Văn hóa tộc người và các đặc trưng cơ bản của tộc người?

Tộc người (Ethnic) là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá văn hóa, có mối quan hệ nguồn gốc, có chung ý thức tự giác tộc người và tên tự gọi. …

1. Khái niệm về tộc người

– Tộc người (Ethnic) là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá văn  hóa, có  mối  quan hệ nguồn gốc,  có chung ý thức tự  giác tộc người và tên tự gọi.

– Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một  cộng người có  chung  tiếng mẹ đẻ. Như vậy, tộc người tương đương với  nhóm ngôn  ngữ hay với  nhóm dân tộc – ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo  nghĩa này, tộc người là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau và có chung các đặc điểm về văn hoá mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đây  đó trên thế giới có cùng một ngôn ngữ mẹ đẻ song lại cách xa nhau về nhiều  mặt,  như về mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia khác nhau), về mặt chủng tộc (thuộc các nguồn  gốc  khác nhau)… thì liệu  họ có  cùng  một tộc người kg, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng một ngôn ngữ, hay họ là một tộc người được chia ra làm nhiều tộc người nhỏ…

 Văn hóa tộc người và các đặc trưng cơ bản của tộc người?

– Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết  với nhau bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt: nhân  chủng,  ngôn  ngữ, chính trị,… Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc mang tính văn hoá chủ yếu – một nền  văn hoá riêng biệt.  Nói  một  cách ngắn  gọn, tộc người là một tập thể hay đúng hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó  với nhau bởi một nền văn hoá riêng biệt. Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc người có thể phát triển không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc người của mình.

2. Văn hóa tộc người và đặc điểm của văn hoá tộc người

2.1 Tính khép kín, biệt  lập  

Tính khép kín là đặc tính chung của các làng tiểu nông. Trước hết về mặt địa lý, các tộc người cư trú rải rác trên sườn núi, giao thông đi lại  rất  khó  khăn  nên  càng tăng thêm tính biệt lập của tộc người. Tộc người chỉ  bao  gồm từ một  đến  vài  ba dòng họ, các dòng họ này cư trú thành chòm xóm nên tạo ra sự xé lẻ của tộc đặc biệt, về thành phần tộc người.  Tính khép kín của tộc người được đề cao. Kinh tế  tộc người  là kinh tế tự cung tự cấp. Một  tộc nười cổ truyền có thể sản xuất ra tất  cả các nhu  yếu phẩm chỉ trừ muối và sắt. Kinh tế tộc người ít có sự trao đổi, mà lại khép kín trong làng nên nhu cầu giao lưu kinh tế ít có điều kiện phát triển. Do đó quá trình  hình thành chợ vùng cao rất khó khăn. Những chợ sầm uất đông, có nhiều sản phẩm cũng là những chợ ở vùng biên giới (Phong Thổ – Lai Châu  và  Pha Long  –  Bắc Hà – Lào Cai). Còn các vùng Tây Bắc chỉ mới thành lập được vài ba chục năm nay.

2.2 Quản lý làng bằng cơ chế kết hợp giữa mệnh lệnh hành chính của chính quyền với tập quán pháp 

và hương ước của tộc.

Trưởng tộc do dân bầu nhưng phải được thống lý chứng  nhận.  Trưởng  tộc  muốn quyết định những điều hệ trọng của làng phải tham khảo ý kiến của các già làng. Như vậy, cơ chế vận hành của làng, quyền lực của chính  quyền  và tính tự trị của làng. Sự ràng buộc người dân trong làng đều thông qua “luật” và “lệ”. Tuỳ theo từng lĩnh vực, người dân phải thiên về “luật” hoặc “lệ” nhiều hơn.  Khi  thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, đi lao dịch kiện cáo… thì người dân  phải dựa và  “luật”. Nhưng  khi lao động công ích, ứng xử giao tiếp hàng ngày, người dân đều dựa  vào  các  chuẩn mực của tập quán pháp và hương ước. Tuy nhiên các làng Hmông thường xa các trung tâm hành chính nên tính tự trị của làng cao. Và nhiều  khi “phép vua thua   lệ làng”.

2.3 Quan hệ dòng họ, quan hệ huyết thống nổi trội và nhiều khi chi phối quan hệ láng giềng

Sự phân bố các  khu xóm,  ngõ trong tộc người đều dựa theo nguyên tắc cùng dòng họ, cùng huyết thống. Mỗi dòng họ cư trú một chòm xóm riêng. Hệ thống tín  ngưỡng,  qui  ước của dòng họ  khá phong phú. Trong các lễ thức diễn ra ở tộc người, lễ thức cộng đồng dòng họ,  gia đình phát triển hơn lễ thức của cộng đồng làng.  Mọi  ứng  xử  trong làng  bên cạnh vấn đề dựa theo chuẩn mực của cộng đồng làng còn phải dựa theo chuẩn mực của dòng họ. Dư luận của làng nhiều khi không thống nhất  mà  còn có nhiều luồng đại diện cho các dòng họ khác nhau. Và quan hệ dòng họ còn vượt lên trên phạm vi cộng đồng làng, tạo thành sợi dây vô hình cố kết tộc người.  Tuy nhiên,  về các qui ước chung của làng xã, mọi thành viên  thuộc  dòng họ khác  nhau  trong làng của phải tôn trọng. Có như vậy quan hệ làng mới tồn tại không bị phá vỡ.

2.4 Thiếu tính ổn định

Nếu như các làng cư dân ruộng nước Tày, Thái, Giáy rất ổn định thì trái lại, làng của  người Hmông cổ truyền luôn gắn liền với vấn đề du  canh  du  cư. Bình  quân  một làng Hmông chỉ tồn tại từ 25 đến 30 năm là xảy ra sự chuyển cư một bộ phận dân  làng hoặc  cả làng. Nguyên nhân chính là do đất canh tác gần làng cạn  kiệt, nương  rẫy lại rất chật hẹp không đủ nuôi sống điểm dân cư đông đúc. Do đó qui mô  của  làng chỉ nhỏ, sức ép dân số tăng, tất yếu sẽ dẫn đến du canh. Người H’mông phải du canh dẫn đến du cư. Tính chất du cư thể hiện đậm nét ở làng Hmông. Đó là hệ thống nhà cửa  không kiên  cố.  Nơi ở  mật tập, ít chú ý đến các công trình chung.  Hầu hết các gia đình H’mông không có vườn. Kinh tế  vườn  không phải là ngành kinh tế truyền thống của người  H’mông.  Do đó  địa điểm lập làng chỉ thiên  về nơi có khả năng canh tác truyền thống (phát rừng làm nương rẫy),  gần nơi canh tác chứ  ít chú ý đến vấn đề giao thông. Làng thiếu ổn định nên  tạo ra nếp sống  giản  đơn,  tạm bợ đối với người H’mông. Kiến trúc ngôi nhà hầu hết là làm kiểu nhà ngoãm. Chuồng gia súc, gia cầm ở ngày sát nơi ở của người H’mông.  Ngay đến nới sinh  hoạt tôn giáo, nơi thờ thần bản  mệnh  của người  Tày,  Việt  là ngôi Đình.  Còn nơi thờ thần “thổ địa” của người H’mông chỉ là  tảng  đảng đá  to,  hốc  cây trong khu rừng cấm. Ngày lễ “nào xồng” của làng được diễn ra trên bãi cỏ trong rừng. Còn  ngày hội “Gầu tào” của làng được tổ chức ngay sườn đồi, một khu  đất  tương đối bằng phẳng. Nhìn chung làng chưa có những kiến trúc công cộng đẹp, có qui mô.

3. Đặc trưng cơ bản của tộc người

– Để nhận thức chính xác và sâu sắc hơn về tộc người hay nhóm tộc người (group ethnique), điều quan trọng là phải hiểu được những đặc điểm của các yếu tố cấu thành của nó. Về vấn đề này, chúng ta có thể tiếp cận các yếu tố đặc trưng sau:

3.1 Yếu tố nhân chủng

Đây là yếu tố nền tảng của việc xác định nguồn gốc tộc người. Căn cứ vào yếu tố này chúng ta có thể xác định được các tộc người được sinh ra từ những bộ phận  nào của nhân  loại;  chúng xuất hiện  khi nào  và hoà nhập vào nhau ra sao… Khi căn cứ vào  yếu  tố đặc trưng này,  điều  quan trọng là phải nc các thành phần lịch sử khác nhau của cư dân trong tộc người, chứ không phải chỉ là thu thập và phân tích các dữ liệu nhân chủng trực quan. Những thành phần cư dân ít nhiều có tính nguyên gốc, cùng với những thành phần cư dânđóng góp về sau làm thành cơ sở cho qt phát  triển  tộc  người.  Các  phương hướng pha tạp, kết hợp kế cận hay chồng chéo của các thành  phần  cư dân sẽ soi  sáng cho tình trạng hiện tại của tộc người.

3.2 Yếu tố dân số

Bất cứ tộc người nào cũng đều được xác định bằng số lượng người mà nó tập hợp. Chính vì  vậy, những số liệu thống kê  về  dân số là đặc biệt  quý giá để đo lường cả về mức độ tiến hoá của tộc người. Mặt hhác, chúng còn soi sáng cả về quá trình phát sinh, phát triển hay triển vọng của tộc người.

3.3 Yếu tố ngôn ngữ

Ngôn ngữ là tiêu  chí cơ  bản  để  phân  biệt tộc người này  với tộc người khác. Nó là sợi dây liên hệ đặc biệt giữa  các thành  viên  của  tộc người. Ngôn ngữ vừa là dấu hiệu bên ngoài, vừa là một  yếu  tố cấu kết  bên  trong  của cộng đồng tộc người. Nó là sở hữu chung, tài sản chung của tộc người, là phương tiện chuyển tải nền văn hoá của tộc người.

3.4 Yếu tố lãnh thổ

Với tư cách là một xã hội toàn vẹn và tự lập, mỗi tộc người  đều chiếm một phần lãnh thổ riêng trên bề mặt trái đất. Lãnh thổ là cái  khung vật  chất mà trong đó tộc người được cố định, thích nghi và cải  biến  môi  trường tự nhiên. Lãnh thổ của các tộc người có sự khác nhau về hình thức  và tuỳ thuộc  vào khả năng và cung cách sinh sống của họ.

3.5 Yếu tố phương thức sản xuất

Mỗi tộc người đều hình thành trong nó một lối sống nhất định. Lối sống đó phụ thuộc vào  môi  trường thiên  nhiên,  phương thức  sản xuất của riêng nó. Đó là công nghệ, tri  thức,  tín  ngưỡng,…Phương thức  sản xuất có khả năng chấn chỉnh lại lối sống tổng thể. Phương thức sản xuất là cái dễ  biến đổi, nhưng là cái làm cho mỗi tộc người mang đặc trưng riêng, làm cho nó trở thành thuần nhất có cấu trúc riêng và phân biệt nó với các tộc người khác.

3.6 Yếu tố văn hoá và ý thức tộc người

Tộc người, với tư cách  là công động người, tồn tại trên lãnh thổ của mình, có những nét độc đáo về văn hoá. Theo nghĩa rộng, văn hoá của tộc người là những cái “phi vật chất” bao gồm những di sản tinh thần của cộng đồng tộc người dưới tất cả các hình thức của nó. Nó  dựa trên  cái giá đỡ đặc biệt là ngôn ngữ. Bất cứ một thành viên nào của tộc người mà về mặt tinh  thần được hình thành trước hết bởi ngôn  ngữ thì  đều có  thể  hoàn thiện thế giới  quan của mình thông qua sự thanh lọc của văn hoá tộc người. Điều  này tạo  cho  thành viên đó một nhân cách cơ sở mà trong nhiều trường hợp, anh ta không ý thức được. Nó tạo cho anh ta một tập hợp những tri giác, tình cảm và sự nhận biết về giá  trị chung của cộng đồng tộc người. Đó chính là ý thức tộc người.

3.7 Yếu tố cơ sở kinh kế tộc người

Do cùng sinh sống trên một khu  vực lãnh thổ đã hình thành nên cách ứng xử giống nhau trong sinh hoạt kinh tế, tạo ra một cơ sở kinh tế chung của tộc người.  Từ đó, hình thành  và phát triển các mối liên hệ, quan  hệ kinh tế nội bộ tộc người. Mối liên hệ kinh tế là một trong những điều  kiện  để  xuất hiện tộc người (cùng với lãnh  thổ), là chất  keo cố kết tộc người. Cơ sở kinh  tế là đặc trưng, là nguyên nhân, điều kiện cho phát  sinh, tồn tại  của các loại hình thị  tộc – bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự thay đổi các mối quan hệ và  liên  hệ kinh  tế tộc  người làm thay đổi các hình thái kinh tế – xã hội  và ra đời các loại hình cộng đồng  tộc người khác nhau.

3.8 Có các đặc trưng văn hóa tộc người

Quá trình sinh tồn, ứng xử của  con  người với tự nhiên và xã hội đã tạo ra các đặc trưng văn hóa riêng  của từng tộc  người và trở thành bản sắc tộc người. Văn hóa tộc người thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao giờ cũng mang cốt cách, bản sắc riêng, phân biệt với văn hóa các tộc người khác. Đặc trưng văn  hóa truyền  từ đời  này sang đời  khác tạo sự cố kết tộc người, là yếu tố phân biệt tộc người sâu sắc nhất nên văn hóa là tiêu chí quan trọng nhất để xác định tộc người.

Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật Minh Khuê