Vì sao cần phải có hệ thống điện quốc gia

mythuatcongnghiepachau.edu.vn sẽ chia sẻ chuyên sâu kiến thức của Vì sao phải có hệ thống điện quốc gia hi vọng nó sẽ hữu ích dành cho quý bạn đọc

Câu hỏi: Tại sao cần phải có hệ thống điện quốc gia?

Câu trả lời:

Cần có hệ thống điện quốc gia vì:

– Hệ thống điện quốc gia đảm bảo sản xuất, truyền tải và phân phối điện năng cung cấp cho các ngành thuộc nhiều lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, … và sinh hoạt.

– Hệ thống điện quốc gia có độ tin cậy cao, chất lượng điện tốt, an toàn và tiết kiệm.

Hãy cùng trường ĐH KD & CN Hà Nội tìm hiểu thêm về hệ thống điện lưới quốc gia nhé!

I. Khái niệm về hệ thống điện quốc gia

– Hệ thống điện quốc gia bao gồm: Nguồn điện, lưới điện và các hộ tiêu thụ điện trên toàn quốc.

– Các phần tử được kết nối với nhau thành một hệ thống để thực hiện quá trình sản xuất, truyền tải và phân phối điện năng.

II. Sơ đồ lưới điện quốc gia

1. Cấp điện áp của lưới điện

– Lưới điện quốc gia có các cấp điện áp như: 800 KW; 500 KW; 200 KW; 110KW; 66 KW; 35 KW; 22 KW; 10,5 KW; 6 KW; 0,4 KW.

– Lưới điện truyền tải từ: 66 KW trở lên.

– Lưới điện phân phối từ: 35 KW trở lên.

2. Sơ đồ lưới điện

Bao gồm: Đường dây, máy biến áp … và các mối liên hệ giữa chúng.

III. Vai trò của hệ thống điện quốc gia: Hệ thống điện quốc gia có vai trò quan trọng

– Đảm bảo sản xuất, truyền tải và phân phối điện năng cung cấp cho các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt.

– Đảm bảo cung cấp và phân phối điện với độ tin cậy cao, chất lượng điện tốt, an toàn và tiết kiệm.

IV. Quá trình hình thành và phát triển của Hệ thống Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT)

Ngược dòng thời gian 120 năm về trước để tìm về cội nguồn lịch sử của ngành Điện Việt Nam. Nhà máy điện đầu tiên ở Đông Dương được khởi công xây dựng tại thành phố Hải Phòng vào năm 1892 và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 2 năm 1894. Hơn 60 năm sau, phải đến ngày giải phóng thủ đô ngày 10 tháng 10 năm 1954, dân tộc Việt Nam mới chính thức làm chủ ngành điện, công suất ban đầu chỉ 31,5 MW, sản lượng điện khoảng 53 triệu chiếc. kWh / năm, đội ngũ kỹ thuật chỉ có 7 kỹ sư điện, 5 kỹ thuật viên của chính quyền cũ ở lại và công nhân của nhà máy điện.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại 1954 – 1975, cùng với thắng lợi của dân tộc, lưới điện Việt Bắc cũng từng bước được xây dựng và phát triển. Năm 1962, những công trình đường dây 110kV đầu tiên của hệ thống điện Việt Nam (Đông Anh – Việt Trì, Uông Bí – Hải Phòng) được khởi công xây dựng và hoàn thành vào năm 1963. Khi đó, ở miền Bắc duy nhất có lưới điện 110kV. Trong 10 năm tiếp theo, có tới 9/12 nhà máy điện miền Bắc được đấu nối bằng hệ thống đường dây 110kV và hệ thống này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ truyền tải điện năng từ nhà máy này sang nhà máy khác. Trung tâm tải.

Với danh nghĩa đền bù chiến tranh, năm 1961, Chính phủ Nhật Bản đã giúp Chính phủ Việt Nam Cộng hòa khởi công xây dựng và năm 1964 đóng điện vận hành đường dây 230 kV Đa Nhim – Sài Gòn dài 257km với 729 cột thép đi qua rất địa hình sông núi hiểm trở. Đây là đường dây 220kV đầu tiên của Việt Nam.

Sau khi đất nước thống nhất, cán bộ, công nhân viên ngành Điện tiếp tục chung sức xây dựng và phát triển hệ thống điện Việt Nam. Đường dây 220 kV Hà Đông – Hòa Bình là đường dây 220 kV đầu tiên của miền Bắc, được khởi công vào tháng 3 năm 1979 và đóng điện vận hành tháng 5 năm 1981, minh chứng cho trình độ, tinh thần và bản lĩnh của những người làm công tác truyền tải điện Việt Nam . Số liệu thống kê cho thấy, hơn 13 năm trước khi ra đời, hệ thống truyền tải điện 500 kV và hệ thống truyền tải điện 220 kV đã phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể như: tổng công suất. số MBA 220kV tăng hơn 5 lần lên 2.305 MVA, tổng chiều dài đường dây 220kV tăng gần 3 lần lên 1.913 km.

Ngày 5/4/1992, khởi công xây dựng đường dây 500kV mạch 1 và đến ngày 27/5/1994 thì khánh thành, đóng điện và vận hành. Lần đầu tiên trong lịch sử, hệ thống điện Việt Nam có “đường trục” 500kV chạy suốt từ Bắc chí Nam sau 2 năm thi công thần tốc.

Tiếp nối kỳ tích mạch 1, ngày 23/10/2005, đường dây 500 kV Bắc – Nam mạch 2 tiếp tục được hoàn thành và đưa vào vận hành, đảm bảo hệ thống truyền tải điện 500 kV mắc hai mạch song song, tạo liên kết vững chắc, an toàn và tin cậy. vận hành Hệ thống truyền tải điện Quốc gia. Việc xây dựng và vận hành thành công Hệ thống truyền tải điện 500 kV Bắc Nam mạch 2 đã đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của ngành Điện Việt Nam trên các lĩnh vực nghiên cứu, khảo sát, thiết kế, xây dựng và quản lý. quản lý hoạt động và hợp tác quốc tế.

Cùng với sự phát triển của hệ thống truyền tải điện, sự hình thành và phát triển của 4 Công ty Truyền tải điện 1, 2, 3, 4 từ ngày đầu thành lập đến nay là một trong những minh chứng rõ nét nhất về hệ thống truyền tải điện. sự lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, công nhân truyền tải điện cả về số lượng và chất lượng.

Trước năm 1981, cả nước chỉ có 02 đường dây 220kV và 02 trạm biến áp 220kV. Đến nay, lưới điện truyền tải điện do ENNNPT quản lý đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và công nghệ với tổng số hơn 18,960 km đường dây, trong đó có 6.737 km đường dây 500kV, 12,185 km đường dây 220kV và 42 km đường dây 110kV. ; 102 trạm biến áp, trong đó có 21 trạm biến áp 500kV, 80 trạm biến áp 220kV và 01 trạm biến áp 110kV, với tổng công suất máy biến áp là 54.676 MVA. Lưới điện truyền tải quốc gia đã đến 61/63 tỉnh, thành phố trong cả nước và từng bước được kết nối với lưới điện truyền tải các nước trong khu vực, với công nghệ ngày càng hiện đại như đường dây đa mạch, nhiều cấp điện áp, cáp ngầm cao áp 220 kV, Trạm GIS 220kV, hệ thống điều khiển tích hợp máy tính, bộ định vị sự cố, giám sát dầu trực tuyến, hệ thống SCADA …

Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội

Chuyên mục: Lớp 12, Công nghệ 12