiều doanh nghiệp về đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhân tố quan trọng trong tổ chức lại sản xuất, liên kết sản xuất, góp phần phát triển bền vững nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới./.
TS. Phạm Tất Thắng
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn