Tuyên giáo An Giang

I. Văn hóa, văn nghệ một phương thức tác động tư tưởng có hiệu quả

1. Khái niệm văn hóa – văn nghệ, công tác văn hóa – văn nghệ

1.1. Văn hóa là một lĩnh vực rất rộng lớn, phong phú và đa dạng

Pufendorf – nhà khoa học Đức, người đầu tiên sử dụng thuật ngữ văn hóa đã cho rằng, văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên.

Tiếp tục ý tưởng đó, nhà triết học Đức, Herder (1744 – 1803) cho rằng, văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người, nghĩa là, lần thứ nhất, con người xuất hiện với tư cách một thực thể sinh vật tự nhiên, đến lần thứ hai, con người hình thành và phát triển với tư cách là một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa.

Năm 1871, E.B.Taylor – người góp phần khẳng định ngành văn hóa học như một khoa học, đã đưa ra định nghĩa: văn hóa là một thực thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và mọi khả năng, thói quen mà con người với tư cách là thành viên xã hội đạt được.

Năm 1982, tại Mêhicô, Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa vì sự phát triển đã thông qua tuyên bố Mêhicô cho rằng: “Theo nghĩa rộng, ngày nay văn hóa có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà còn cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.

Phạm vi của văn hóa hết sức rộng lớn, có mặt trong toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội và đời sống con người. Đồng chí Phạm Văn Đồng – nhà văn hóa lớn của đất nước ta ở thế kỷ XX, cho rằng: Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong một quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhậy cảm và sự tiếp thu  cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh các cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) đã nhấn mạnh: làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người,  tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

1.2. Khi đặt văn hóa trong một giai đoạn cụ thể của đời sống xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Tám lĩnh vực cụ thể mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đề cấp đến chính là chỉ ra nội hàm của văn hóa trong các quan hệ với kinh tế, chính trị, xã hội và cùng với các lĩnh vực trên, tạo nên sự phát triển toàn diện của xã hội mà chúng ta đang xây dựng – xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Với cách tiếp nhận của Nghị quyết Trung ương 5, văn hóa bao hàm cả giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, nghệ thuật. Mặc dù có những đặc trưng riêng, công tác tư tưởng cũng nằm trong phạm trù văn hóa, là một bộ phận quan trọng, đồng thời là hạt nhân của hoạt động văn hóa mang ý nghĩa xã hội và nhân văn.

Theo nghĩa hẹp hơn, được sử dụng thông thường và khá phổ biến, khi tách giáo dục, khoa học ra thành các lĩnh vực, các ngành có đặc trưng riêng, văn hóa chủ yếu còn được coi là các loại hình hoạt động cụ thể của ngành văn hóa như: bảo tồn, bảo tàng, thư viện, xuất bản, báo chí, đời sống văn hóa cơ sở, lễ hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng… và các loại hình sáng tạo văn học, nghệ thuật – một lĩnh vực được coi là đặc biệt tinh tế, mang tính sáng tạo và bước phát triển cao của văn hóa. Ý nghĩa thực tiễn của cách hiểu này là nhằm làm cơ sở xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của ngành văn hóa ở nước ta hiện nay, từ Trung ương đến cơ sở. Khi nói công tác văn hóa – văn nghệ thường được hiểu cụ thể theo các phạm vi, nội dung trên.

2. Vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống văn hóa xã hội

2.1. Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống của con người

Lịch sử loài người đã khẳng định rằng con người có hai nhu cầu lớn nhất: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần và con người luôn luôn lao động, đấu tranh, sáng tạo để thoả mãn các nhu cầu đó của mình. Song, đặc trưng riêng biệt nhất của con người chính là nhu cầu tinh thần, là khát vọng đạt tới sự phong phú, cao đẹp của thế giới tinh thần, tâm hồn, vượt lên theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.

Văn hóa là lĩnh vực sản xuất tinh thần như nhận định của C.Mác, tạo ra những giá trị văn hóa, những tác phẩm và công trình nghệ thuật làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống con người. Khác với lĩnh vực sản xuất vật chất, lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra các giá trị đặc biệt, khi được nhân dân khẳng định, nó trở thành những công trình có sức sống lâu dài, trường tồn với thời gian, không bị cũ, lạc hậu mà giữ gìn, bảo tồn, khai thác và phát huy mãi mãi là sự thể hiện bản sắc, đặc trưng, những vẻ đẹp độc đáo, của một cộng đồng, của một dân tộc.

2.2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế –  xã hội

Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống, xã hội thì văn hóa là nền tảng của đời sống ấy. Vì vậy, hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa luôn luôn giữ vị trí quan trọng, quyết định đối với thực trạng, sự vận động và phát triển của xã hội. khắc phục tình trạng coi nhẹ văn hóa, đối xử với văn hóa như một lĩnh vực phụ; “phi sản xuất” hoặc coi trọng trong văn bản, Nghị quyết, lời nói, nhưng coi nhẹ trong thực tiễn và việc làm cụ thể.…

“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển 2011)” vừa được Đại hội lần thứ XI của Đảng thông qua đã khẳng định “làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.

Một dân tộc sáng tạo ra văn hóa của mình và đến lượt nó, chứa đựng trong nền văn hóa đó là sức sống, tiềm năng, bản lĩnh, sức sáng tạo và bản sắc của chính dân tộc đó. Với vai trò là động lực thúc đấy sự phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa có khả năng to lớn khơi dậy, nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển của đời sống xã hội.

Là động lực của sự phát triển, văn hóa còn thể hiện ở khả năng điều tiết, điều chỉnh các khuynh hướng, chiều hướng phát triển của xã hội và con người. Trong sự liên hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau giữa các hoạt động rất đa dạng của đời sống, chúng ta cần phải hiểu rằng, văn hóa vừa là một thành tố gắn bó khăng khít, vừa là thước đo trình độ phát triển của các lĩnh vực khác và của toàn xã hội. Do đó, với tư cách là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển ngày càng cao của con người và xã hội.

Trong các lý thuyết về phát triển một quan niệm được khẳng định hiện nay là coi mục tiêu phát triển phải thể hiện ở sự nâng cao chất lượng sống của con người với việc đảm bảo sự hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp, không chỉ cho thiểu số mà phải cho đại đa số quần chúng và người lao động. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) chỉ ra rằng: “xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”.

Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn quan tâm đến văn hóa và càng coi trọng hơn trong thời kỳ đổi mới, nhất là trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X; các kết luận, chỉ thị của Hội nghị Trung ương các khóa trên đều thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng trong nhìn nhận, đánh giá, chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, gắn chặt với chiến lược xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo hướng đó, văn hóa phải thực sự trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, đồng thời đòi hỏi một cơ chế chính sách đảm bảo cho văn hóa và kinh tế cùng phát triển.

Sự kết hợp kinh tế với văn hóa, văn hóa với phát triển đang là yêu cầu bức xúc của tất cả các quốc gia, dân tộc hiện nay. Theo nhận định của F.Mayor – nguyên Tổng giám đốc UNESCO: “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều”.

2.3. Văn hóa giữ vai trò cực kỳ quan trọng và trực tiếp trong nhiệm vụ xây dựng con người

Mục tiêu cao nhất của sự sản xuất tinh thần, lĩnh vực đặc thù của văn hóa, là xây dựng nên hệ thống các giá trị làm chuẩn mực cho con người vươn tới, noi theo. Đó chính là một trong những sứ mệnh cao quý nhất của văn hóa. Nghị quyết 23-NQ/TW gần đây nhất của Bộ Chính trị “về xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” khẳng định: văn học, nghệ thuật là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh thiên chức riêng biệt của văn hóa, văn nghệ là bám sát đời sống con người, miêu tả và khám phá con người, bảo vệ và khẳng  định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời, chiến thắng của xã hội mới.

Chính do vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa trong đời sống xã hội, đồng thời do văn hóa luôn luôn có mặt trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của xã hội và con người nên cần phải biết phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, làm cho các nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi phương diện của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng và công tác tư tưởng.

3. Chức năng tư tưởng của văn hóa – văn nghệ

Văn hóa giữ vai trò cực kỳ quan trọng và trực tiếp trong nhiệm vụ xây dựng con người, cũng có nghĩa là xác nhận vai trò to lớn và có vị trí đặc biệt của văn hóa trong công tác và hoạt động tư tưởng… Như vậy, cũng có nghĩa là hoạt động văn hóa – văn nghệ và công tác tư tưởng có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ vì đều là công việc trực tiếp với con người. Trong quan hệ đặc thù này, văn hóa – văn nghệ trở thành một sức mạnh, một phương thức độc đáo, có hiệu quả của công tác tư tưởng.

Nội dung tư tưởng này là hạt nhân, là cốt lõi, là yếu tố xuyên thấm trong các sản phẩm văn hóa, đặc biệt là sản phẩm văn hóa tinh thần nói chung và các tác phẩm văn học nghệ thuật nói riêng.

Trong tất cả các chức năng cơ bản của văn hóa như nhận thức giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, dự báo, giải trí – cùng với sự tác động đồng bộ, toàn diện đến con người, thoả mãn các nhu cầu đa dạng, rất khác nhau của con người – đều chứa đựng những nhân tố có sức tác động trực tiếp đến tư tưởng, bằng cách này hay cách khác, ở mức độ này hay mức độ khác. Vì vậy, yêu cầu không ngừng nêu cao và khẳng định nội dung tư tưởng của văn hóa, của các sản phẩm và hoạt động văn hóa – văn nghệ không chỉ là định hướng chính trị cơ bản trong công tác văn hóa – văn nghệ trước cuộc đấu tranh tư tưởng – văn hóa đang diễn ra ngày càng gay gắt và phức tạp hiện nay, mà còn là một nhu cầu của chính văn hóa để tạp ra được các giá trị văn hóa theo đúng vai trò và chức năng nó đảm nhận trước xã hội.

Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định: “văn hóa, văn học, nghệ thuật là một trong những động lực to lớn trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”.

II. Quan điểm của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

1. Những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa – văn nghệ được hình thành và phát triển trong quá trình thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc ta từ năm 1930 đến nay

1.1. Quan điểm nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hóa của Đảng ta từ năm 1930 đến nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh: văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy, đã làm nên một bước ngoặt cho toàn bộ tiến trình văn hóa Việt Nam, làm cho nền văn hóa mới và những người sáng tạo, hoạt động trên lĩnh vực văn hóa đó trở thành một sức mạnh, một lực lượng to lớn, một bộ phận hữu cơ, gắn bó máu thịt với toàn bộ sư nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc ta.

Năm 1986 đến nay, Đảng ta nhấn mạnh văn hóa, văn nghệ là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời tiếp tục nhấn mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.

1.2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nó hoặc không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa phát triển kinh tế với mục tiêu cuối cùng là văn hóa (dân chủ, công bằng, văn minh con người phát triển toàn diện…) thì không thể có sự phát triển bền vững của xã hội.

1.3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất, nhưng đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phát triển các giá trị độc đáo và sắc thái riêng của văn hóa 54 dân tộc anh em sống trên đất nước ta để bổ sung, làm phong phú, tạo nên vẻ đẹp đa dạng và thống nhất của nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

1.4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

1.5. Văn  hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Quan điểm này khẳng định lại yêu cầu nâng cao tính chiến đấu của văn hóa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa xây và chống, lấy xây làm chính. Đồng thời chỉ ra tính đặc thù cần nắm vững và thấu hiểu trên mặt trận này (lâu dài, ý chí, kiên trì, thận trọng phải biết kết hợp biện chứng, chặt chẽ).

2. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

2.1. Luận điểm “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”

Trong Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta xác định nền văn hóa mới có ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Đồng thời chỉ rõ đó là nền văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Đến Đại hội III, Đảng ta đã phát triển thành luận điểm, xây dựng nền văn hóa với nội dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc. Đại hội IV xác dịnh và bổ sung nền văn hóa với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Hơn 10 năm sau, trong Nghị quyết Trung ương 5 của Bộ Chính trị (khóa VI) nêu nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc.

Từ Đại hội VII đến nay, từ thực tiễn rất phong phú, với những nỗ lực tổng kết thực tiễn và xây dựng một quan niệm hoàn chỉnh về văn hóa để chỉ đạo giai đoạn mới, Đảng ta đề xướng luận điểm: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”…

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung và phát triển trong năm 2011 đã nêu lên định hướng về văn hóa: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

Về đặc trưng của xã hội XHCN ở nước ta, Cương lĩnh 2011 đã khẳng định: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

– Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

 – Do nhân dân làm chủ;

– Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất (QHSX) tiến bộ phù hợp;

– Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

– Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;

– Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;

– Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;

– Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Cả nước hiện có 127 bảo tàng; có hơn 4 vạn di tích đã được kiểm kê; 11 di sản được UNESCO vinh danh là di sản thế giới (trong đó có 6 di sản văn hóa vật thể và 5 di sản văn hóa phi vật thể).

2.2. Phẩm chất tỉên tiến của nền văn hóa Việt Nam

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã khái quát những phẩm chất, nội dung cơ bản của tiên tiến là “yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện trong các phương tiện chuyển tải nội dung”.

– Một nền văn hóa tiên tiến trong tất cả sự phong phú của nó, bao giờ cũng dựa trên và gắn liền với tính chất tiên tiến, tiến bộ của một hệ tư tưởng triết học và một lý tưởng xã hội – đạo đức mà dân tộc và nhân dân đã lựa chọn. Từ quan điểm đó, đặc trưng yêu nước và tiến bộ được khẳng định là phẩm chất quan trọng của tiên tiến.

– Yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc và của văn hóa Việt Nam. Đây là một trong những yêu cầu cao nhất, sâu sắc nhất đối với nền văn hóa tiên tiến của chúng ta… Ở đây chính là yêu cầu gắn bó chặt chẽ, hài hoà giữa lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trở thành nội dung cốt lõi của nền văn hóa trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn hóa của chúng ta là những giá trị bền vững, những tinh hoa của văn hóa dân tộc, của truyền thống dân tộc cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong giai đoạn hiện đại của dân tộc ta.

Tiến bộ, một phẩm chất đặc trưng của văn hóa tiên tiến, phải được hiểu trước hết là sự gắn bó của nền văn hóa đó với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng, đối với văn hóa Việt Nam hoạt động. Hệ tư tưởng đó hính là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trước sự tác động hết sức phức tạp của các hệ tư tưởng thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quan điểm trên đây của Đảng ta là một đòi hỏi cao đối với văn hóa và những người sáng tạo, hoạt động văn hóa. Vì vậy, quan điểm đó phải được quán triệt trong toàn bộ hoạt động văn hóa, trong việc định hướng đúng đắn và nâng cao chất lượng, hiệu quả cũng như khả năng sử dụng, phát huy văn hóa phục vụ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

– Nền văn hóa tiên tiến là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, mà trước hết là sự tôn trọng con người, tất cả vì con người, có khả năng góp phần trực tiếp tạo ra được con người phát triển tự do, toàn diện hài hoà giữa cá nhân với cộng đồng, giữa con người với xã hội và tự nhiên. Với lý tưởng xã hội và thẩm mỹ trên, nền văn hóa tiên tiến được phát triển phong phú, mở rộng đề tài và chủ đề phản ánh, đa dạng hóa các phương thức biểu hiện, phát triển tự do, hài hoà tất cả các lĩnh vực của văn hóa.

– Nói đến một nền văn hóa tiên tiến là nói đến phẩm chất hiện đại của nó. Nó phải dựa trên cơ sở và gắn bó chặt chẽ với trình độ phát triển của nền kinh tế, của khoa học kỹ thuật, công nghệ và của trình độ dân trí ngày một nâng cao.

2.3. Về bản sắc dân tộc của nền văn hóa

Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hoà quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa đó, vì vậy, không thể tách rời chúng trong thực tiễn.

Như vậy, nền văn hóa tiên tiến phải mang cái riêng, cái độc đáo của truyền thống, đặc tính, cốt cách và tâm hồn dân tộc. Nó không thể bị hoà lẫn với nền văn hóa khác và nó hoàn toàn xa lạ với sự lai căng, bắt chước, học đòi để đánh mất đi bản sắc, tính độc đáo của dân tộc mình. Điều đó có nghĩa là, bản sắc dân tộc không dừng lại ở những biểu hiện bề ngoài, hình thức, mà thực chất là biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, phát triển và tính đặc thù độc đáo của dân tộc.

– Bản sắc dân tộc của nền văn hóa được tạo nên bởi những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng động các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước…

– Bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam còn biểu hiện rất rõ ở tính thống nhất mà đa dạng cả văn hóa các cộng đồng dân tộc Việt Nam…

– Bản sắc dân tộc của nền văn hóa còn gắn chặt với khả năng khai thác, sử dụng, phát huy, tiếp nhận có chọn lọc và phát triển những phương thức, phương tiện, loại hình, thể loại các hình thức biểu hiện hết sức đa dạng và phong phú trong truyền thống văn hóa dân tộc.

– Bảo vệ, giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa không đồng nghĩa với việc đóng cửa, thu mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc phục hồi những gì đã lỗi thời, lạc hậu trong đời sống văn hóa của dân tộc… Mặt khác, cần tỉnh táo, kiên quyết chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại, những quan điểm cực đoan về tự do cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, lối sống hưởng thụ ích kỷ…

Đó là con đường để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc, từ đó góp một tiếng nói riêng vào đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Chỉ có như vậy mới tránh được nguy cơ nóng bỏng hiện nay trên thế giới về sự đồng hóa các hệ thống giá trị và chuẩn mực, tức là nguy cơ tha hóa về văn hóa và chống lại âm mưu “xâm lăng về văn hóa” của các nước và các thế lực thù địch.

III. Phát huy vai trò của công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn hiện nay

1. Công tác tư tưởng là một bộ phận hữu cơ, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, hiệu quả của công tác tư tưởng là hiệu quả của tổng hợp, tác động vào con người đồng thời cả lý trí và tình cảm, nhận thức và cảm xúc, tư duy và tâm hồn do tính chất đa dạng, phong phú của các mặt, các loại hình thức, các binh chủng hoạt động tư tưởng tạo nên. Điều đó cũng có nghĩa là, mỗi loại hình, mỗi binh chủng đó có những đặc trưng và ưu thế riêng, từ đó con đường riêng và phương thức đặc thù tác động đến con người.

Những phân tích trên là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy vai trò, sức mạnh, đặc trưng của văn hóa – văn nghệ trong công tác tư tưởng.

2. Hoạt động văn hóa với rất nhiều loại hình đa dạng của nó và hoạt động văn học, nghệ thuật – lĩnh vực đặc biệt tinh tế nhạy cảm của văn hóa, luôn là môi trường độc đáo, giữ vị trí đặc biệt và làm phong phú, sinh động cho toàn bộ hoạt động của công tác tư tưởng.

Để phát huy cao nhất vai trò của văn hóa – văn nghệ trong công tác tư tưởng, trước hết là công việc của sự chỉ đạo, định hướng đúng đắn cho sự phát triển của văn hóa, văn nghệ, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong việc này… Trong cuộc đấu tranh ngày càng diễn ra phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, nhiệm vụ kiên trì giữ vững những định hướng cơ bản của Đảng trong quá trình xây dựng nền văn hóa – nghệ thuật trở nên cực kỳ quan trọng và cấp thiết. Đồng thời phải kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm lệch lạc, sai lầm trong lĩnh vực văn nghệ và loại bỏ những văn hóa phẩm độc hại đang đầu độc con người về tinh thần, tình cảm.

Có sản phẩm văn hóa – văn nghệ tốt. Các sản phẩm của văn hóa – văn nghệ luôn luôn là thành tố hữu cơ, luôn luôn có mặt trong mọi hoạt động tuyên truyền, cổ động, giáo dục. Trong thực tiễn hoạt động, chúng ta đã có nhiều phương thức sử dụng văn hóa, văn nghệ phục vụ cho mục tiêu của công tác tuyên truyền, cổ động giáo dục như:

– Sử dụng các tác phẩm, các dẫn chứng của văn nghệ để chuyển tải, chứng minh, khẳng định cho một nội dung, một chủ đề của hoạt động tư tưởng.

– Sử dụng văn hóa, văn nghệ là một nhân tố bổ trợ cho hoạt động tư tưởng, như: tổ chức đi tham quan di tích lịch sử, văn hóa, tìm hiểu bảo tàng, truyền thống, thăm và chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ…

– Sử dụng các chương trình biểu diễn nghệ thuật (chuyên nghiệp hoặc quần chúng) có mục tiêu, theo một chủ đề phục vụ cho hoạt động tư tưởng.

– Tổ chức các đội hoạt động văn hóa của quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa văn nghệ và tuyên truyền, xây dựng các chương trình gắn chặt với mục tiêu và nội dung tuyên truyền, thông qua ưu thế và cách biểu hiện của văn học, nghệ thuật để chuyển tải sinh động, nhẹ nhàng đến quần chúng. Các đội tuyên truyền viên trẻ… ở các địa phương, các ngành đang phát huy hiệu quả phương thức hoạt động này.

– Xây dựng các chương trình tổng  hợp, tạo những “sân chơi” cho từng nhóm quần chúng, trong đó biết kết hợp sinh động các loại hình văn hóa, văn học, nghệ thuật phù hợp vơi sở thích, tâm lý của từng loại đối tượng, đưa họ trở thành người làm chủ, người trong cuộc, trực tiếp tham gia sân chơi, không còn là người tiếp nhận thụ động, ngoài cuộc.

Để tạo được sự kết hợp trên, có nhiều đòi hỏi đối với người làm công tác tư tưởng. Trước hết là sự am hiểu tường tận từng lĩnh vực trong cả sự thống nhất và tính đặc thù của chúng để từ đó hướng sự đa dạng cùng đi tới một mục tiêu là giáo dục, xây đắp con người. Trong tổ chức, đòi hỏi khả năng hợp đồng tác chiến nhịp nhàng. Đó là con đường phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng trong công tác tư tưởng – văn hóa hiện nay.

IV. Chức năng và những nhiệm vụ chủ yếu của công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn

1. Chức năng tham mưu của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trong công tác văn hóa, văn nghệ

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy có chức năng tham mưu giúp Tỉnh ủy hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, văn nghệ trên địa bàn. Được ủy quyền của Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo tỉnh có chức năng chủ trì hoặc phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể thuộc lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Với chức năng cơ bản trên, Ban Tuyên giáo tỉnh, trong đó trực tiếp thực hiện là phòng hoặc bộ phận cán bộ chuyên trách văn hóa, văn nghệ có các nhiệm vụ chính sau:

– Chủ trì, phối hợp giúp lãnh đạo tỉnh xây dựng các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Tỉnh ủy thuộc lĩnh vực văn hóa, văn nghệ trên địa bàn tỉnh.

– Công tác, phối hợp giúp lãnh đạo tỉnh tổng kết thực tiễn hoạt động văn hóa – văn nghệ; nghiên cứu một số đề án, văn nghệ phục vụ cho sự phát triển của tỉnh

– Chủ trì giúp lãnh đạo tỉnh hướng dẫn, kiểm tra các cơ quan liên quan của tỉnh trong việc cụ thể hóa và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Tỉnh ủy thuộc lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.

– Chủ trì, phối hợp giúp lãnh đạo tỉnh theo dõi, nghiên cứu, tổng hợp, chỉ đạo định hướng chính trị, tư tưởng, nội dung các hoạt động văn hóa, văn nghệ của các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh lãnh đạo, quản lý.

– Giúp lãnh đạo tỉnh thẩm định các đề án, văn bản về văn hóa, văn nghệ của các cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể và các huyện thị.

– Phối hợp hướng dẫn nghiệp vụ, phương thức lãnh đạo và quản lý các hoạt động văn hóa, văn nghệ của các cơ quan, đơn vị, các huyện, thị… theo dõi, định hướng hoạt động của đội ngũ công tác và sáng tác văn hóa, văn nghệ thuộc tỉnh.

– Tham mưu giúp lãnh đạo tỉnh góp ý kiến về tổ chức, bộ máy của các cơ quan văn hóa, văn nghệ, về các chế độ, chính sách, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với đội ngũ hoạt động và sáng tác văn hóa, văn nghệ của tỉnh.

– Phối hợp với các cơ quan liên quan giúp lãnh đạo triển khai các hoạt động giao lưu, hợp tác về văn hóa, văn nghệ.

2. Những nhiệm vụ chủ yếu của công tác văn hóa trên địa bàn huyện

2.1. Vị trí, vai trò của công tác văn hóa trên địa bàn huyện

Trong các mục tiêu của công tác văn hóa trên địa bàn huyện, do vị trí có tính trực tiếp với cơ sở, nhiệm vụ xây dựng con người mới, cuộc sống mới, đấu tranh chống thói hư, tật xấu, góp phần tạo nên cuộc sống lành mạnh tốt đẹp, môi trường văn hóa thuận lợi cho sự phát triển của con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm nhất và thường xuyên đối với cấp huyện.

Là nơi trực tiếp với quần chúng, với cơ sở, công tác văn hóa trên địa bàn huyện có nhiệm vụ lắng nghe, tiếp nhận, tổng hợp các nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị và phát huy sự năng động, sáng tạo của chính quần chúng ở cơ sở trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa. Thông tin hai chiều là một đặc điểm quan trọng của hoạt động tư tưởng và văn hóa ở cấp huyện.

Người làm công tác văn hóa ở cấp huyện là người trực tiếp với quần chúng, hoạt động mang tính chất tổng hợp, phải hiểu biết và xử lý các lĩnh vực khác nhau của văn hóa và phải bám sát, am hiểu thực tiễn địa phương để triển khai, tổ chức công tác văn hóa phù hợp với đối tượng và địa bàn. Tính thực tiễn, ứng dụng và khả thi là những yêu cầu và đặc điểm đối với đội ngũ công tác văn hóa (cả của hệ thống Đảng và chính quyền) ở cấp huyện.

2.2. Những nhiệm vụ chính

Ở những phạm vi, mức độ và yêu cầu khác nhau, cần phải xác định rằng, ở cấp huyện, tất cả nội dung cơ bản của phương hướng và các nhiệm vụ cụ thể xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được chỉ ra trong Nghị quyết Trung ương 5 đều phải được quán triệt và triển khai thực hiện. Tuy vậy, do đặc điểm của địa bàn, cần nhấn mạnh một số nhiệm vụ chủ yếu, những nội dung cụ thể và phương thức thực hiện các nhiệm vụ đó gắn chặt với đặc điểm cấp huyện.

2.2.1. Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần tốt đẹp, lành mạnh, phong phú ở cơ sở, thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”

Đây là nhiệm vụ bao trùm, thường xuyên chi phối toàn bộ các hoạt động văn hóa ở cơ sở, thu hút tất cả các cấp, ngành, các tổ chức đoàn thể và đông đảo quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện tham gia, trực tiếp triển khai và thực hiện. Chỉ có cấp huyện và cấp cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ này mới làm cho các định hướng, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa thật sự đi vào đời sống, trở thành hiện thực sinh động trong đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ chủ yếu của cấp huyện là bám sát thực tiễn, xây dựng chương trình, kế hoạch có tính khả thi để triển khai một cách sáng tạo, cụ thể; tăng cường kiểm tra và động viên, tổ chức một cách kiên trì.

Mục tiêu của nhiệm vụ này là tạo ra ở các cơ sở (gia đình, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, trường học, các vùng dân cư…) một đời sống văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, từng bước đáp ứng những nhu cầu văn hóa của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn, đồng thời tổ chức cho quần chúng ở cơ sở phát huy tiềm năng, năng khiếu, sở thích để tự sáng tạo văn hóa phục vụ nhu cầu tinh thần của chính mình.

Thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; xây dựng gia đình văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm của cấp huyện và cơ sở để tạo nên những tế bào và hạt nhân văn hóa lành mạnh của môi trường văn hóa tốt đẹp trên địa bàn huyện. Đưa những chuẩn mực đã được bàn bạc và thống nhất của quần chúng về với bản thân quần chúng để họ tự nguyện, dưới sự hướng dẫn của các cấp Đảng, chính quyền, gia đình văn hóa nhằm giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam trong cuộc sống hiện đại.

Hướng dẫn, triển khai, đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường… văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh thông qua việc phát huy tính tự giác, tự nguyện tham gia của quần chúng, thông qua việc xây dựng các hương ước, quy ước làng, bản, thôn, buôn, sóc, xây dựng các loại câu lạc bộ văn hóa phù hợp với từng đối tượng, ngành nghề, lứa tuổi, giới tính trên địa bàn huyện. Kết hợp chặt chẽ giữa các hoạt động văn hóa với hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí để tạo nên sức tác động tổng hợp, nân cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.

2.2.2. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động, triển lãm… trên địa bàn huyện

Loại hình hoạt động này ở cấp huyện vừa mang đặc trưng, ý nghĩa vừa là hoạt động gắn chặt với văn hóa là nhiệm vụ thường xuyên của đội ngũ cán bộ văn hóa cấp huyện. Mục tiêu của công tác này là nhằm tuyên truyền, trực tiếp, kịp thời trong quần chúng nhân dân ở cơ sở các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền pháp luật… Phương thức hoạt động này được gắn với các hình thức thể hiện của văn hóa dễ đi vào quần chúng, phù hợp với dân tộc và địa bàn, như: đài phát thanh, truyền thanh, trạm bản tin, trang trí pano, khẩu hiệu, thông tin cổ động, văn nghệ quần chúng, tuyên truyền văn hóa… Chính các phương thức hoạt động có tính trực quan ở trên địa bàn huyện, xã… sẽ có tác dụng trực tiếp đến quần chúng, nâng cao nhận thức tư tưởng, tri thức tình cảm của nhân dân ở cơ sở.

2.2.3. Hoạt động văn nghệ quần chúng trên địa bàn huyện

Tiềm năng sáng tạo văn hóa của nhân dân là vô cùng phong phú, đặc biệt ở cơ sở. Sự nhiệt thành, tâm huyết, tài năng và những nguyện vọng, sở thích sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của nhân dân là cơ sở để tổ chức và phát triển các hoạt động văn nghệ quần chúng trên địa bàn huyện.

Mục tiêu của hoạt động này là tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực hoạt động sáng tạo (sáng tác và biểu diễn) văn nghệ; tự tổ chức, quản lý các hoạt động đó, qua đó nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Các phương thức tổ chức ở cấp huyện thường là các câu lạc bộ sở thích nghệ thuật, liên hoan văn nghệ, các hội diễn nghệ thuật quần chúng theo địa bàn dân cư, theo vùng văn hóa, theo nghề nghiệp, lứa tuổi hoặc giới tính…

Ở cấp huyện để nâng cao tác dụng của hoạt động này, cần gắn bó nó với các chủ đề chính trị, kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ để tạo sức hấp dẫn và định hướng tư tưởng cho công chúng tham gia hoạt động văn hóa.

2.2.4. Công tác thư viện, phong trào đọc sách báo trên địa bàn huyện

Việc phát triển hệ thống thư viện, phòng đọc sách báo ở cấp huyện và cấp cơ sở là một hướng quan trọng của công tác tư tưởng – văn hóa của Đảng và một ưu tiên trong kế hoạch, chương trình công tác văn hóa của Nhà nước. Ở cấp huyện, cần có giải pháp hợp lý cho việc xây dựng thư viện ở trung tâm huyện, đồng thời phát triển các phòng độc sách báo, các câu lạc bộ yêu thích và làm theo sách báo, các cụm và điểm văn hóa có tính tổng hợp, trong đó thư viện hoặc phòng đọc sách báo là một bộ phận cùng với các hoạt động khác (trạm truyền thanh, câu lạc bộ, sân chơi thể thao…) tạo sức hấp dẫn với quần chúng. Sự xuất hiện của điểm bưu điện – văn hóa xã, các cụm văn hóa – thể thao ở các huyện, xã… là thể hiện của sự tìm tòi phương thức mới cho công tác văn hóa ở địa bàn huyện và ở cơ sở.

2.2.5. Công tác bảo tồn, phát huy các di tích lịch sử – văn hóa và công tác bảo tàng, nhà truyền thống trên địa bàn huyện

Một là, cấp huyện trực tiếp có nhiệm vụ bảo vệ, sử dụng, tu bổ, bảo tồn và phát huy các di tích có trên địa bàn, được Nhà nước giao cho quản lý.

Hai là, có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ, phối hợp với các cơ quan chức năng của Trung ương đối với các di tích cấp quốc gia.

Cả hai nhiệm vụ đó đều nhằm vào mục tiêu chủ yếu là giáo dục truyền thống, đáp ứng nhu cầu tinh thần – văn hóa của nhân dân và tham gia bảo vệ tài sản văn hóa chung của dân tộc. Cần khắc phục tình trạng khai thác di tích chỉ để tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương là mục tiêu chính.

Bảo tàng, nhà truyền thống có vị trí rất quan trọng trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tình cảm và văn hóa cho nhân dân ở cơ sở; bởi vì đó chính là lịch sử đấu tranh của nhân dân trên địa bàn, là niềm tự hào của họ qua các thế hệ xây dựng và bảo vệ quê hương. Trong điều kiện hiện nay, ở cấp huyện, một mặt cần tính toán toàn diện để có được bảo tàng hoặc nhà truyền thống với quy mô nhỏ, vừa tầm, tránh phô trương hình thức, phát triển tràn lan và mặt khác, quan trọng hơn là tìm giải pháp để phát huy tác dụng của nhà truyền thống trên địa bàn huyện và các cơ sở.

2.2.6. Tổ chức và quản lý các hoạt động lễ hội trên địa bàn huyện

Do truyền thống văn hóa lâu đời của các địa phương, từ làng, xã, buôn, sóc… trên địa bàn huyện thường có nhiều lễ hội truyền thống với nhiều đặc trưng độc đáo. Đồng thời, từ khi có Đảng, với cuộc đấu tranh vĩ đại giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đã xuất hiện những lễ hội mới, lễ hội cách mạng và các hoạt động mang ý nghĩa văn hóa như uống nước nhớ nguồn…. Việc chỉ đạo và trực tiếp tổ chức, hoặc hướng dẫn, giúp đỡ cho các cơ sở tổ chức các lễ hội đó là nhiệm vụ, chức năng của cấp huyện (Đảng và chính quyền), nhằm đảm bảo cho ý nghĩa và tác dụng tư tưởng – văn hóa của các lễ hội, góp phần giáo dục truyền thống và biết chọn lọc những gì là tốt đẹp, tiến bộ, gạt bỏ những hủ tục lạc hậu, lỗi thời. Chức năng quản lý các lễ hội đòi hỏi cán bộ cấp huyện một sự am hiểu lịch sử, truyền thống trên địa bàn, nắm vững các quy định, quy chế của Nhà nước và biết vận động, tổ chức quần chúng tự nguyện tham gia một cách tích cực có định hướng.

2.2.7. Củng cố, xây dựng và phát huy tác dụng của các thiết chế văn hóa trên địa bàn huyện

Trên địa bàn huyện và các cơ sở nhìn tổng thể, hầu hết đều có các thiết chế văn hóa, đảm bảo điều kiện, cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết cho các hoạt động văn hóa. Đồng thời phải thường xuyên củng cố những thiết chế đã có, vươn lên xây dựng những thiết chế mới đáp ứng nhu cầu chính đáng, ngày càng cao của nhân dân và đặc biệt là tìm tòi các giải pháp, các phương thức phù hợp để phát huy tác dụng của các loại thiết chế văn hóa đó.

Cùng với nhiệm vụ trên, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hoạt động văn hóa giữ vị trí quyết định để tổ chức các hoạt động văn hóa và nâng cao hiệu quả, tác dụng của các thiết chế văn hóa. Ở cấp huyện, đội ngũ này bao gồm hai lực lượng: một là những cơ quan, cán bộ, nhân viên chuyên môn, nghiệp vụ công tác trong ngành văn hóa và hai là lực lượng quần chúng, hạt nhân văn hóa giữ vai trò nòng cốt trong các hoạt động văn hóa ở huyện và cơ sở./.

________________