Triết học biết gì về thiên nhiên

 TRIẾT HỌC BIẾT GÌ VỀ THIÊN NHIÊN?[i]

Khoa học tự nhiên và triết học thiên nhiên có cùng một đối tượng  chất thể là hữu thể vật lý, nhưng khác nhau về đối tượng mô thể, tức là phương pháp nghiên cứu. Trong lúc khoa học thực nghiệm tìm hiểu thiên nhiên qua quan sát và thí nghiệm, thì triết thiên nhiên dựa trên logic suy diễn của siêu hình học, xem thế giới vật lý như một trường hợp đặt biệt của hữu thể để khai thác các điều kiện hay giới hạn trong cách thế thiên nhiên tồn tại. Chúng ta sẽ lượt qua các khái niệm về vũ trụ, luật thiên nhiên, các giới hạn trong cách tồn tại của thiên nhiên, và khả năng con người hiểu biết về thế giới vật lý. Sau đó, chúng ta sẽ xoáy sâu hơn về cách khẳng định cá thể tính của mỗi hữu thể qua ba cặp phạm trù sau đây: (1) cách mô thể kết hợp với chất thể. (2) phân biệt sự thay đổi bản thể với thay đổi tùy thể, (3) khác biệt giữa yếu tính và hiện hữu của một hữu thể.

VŨ TRỤ VÀ THIÊN NHIÊN

Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu hai khái niệm “thiên nhiên” và “vũ trụ”. Chúng ta trải nghiệm thiên nhiên như là hữu thể vật chất xuất hiện một cách tổng thể và chặt chẽ, chứ không chỉ đơn thuần là các hữu thể vật lý. Chúng ta dùng hạn từ “vũ trụ” (kosmos) để nói lên một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là một sự kết hợp chặt chẽ của các sự vật, như một tập hợp vừa đẹp vừa chân thực của những thành phần khác nhau, tạo nên một thể thống nhất có tổ chức. Vũ trụ là một thực tại trái ngược với sự hỗn độn (hư vô), vô trật tự và vô tổ chức. Người Hy Lạp cho rằng không có tư duy nếu không có gì tồn tại. Trong các chuyện thần thoại Hy Lạp về nguồn gốc vũ trụ, không có hành vi sáng tạo nhưng có một sự thay đổi quan trọng khi các vị thần sắp xếp lại trật tự từ sự hỗn độn để tạo thành vũ trụ như chúng ta biết ngày nay. Sự hư vô thì hỗn độn, chẳng có ý nghĩa gì hết. Ở nơi hư vô, có thể có hữu thể vật lý nhưng không có hệ thống hay nguyên tắc lề luật. Tất cả như một khối rời rạc và bất liên kết, một sự vô định hình, thiếu tương tác nội tại, đối ngược hoàn toàn với vũ trụ. Thiên nhiên hay vũ trụ là sự hình thành nên một tổng thể liên kết chặt chẽ, cho thấy có một trật tự hay quy luật nào đó đang điều phối mọi chuyển động. Vì lý do đó mà vũ trụ hay thiên nhiên có thể nhận thức được bằng trí tuệ.

Đối với các triết gia, việc nhận thức rằng vũ trụ vật lý có một sự thống nhất về các nguyên tắc trật tự mang một ý nghĩa to lớn. Mọi thứ trong thiên nhiên đan xen với nhau. Chúng ta không thể dùng những thuật ngữ “tổng thể” để nói về hư không. Khi ta cố gắng nhận thức thiên nhiên thì ta đang nhìn nó như một tổng thể. Nhiều triết gia hiện sinh kết luận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phi lý và con người hành động một cách vô ý thức. Nhưng hành vi của con người có phản ảnh trật tự xuất phát từ thiên nhiên hay vũ trụ không? Câu nói “chúng ta đang sống trong một thế giới vô nghĩa” chỉ có nghĩa là nó đang trái ngược với sự có ý nghĩa, và do đó, sự có ý nghĩa thì căn bản và nền tảng hơn là vô nghĩa. Như thế, thiên nhiên hay thế giới vật lý không phải là một vật hỗn tạp, lửng chửng và đối lập, hay ở trạng thái hỗn độn. Thiên nhiên là một vũ trụ, một thế giới, hay một tổng thể liên kết chặt chẽ, hợp nhất và đầy ý nghĩa.

LUẬT THIÊN NHIÊN

Nếu thiên nhiên là một tổng thể hay hệ thống liên kết chặt chẽ, thì chúng ta có thể đặt ra câu hỏi là: cái gì làm cho nó kết nối với nhau? Cái gì làm cho thiên nhiên ăn khớp với nhau để tạo thành một hệ thống? Những nhà khoa học để ý thấy rằng vũ trụ thì ở khắp mọi nơi và nó luôn được biểu lộ bằng những nguyên tắc. Những nguyên tắc hay quy luật của thiên nhiên giải thích tính cấu kết và sự hiệp nhất của nó. Sự hiểu biết thông thường về nhân luật như luật nhà nước có thể mang tính tiêu cực, bởi vì nó ràng buộc và trừng phạt chúng ta trong quyền hạn của nó. Nhân luật được tạo ra bởi con người để giải quyết những vấn đề gây nên bởi con người không sống trọn vẹn trách nhiệm của họ. Nhưng luật thiên nhiên mang tính tích cực vì chúng phát xuất từ nội tại. Chúng là những biểu hiện của những mối tương quan có trật tự vốn tồn tại giữa những thành phần khác nhau của tổng thể gọi là thiên nhiên. Xét theo ý nghĩa cơ bản nhất thì luật là một sự diễn đạt của khả niệm tính nội tại. Luật không đơn giản chỉ là căn nguyên của trật tự, nó còn là dấu hiệu biểu hiện của trật tự. Luật vừa là sự khẳng định vừa là sự củng cố của tính hợp nhất chặt chẽ. Luật là một phần của hệ thống được sắp đặt và là ý nghĩa cuối cùng của hệ thống. Luật được xem như là nguyên lý nền tảng của tổ chức và sự hợp nhất mà hữu thể vật chất tự biểu lộ về chính nó.

Chúng ta trở lại mối quan hệ giữa luật và khả niệm tính. Nếu một cái gì đó mà hoàn toàn vô trật tự thì được gọi là sự hỗn độn, do đó trí tuệ con người không thể hiểu thấu được điều gì cả. Khi trí khôn đối diện với sự lộn xộn hay vô trật tự thì điều tốt nhất mà trí khôn có thể làm được là đơn giản nhận ra sự bất trật tự là thiếu quy luật. Như thế, chỉ qua luật chúng ta mới hiểu trật tự và trật tự đem đến khả niệm tính. Vì vậy khi chúng ta sống trong một vũ trụ đầy ý nghĩa, tức là chúng ta đang sống trong một vũ trụ có trật tự, được điều hành bởi luật. Những quy luật của thiên nhiên – luật vật lý, là sự phức hợp toàn diện của những mối tương quan có trật tự mà chúng được tạo nên từ những thành phần khác nhau. Khi nhà khoa học tìm hiểu luật thiên nhiên, họ cố gắng nhận thức những gì đang biểu lộ các hoạt động bên trong của thiên nhiên, hay khả niệm tính tự nhiên của nó.

Để hiểu rõ hơn về luật vật lý hay luật thiên nhiên, chúng ta cần xét điều kiện phổ quát của luật vật lý. Các triết gia duy vật đúng khi họ chủ trương rằng mọi quy luật vật lý đều phải áp dụng cho bất cứ hữu thể nào trong vũ trụ. Newton chứng minh nguyên nhân làm cho trái táo rơi xuống đất cũng là nguyên nhân làm cho mặt trăng xoay quanh địa cầu. Nhưng nhà khoa học có thể sai lầm nếu họ giả định rằng luật thiên nhiên là quy luật tối thượng của vũ trụ. Trái lại, các luật thiên nhiên đều phụ thuộc vào một luật tối cao, đó là luật vĩnh cửu của Thiên Chúa vốn chi phối mọi sự vật tồn tại. Mọi sự tồn tại trong vũ trụ như cách chúng đang tồn tại là vì Thiên Chúa muốn chúng hiện hữu. Triết gia thiên nhiên cần quan tâm về nền tảng chân thực của thế giới vật lý. Thế giới vật chất là kết quả trực tiếp của nguyên nhân siêu nhiên. Thế giới biến dịch tự nó không thể giải thích cho sự tồn tại của nó. Chúng ta cũng không thể thấu hiểu yếu tính của nó nếu chúng ta không nhận ra mối tương quan cúa nó với Thiên Chúa như hậu quả đối với nguyên nhân.

Nói một cách đơn giản, Thiên Chúa là nguyên nhân và vũ trụ là kết quả, và qua lôgic chúng ta có thể đi đến một số kết luận về bản chất của nguyên nhân vốn tạo ra kết quả. Nguyên nhân đóng ấn hay để lại trên kết quả dấu vết của nó như một dấu hiệu đặc trưng riêng tư. Khi một họa sĩ vẽ một bức tranh được xem là đẹp thì bức tranh đó mô phỏng về một thực tại có trật tự. Trí tuệ thông minh và tài năng của người họa sĩ được phản ảnh qua tác phẩm của mình. Cũng như một nghệ gia để lại dấu ấn trí tuệ trên tác phẩm của mình, thì Thiên Chúa đã lưu lại dấu ấn đặc trưng của Ngài trên vũ trụ mà Ngài đã tạo dựng. Sự khác biệt là khi các nghệ nhân sáng tác, họ chỉ tiếp nhận và diễn đạt ý tưởng qua tác phẩm nghệ thuật của họ, nhưng Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi sự hiện hữu. Nghệ nhân tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng không tạo ra vật liệu hay quy luật về nghệ thuật. Trái lại, Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và những quy luật, bởi chúng mà vũ trụ được tạo thành và điều hành. Thiên Chúa vừa là quy luật điều khiển vừa là nguồn gốc của mọi tồn tại. Thiên Chúa không bị điều phối bởi nguyên tắc ngoại tại hay trổi vượt hơn chính Người. Thiên Chúa hành động hoàn toàn từ chính quyền năng siêu việt của mình. Trí tuệ siêu việt tự tại này được biểu lộ thông qua những quy luật của Thiên Chúa.

Luật của Thiên Chúa thể hiện qua ba dạng thức: luật tự nhiên (luân lý), luật siêu nhiên (Kinh Thánh) và luật thiên nhiên (vật lý). Luật thiên nhiên được thấu hiểu bởi lý trí con người; nhưng khi áp dụng vào phạm vi đạo đức thì được gọi là luật tự nhiên hoặc luật luân lý. Luật tự nhiên là một thành phần nội tại trong trật tự vũ trụ. Nó áp dụng cho những thụ tạo sở hữu tự do và lý trí vì vậy các thụ tạo này có khả năng tự phản ánh quy luật đó. Luật tự nhiên được khắc ghi trong tâm khảm con người như thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 2:15). Thông qua lương tâm, hay tiếng nói của luật tự nhiên, chúng ta có thể nhận biết ý định của Thiên Chúa và mục đích của các hành vi nhân bản. Nhìn cách phổ quát hơn, chúng ta có thể nói rằng luật tự nhiên cũng chính là luật Thiên Chúa vốn có áp dụng cách cụ thể cho các thụ tạo có lý tính. Qua luật tự nhiên mà chúng ta nhận ra trật tự luân lý trong vũ trụ.

Luật siêu nhiên hay thiên luật không thể tự nhận thức bằng lý trí nhưng phải do Mặc Khải. Thiên luật biểu lộ như sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vừa là sự hợp nhất nội tại của mọi quy luật và vừa được biểu lộ qua các mối tương quan có trật tự tồn tại ở khắp nơi trong vũ trụ vật lý. Luật siêu nhiên được mặc khải như là nền tảng cho luật thiên nhiên và luật tự nhiên. Luật vật lý hay luật thiên nhiên một cách tổng thể cấu thành nên toàn bộ các mối tương quan có trật tự đang tồn tại trong vũ trụ vật chất. Mục đích cuối cùng và toàn bộ năng lực của khoa học là khám phá luật các quy luật vật lý, vì chúng tiết lộ những hoạt động bên trong của thế giới vật chất. Quy luật thiên nhiên là những nguyên tắc tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong thế giới vật lý và khả niệm tính. Thế giới vật lý có thể được xem như là một hệ thống vĩ mô, bao gồm những mối quan hệ nhân quả với nhau, đó là tri thức về yếu tính của sự vật – cách thức một sự vật cụ thể này có liên quan đến một sự vật cụ thể khác. Vì thế, tri thức về tương quan nguyên nhân-hậu quả đưa đến khả năng tiên đoán. Một khi chúng ta đã tạo nên mô hình nguyên tắc (“regulare”) cho thế giới vật lý trong quá khứ, ta có thể dự đoán là mô hình đó sẽ đúng trong tương lai.

Có hai giới hạn về khả niệm tính. Thứ nhất, tri thức về nguyên nhân của hoạt động trong thế giới vật lý không có nghĩa là chúng ta có cái nhìn hoàn toàn tổng thể về vũ trụ vật chất. Chúng ta không thể giới hạn sự hiểu biết của con  người về thế giới trong phạm vi tri thức luận mang tính chính xác như máy móc, như không hề có các yếu tố ý chí con người hoặc phi vật chất nào khác. Người thợ máy biết rằng công việc của anh ta lệ thuộc vào loại vật chất vốn tạo nên những máy móc anh ta đang điều hành. Cũng vậy, triết gia thiên nhiên cần nắm bắt những giới hạn của quy luật vật lý đang điều phối vũ trụ. Mặt khác, quan tâm đến quy luật vật lý không có nghĩa là phải chấp nhận chủ nghĩa tất định. Lẽ dĩ nhiên triết vũ trụ như một trật tự dựa trên các nguyên tắc được thiết lập, và thế giới được sắp đặt trong cách mà nó là chứ không phải là sự hỗn độn. Nhưng điều này không có nghĩa là thế giới không thể được hình thành trong một cách thức khác hơn là cách thức chúng ta đang cảm nhận nó. Thiên Chúa không buộc phải sáng tạo một thế giới như Ngài đã tạo nên. Chúa lựa chọn tạo dựng thế giới theo ý muốn của Người một cách tự do, và không lệ thuộc vào bất cứ gì khác. Nhưng vì đây là một thế giới thực sự đã tồn tại; nó được mặc định để tồn tại trong cách thức mà trí tuệ siêu nhiên muốn nó tồn tại.

Con người được tạo nên như một sự tổng hợp gồm linh hồn và thân xác, vật chất và phi vật chất. Chính bởi trạng thái phức hợp này mà chúng ta cùng lúc là mặc định vừa là không mặc định. Một cách đơn giản, chúng ta là cách thức mà Thiên Chúa đã dựng nên để hiện hữu. Chúng ta đã được mặc định sống và hành động theo tính vật chất của mình trong phạm vi trọng lực cho phép. Qua thời gian và nhiều cách thức khác nhau, cơ thể của chúng ta cũng sẽ phát triển và thay đổi trong sự tương tác với quy luật này. Tất cả những gì chúng ta nghĩ chúng ta có thể vượt qua thế giới vật lý thật ra chỉ đơn giản là vượt trên những hiện hữu vật lý khác. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không có quyền hướng đến cái vô hạn nhờ vào sự tự do và ý hướng thiêng liêng của chúng ta.

BẢN CHẤT CỦA THIÊN NHIÊN

Thuật ngữ “Nature” có thể được hiểu theo hai cách: (a) thiên nhiên hay vũ trụ vật lý, hoặc (b) bản chất hay yếu tính của một hữu thể.  Theo nghĩa thứ nhất, chúng ta nhận ra thiên nhiên như một tổng thể các hiện hữu vật lý mà mình luôn tồn tại trong nó (trực giác) và chúng ta chạm đến thiên nhiên như các giới hạn của thế giới (khách quan). Thiên nhiên là cái đã có sẵn trước khi con người xuất hiện; chúng ta nhận ra và phản ứng lại thực tại khách quan của nó. Thiên nhiên được hiểu như là trái ngược với cái nhân tạo. Thiên nhiên là thực tại mà mọi sự vật khác phải tự thích nghi với nó, vì nó không hoạt động một cách nào khác. Thiên nhiên đặt trước chúng ta như việc đã rồi; nó lên tiếng trước và chúng ta phản ứng lại. Cho dù thiên nhiên được xem như một tổng thể hợp nhất của tất cả mọi hiện hữu, nhưng con người vẫn luôn luôn có thể tách mình ra khỏi thiên nhiên khi chúng ta dùng ngôn ngữ của con người để phân biệt với ngôn ngữ của thiên nhiên.

Cách dùng thứ hai của thuật ngữ “nature” là “bản chất” hay “yếu tính” của một thực thể tồn tại riêng biệt và cụ thể. Có thể nói rằng có những thực tại nội tại nhất định tạo nên sự vật, nhờ nó mà chúng ta có thể phân biệt nó với các sự vật khác không phải là nó. Bản chất hay yếu tính của sự vật là nền tảng căn tính của sự vật; đó bản tính “It-ness” của cái vốn cho phép chúng ra lại nhận ra nó ngày hôm nay và ngày mai. Tương tự, từ Latin, “quidditas” có nghĩa là “what-ness” (cái mà nó là) xác định thực tại cơ bản và đặc thù  của hữu thể. Khi chúng ta tiếp xúc với một sự vật lần đầu tiên khi chưa có bất kì một ý niệm gì về nó thì chúng ta sẽ hỏi “Nó là cái gì?” Chúng ta biết chúng ta đang tiếp xúc với một thực tại có thật. Chúng ta tự thuyết phục mình là có một “cái gì đó” tồn tại, nhưng chúng ta không biết bản chất của cái đó. Chúng ta phải tìm hiểu cái “quidditas”, tức là bản chất hoặc yếu tính của sự vật đó.

Nhưng làm sao chúng ta có được tri thức về bản chất hay yếu tính của thế giới vật lý cách khách quan trong khi chúng ta chỉ là một phần của cái chúng ta đang nghiên cứu? Câu trả lời là bất cứ gì được dùng để nói về bản chất của mọi thân xác vật lý thì tất nhiên cũng được dùng để nói về cho thân xác của chúng ta. Tri thức của chúng ta về thế giới, trong hình thái đầy đủ và hoàn thiện nhất, sẽ là tri thức trí tuệ được biểu lộ về chính nó qua các ý niệm. Tri thức trí tuệ đi theo sau và phụ thuộc vào tri thức tri giác. Nhưng bởi vì hữu thể vật lý thì phản hồi lại hữu thể vật lý theo nghĩa vật chất của nó, cho nên chúng ta có cảm giác quen thuộc ở cấp độ đơn giản trước khi chúng ta có tri giác về hữu thể vật lý. Nhưng cảm giác hay tri giác chỉ là một loại trực giác, không cho ta biết hoàn toàn về thực tại chính xác của thế giới vật chất. Triết thiên nhiên cần nắm bắt sự thông tri sâu sắc và tinh tế của hữu thể với hữu thể, một sự cộng hưởng cơ bản của một thụ tạo phản ứng lại một thụ tạo khác. Cách hữu hiệu nhất để hiểu một sự vật gì đó (vật chất) là đặt nó trong sự đối nghịch với cái không cùng bản tính như nó (phi vật chất). Triết thiên nhiên khởi đầu nhận thức hữu thể vật chất bằng cách phân biệt hữu thể vật chất là hữu thể mà chúng ta có thể có cảm giác, và hữu thể phi vật chất là hữu thể mà chúng không thể cảm nhận bằng giác quan.

Nhưng làm sao chúng ta có thể khẳng định cách thức mà qua đó có hai thực tại khác nhau nếu như sự hiểu biết bị giới hạn trong phạm vi của các giác quan? Chỉ vì một sự vật không cảm nhận được bằng giác quan thì nó không tồn tại hay sao? Qua kinh nghiệm về khái  niệm thông thường trong toán học, triết học, và các ngành khoa học, chúng ta nhận thấy “số 3” – một thực tại phi vật chất, vì “số 3” không thể được nhìn, nghe, nếm, sờ hoặc ngửi thấy. Nhưng làm sao một thực tại phi vật chất chỉ có thể tồn tại trong tâm trí và phụ thuộc vào thân xác, có thể tồn tại bên ngoài thực tại vật chất? Chúng ta phải kết luận rằng ý niệm hay “số 3” tồn tại một cách trung thực, nhưng trước khi ý niệm có thể tồn tại thì phải có tâm trí vốn đã suy nghĩ ra những ý niệm đó. Thật vậy, nếu một ý niệm không thể tồn tại tách khỏi một cơ sở vật chất, không có nghĩa là tất cả hữu thể phi vật chất phải tồn tại một cách hoàn toàn phụ thuộc. Một cây đổ trên rừng cho dù không có ai lắng nghe tiếng động, nhưng không có nghĩa không có tiếng động, vì nếu nó xảy ra, thì nó đã tồn tại trong tư tưởng của Thiên Chúa rồi. Cho dù thực tại vật chất không thể tồn tại tách biệt khỏi hữu thể vật lý, nhưng thực tại phi-vật chất không phải hoàn toàn tuân theo quy luật này. Chỉ vì tư tưởng của con người (phi vật chất) lệ thuộc vào tâm trí, không có nghĩa là mọi hữu thể phi vật chất phải tồn tại phụ thuộc. Thực tại phi vật chất có thể tồn tại phụ thuộc nhưng cũng có thể tồn tại hoàn toàn độc lập với chất thể. Điều này không có gì là mâu thuẫn.

TRI THỨC CON NGƯỜI VỀ THIÊN NHIÊN

Triết học nhận ra rằng tri thức của chúng ta bị hạn chế bởi phương thức nhận thức của giác quan. Mỗi ý niệm trong tâm trí có nguồn gốc từ sự vật trong thế giới. Bản chất của năm giác quan bên ngoài – thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác –là bị động. Mỗi giác quan tương thích với một hình thức kích thích thể lý khác nhau.  Sau khi các giác quan hoàn thành nhiệm vụ của mình thì thông tin chúng cung cấp được xử lý bởi tri giác nội tại. Tri giác thông thường tập hợp lại những dữ liệu thô được cung cấp bởi các giác quan, sau đó tổng hợp, sắp xếp và tạo nên hình ảnh về đối tượng trong thế giới. Tại giai đoạn này, trí tưởng tượng, trí nhớ và trí lượng định hoạt động qua cách chúng điều chỉnh và mở rộng các đối tượng tri giác thành hình ảnh trong tâm trí (phantasma). Trí tưởng tượng thu thập các hình ảnh này và có thể “lấp đầy” bức tranh, làm cho chúng ta nhận biết rằng chúng ta đang nhìn vào một đối tượng (khách thể) ba chiều mặc dù thực ra chúng ta chỉ nhìn thấy hai chiều. Trí nhớ phản ứng lại đối tượng tri giác bằng việc nhận ra hình ảnh như sự miêu tả về sự vật mà chủ thể đã tiếp xúc trước đó. Trí lượng định cung cấp cho chủ thể cách phán đoán tức khắc về tính lợi hay hại của hình ảnh. Đối với động vật, tri giác lượng định là bản năng, nhưng đối với con người, bản năng hầu như chỉ ảnh hưởng một phần thôi. Kết quả cuối cùng của quá trình tương tác giữa tri giác nội tại – ngoại tại là hình ảnh ta có trong tâm trí (phantasma). Điều này đánh dấu cho sự kết thúc của tri thức tri giác (sense) vốn bị giới hạn theo tính vật chất và khách thể riêng lẻ.

Kế tiếp, tác nhân trí tuệ (agent of the intellect) có năng lực đặc biệt tạo nên tri thức (intellect) theo nghĩa chính thức của nó từ tri giác (sense). Tác nhân trí tuệ hoạt động trực tiếp trên hình ảnh của sự vật thể lý riêng lẻ trong tâm trí. Tác nhân trí tuệ thâm nhập vào hình ảnh tâm trí và loại bỏ tính vật chất của nó. Tác nhân trí tuệ tách bản chất phổ quát ra khỏi các hữu thể vật lý, từ đó dẫn tới sự định hình của khái niệm hoặc ý tưởng về sự vật. Khác với bản tính đơn thuần của linh hồn, trí tuệ con người là một thực thể hợp nhất, được kết nối bởi nhiều thành phần. Do đó, trí tuệ con người có vô số năng lực riêng biệt. Tri giác mà chúng ta có cùng với động vật không phải là tri thức đầy đủ nhất về thế giới. Động vật có những năng lực nhạy bén và khả năng tạo ra những hình ảnh, nhưng không phải ý tưởng, bởi vì chúng không có khả năng trừu tượng. Trí khôn thông qua khả năng trừu tượng có thể phi-vật chất hóa hình ảnh của hữu thể vật lý riêng lẻ và nhận ra yếu tính phi vật chất. Đây mới là mục tiêu và chất liệu của trí tuệ. Tri thức tri giác có thể nhận thức hữu thể vật lý riêng lẻ như những cá thể riêng biệt. Tri thức trí tuệ là kết quả của sự trừu tượng hóa, nhìn thấy cá thể của một dạng. Khả năng trừu tượng hóa của trí tuệ tiết lộ căn tính nội tại của sự vật cá thể qua cách nó liên kết giữa sự vật riêng biệt với thực tại tổng thể. Sự trừu xuất này được cảm nhận như vô thức. Tác nhân trí tuệ trừu xuất ý tưởng về bản chất hoặc yếu tính của sự vật từ những “hình ảnh” của chúng trong tâm trí

Chúng ta nhận thức kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức, nhưng không nhận thức được ba cấp độ trừu xuất riêng biệt mà chúng ta có được những ý tưởng. Cấp độ trừu xuất đầu tiên để lại những cá thể như những cá thể, rồi qua các cá thể trí tuệ phát hiện những “loại”. Đây là khoa học thực tiễn. Cấp độ trừu xuất thứ hai thường (toán học) khi trí khôn bỏ lại không chỉ những cá thể mà còn cả tính vật chất, và tập trung vào khía cạnh số lượng của chất thể (con số, hình dạng và mối liên hệ). Ở cấp độ trừu xuất thứ ba thì vật chất, số lượng, phẩm tính của sự vật đều bị loại trừ, đơn giản chỉ truy xét hữu thể như là hiện hữu (siêu hình học). Cấp độ trừu tượng hóa đầu tiên sử dụng phương pháp quy nạp. Cấp độ trừu tượng hóa thứ hai (toán học) sử dụng phương pháp diễn dịch, khi những khía cạnh định lượng được tách khỏi hữu thể vật lý. Cấp độ trừu tượng hóa thứ ba (siêu hình học) sử dụng phương pháp lý luận dựa trên các nguyên lý thuần túy của trí tuệ, như nguyên lý “mọi sự xảy ra phải có nguyên nhân”, nguyên lý không mâu thuẫn, nguyên lý túc lý, v.v.

Siêu hình học dùng ngôn ngữ loại suy (analogical) để xác định sự thống nhất giữa tất cả các thực thể hiện hữu. Cả Thiên Chúa và con bọ chét đều “hiện hữu”, nhưng con bọ chét được cho là “có” hiện hữu, nhưng chỉ mình Thiên Chúa mới “là” hiện hữu. Bản tính của Thiên Chúa là hiện hữu, bản chất con bọ chét được hiện hữu nhờ vào Thiên Chúa. Sự hiện hữu và tính bất tất của mọi thụ tạo có thể được làm sáng tỏ qua nền tảng tất yếu của hiện hữu. Nhưng bản tính “là” của Thiên Chúa thì không hề có cách thế nào để so sánh hay mô phỏng. Có bao nhiêu hữu thể cá biệt thì có bấy nhiêu cách thế “là”, nhưng chỉ qua ngôn ngữ loại suy chúng ta có thể nói, Thiên Chúa “Là”. Chỉ có cách thế tồn hữu của Thiên Chúa là vượt qua mọi phạm trù “hiện hữu”, vì Thiên Chúa là Hữu Thể vô hạn, hiện hữu của Ngài là nguyên nhân cho mọi hiện hữu khác.  Như thế, loại suy cho chúng ta cách nói về nhiều thể cách tồn tại khác nhau, cho dù ở mức độ tự nhiên hay siêu nhiên, vật chất hay phi-vật chất. Chúng hãy xét ba cặp phạm trù loại suy dùng để nói về cách hữu thể vật lý tồn tại. Căn bản nhất, mọi hữu thể vật lý được xác định qua cách “mô thể” kết hợp với “chất thể” của nó. Nhưng thay đổi của mô thể có thể xảy ra ở mức độ “bản thể” hoặc “tùy thể”, và luôn có sự khác biệt giữa “yếu tính” và cách “tồn tại”của nó.

MÔ THỂ VÀ CHẤT THỂ

Học thuyết mô-chất thể (hylomorphism) quan niệm rằng, mọi thứ dưới dạng vật chất đều là một thực thể phức hợp, được cấu thành bởi chất thể (hylo) và mô thể (morphe). Đây là cách Aristotle giải thích về sự thay đổi giữa trạng thái “là” và “trở thành” của mọi hữu thể. Mô thể là phần chính yếu của cái mà sự vật “là”. Chiếc ghế mà chúng ta ngồi là một sự vật mà đặc tính của nó không thể giảm trừ thành thanh gỗ, cũng không phải một cái gì đó mà có thể được giảm xuống chỉ còn mỗi ý tưởng trừu tượng về chiếc ghế mà thôi. Nó xuất hiện và cùng chịu sự chi phối của cả hai nguyên lý – mô thể và chất thể – trong mối tương quan sâu xa. Mỗi ngày chúng ta chứng kiến tính xác thực của mô thể tự nhiên ngang qua các kinh nghiệm của chúng ta. Những tên gọi mà chúng ta gán cho các thể nghiệm khác nhau đều phản ánh sự khác biệt thật sự về sự vật mà chúng ta đang trải nghiệm. Nhiều thực thể như con người, sinh vật, hay động vật tuy khác nhau mô thể, nhưng cùng mang thân xác vật chất. Cho dù mô thể được xem như là nguyên lý thống nhất của mọi thực thể, nhưng đây là cách xác định sơ bản nhất về cá thể tính trong siêu hình học.

Aristotle dùng từ chất thể “đệ nhất” để nói về tiềm thể thuần túy của vật chất vốn cho phép nó trở thành chất thể “đệ nhị” như gỗ, đồng, nước, v.v. Trong khi chất thể đệ nhất là tiềm thể cho chất thể đệ nhị, thì chất thể đệ nhị cũng là tiềm thể cho mô thể trở thành các thực thể vật chất, như gỗ có khả năng trở thành bàn ghế. Aristotle lý luận rằng, “chất thể đệ nhất,” là một tiểm thể nguyên thủy, cho dù chưa ai thấy nó nhưng trên nguyên tắc nó phải có tự muôn đời. Đây là điều mâu thuẫn với học học thuyết tạo dựng. Một mô thể (form) có thể tồn tại qua nhiều chất thể (matter) khác nhau sự như “bàn” gỗ, “bàn” sắt, “bàn” kính. Theo Aristotle, chất thể và mô thể tuy khác biệt nhưng không bao giờ tách biệt, luôn gắn kết với nhau như mặt trước và mặt sau của một đồng xu.

Chúng ta hãy xét liệu mô hình mô thể-chất thể của Aristotle có khả năng bảo đảm tính thống nhất của hữu thể không. Bất kỳ bộ phận cá biệt nào bị tách ra khỏi hệ thống mà nó là một thành phần thiết yếu, thì nó không thể tồn tại trong trạng thái biệt lập. Nó sẽ mất đi lý do thích đáng để tồn tại. Sự đa dạng của các bộ phận bên trong một hệ thống không làm giảm đi sự thống nhất của toàn bộ, mà hơn thế nó còn làm gia tăng sự thống nhất của cái toàn bộ đó. Nhưng sự thống nhất của một sinh vật là sự thống nhất tự nhiên, trong khi đó, sự thống nhất của máy móc lại là sự thống nhất nhân tạo. Một cái thì do con người tạo ra còn cái kia thì do thiên nhiên ban tặng. Sự thống nhất tự nhiên là cái gì đó xuất hiện tự bên trong, còn sự thống nhất nhân tạo thì được định dạng từ bên ngoài, như là kết quả của người chế tạo ra máy móc.

Một hình thức thống nhất khác là các tổ chức xã hội do con người lập ra. Sự thống nhất của xã hội được hình thành từ các tác nhân tự do, những người muốn cùng nhau xây dựng tập thể nhân loại, với cùng mục tiêu phát triển và tiếp tục tồn tại. Đây là biểu hiện của ý chí tự do vượt ra ngoài tính khả dĩ của bất kỳ vai trò nào của một cỗ máy. Sự thống nhất có thể tìm thấy được trong vũ trụ thì bao gồm trong đó tất cả mọi khả thể đa dạng mà chúng ta có thể hình dung được. Vấn đề đặt ra là: Liệu chúng ta có thể nhận diện được tính cá biệt hữu thể mà chỉ dựa vào sự thống nhất của nó? Nền tảng của tính cá thể hay đơn biệt của một vật thể là gì?

Học thuyết mô-chất thể khẳng định rằng mọi sự vật đều được cấu thành bởi chất thể và mô thể. Chất thể là cái được chúng ta nhận biết trước tiên bởi các giác quan vì nó có thể được thấy, nghe, nếm, sờ, và ngửi. Chất thể cho chúng ta biết về sự kiện khi cơ thể chúng ta chạm vào một hữu thể vật lý, hay khi giác quan của chúng ta phản ứng lại các sự kiện bên ngoài. Tuy nhiên, tri thức về sự vật trích xuất từ chất thể vẫn còn bị giới hạn bởi vì nhiều sự vật khác biệt có thể có cùng chất thể. Do đó, chúng ta cần đến nguyên lý căn bản hơn nữa vốn có thể cho chúng ta tri thức chính xác hơn về sự vật; nguyên lý này được gọi là “mô thể” hay bản chất. Nhưng “mô thể” không phải là cái dành riêng cho một chất thể. Cùng một bản chất có thể được chia sẻ bởi nhiều đối tượng chất thể.  Ví dụ, con người là những cá thể cùng chia sẻ một mô thể hay bản chất (hồn & xác), nhưng mỗi người chúng ta hoàn toàn cá biệt và đặc thù, không bao giờ có thể lặp lại trong lịch sử. Vì vậy, để nhận diện tính cá biệt của mỗi hữu thể, chúng ta cần nhiều hơn là mô thể và chất thể. Chúng ta cần nguyên tắc căn bản hơn nữa để khai triển các mức độ mô thể khác nhau và cách chúng kết nối với chất thể của hữu thể.

BẢN THỂ VÀ TÙY THỂ

Tương quan giữa bản thể và tùy thể thì gần giống nhưng tương quan giữa mô thể và chất thể, hay yếu tính và tồn tại. Bản thể là cái có sự tự tồn trong và thuộc về chính nó, trái với tùy thể là cái tồn tại trong cái khác. Bản thể có một sự tồn tại độc lập bởi các nguyên lý nội tại vốn tạo nên bản sắc riêng của nó. Khi chúng ta nói rằng bản thể tồn tại một cách độc lập, chúng ta đang đề cập đến một sự độc lập tương đối chứ không phải tuyệt đối).  Aristotle đề cập đến bản thể như là một “đích thị” (this). Một “đích thị” là “cái có đó” dứt khoát với nó. Mỗi người là một bản thể. Bất kỳ sinh vật nào cũng là một bản thể. Nhưng một chiếc xe hay máy vi tính thì không được hiểu như là một bản thể, vì nó không có sự tồn tại nền tảng, ta có thể lắp ráp chúng qua nhiều cách khác nhau. Nhưng đồng hay gỗ lại được coi là một hữu thể bản thể. Thế nên, hữu thể bản thể, là một cách thế riêng biệt của hữu thể, khác với phương thế của hữu thể tùy thể. Hai sự biểu lộ cốt lõi nhất là hữu thể bản thể và hữu thể tùy thể. Hữu thể bản thể là cái tồn tại trong và thuộc về chính nó, hữu thể tùy thể là cái tồn tại trong cái khác như màu sắc, hình dạng, vv.

Theo định nghĩa, tất cả các tùy thể chỉ có thể tồn tại được là nhờ “bám” vào trụ cột của bản thể. Tùy thể là “kẻ chỉ báo” của bản thể, chúng khai lộ cho chúng ta thấy thực tại bản thể. Thông qua các tùy thể mà chúng ta biết đến thực tại bản thể. Tùy thể không thể tách rời bản thể, liên quan chặt chẽ đến tính chất của bản thể, và chúng ta không thể hình dung nổi bản thể nếu không có tùy thể như là những thuộc tính của hữu thể. Như vậy, những tùy thể này khải lộ yếu tính của bản thể nơi mà nó vốn gắn liền.

Trong hữu thể người, lý tính là một loại tùy thể vì lý tính không phải là cái gì tồn tại độc lập trong thế giới vật lý. Chúng ta bắt gặp lý tính như là một phẩm chất đặc biệt chỉ có trong những thụ tạo mà chúng ta gọi là người. Lý tính là một đặc tính bản chất tuyệt đối của hữu thể người, vì thiếu nó, chúng ta không còn đối diện với hữu thể người nữa mà là một cái gì đó khác với “người”.  Vậy, lý tính là một tính năng cần thiết cho sự trọn vẹn và không thể tách rời của bản tính người. Tuy lý tính là tùy thể của con người, nhưng ta không thể tách nó ra khỏi bản tính con người bởi vì nó là hệ quả tất yếu của bản thể đó. Về mặt siêu hình, bản thể thì căn bản hơn tùy thể. Bản thể phải có sẵn trước khi các tùy thể có thể tồn tại. Nhưng về mặt tồn tại thực hữu, bản thể và tùy thể luôn gắn liền với nhau. Người ta không bao giờ phát hiện ra một bản thể vật lý mà lại không có các tùy thể. Sự hiện hữu bản thể xuất hiện từ một cấp độ hiện hữu sâu hơn là cấp độ hiện hữu của phụ thể. Vì bản thể là nền tảng, vốn là nòng cốt cho hiện hữu tùy thể, và đưa ra lời giải thích cuối cùng cho mọi tùy thể.

Hai phương thức tồn tại căn bản nhất của hữu thể là tồn tại như là bản thể và tồn tại như là tùy thể. Như thế, chúng ta cũng có thể nói về hai phương thức tồn tại của mô thể là mô thể bản thể (substantial form) và mô thể tùy thể (accidental form). Mô thể tùy thuộc là một phương thức hiện hữu đặc thù của mô thể bản thể. Trái lại, mô thể bản thể là nguyên tắc sắp xếp và thống nhất của tất cả mô thể tùy thể vốn nói lên bản chất của đối tượng vật chất đó. Mỗi đối tượng chỉ có một mô thể bản thể, và nếu không có nó, thì sẽ không có sự thống nhất, không có trật tự. Tuy nhiên, một hữu thể có bao nhiêu đặc tính, cái mà giúp xác định mô thể bản thể của một hữu thể, thì sẽ có bấy nhiêu mô thể tùy thể. Ví dụ, màu sắc của các loài chim chích chòe sống trong vùng nhiệt đới biểu thị cho mô thể tùy thể của mô thể bản thể “chim chích chỏe”. Chiếc đồng hồ chỉ có “mô thể tùy thể” nhưng mọi hình thức sự sống đều có “mô thể bản thể”, vì sự sống là khả năng tự tồn xuất phát từ các nguyên lý nội tại của nó. Trong khoa học hiện đại, thuật ngữ “bản thể” bị phủ nhận như là một điều đáng tiếc mà thời kỳ đen tối của lịch sử nhận thức con người để lại. Nhưng nếu sự phân tích về thế giới vật chất mà không có bất kỳ sự liên quan nào đến bản thể tức là nền tảng vật chất của đối tượng đang được nghiên cứ, cho dù không sử dụng hạn từ “bản thể”, thì làm sao các nhà khoa học có thể xác định hoặc nói điều gì đó về thế giới vật chất được? Họ đang đối diện với thực tại có bản thể là vật chất. Như thế, ho không thể thoát khỏi được thực tại của chính điều mà họ từ chối thừa nhận.

YẾU TÍNH VÀ TỒN TẠI

Cuối cùng, chúng ta hãy xét cặp phạm trù vốn có khả năng phân biệt giữa cách hữu thể tồn tại bên trong và bên ngoài của nó. Hầu hết các sai lầm trong triết học có liên quan đến sự lẫn lộn về ý nghĩa chính xác giữa hai hạn từ “yếu tính” và “hiện hữu”, hoặc thiếu thừa nhận sự phân biệt giữa hai từ đó. Người ta hay giản lược hoặc nhầm lẫn giữa hai phạm trù này. Yếu tính thì rất gần với khái niệm mô thể hay bản thể. Yếu tính của vật nào đó đơn giản chỉ là bản tính tự nhiên hay là cá thể tính (quidditas) của nó. Không có vật gì mà lại không có yếu tính, vì nếu không thì sẽ không có gì gọi là “vật” được. Tri thức con người có thể trừu xuất yếu tính (mô thể, bản thể, cá thể tính) của một sự vật ra khỏi từng hữu thể để có thể nhận thức được sự riêng biệt của nó. Chỉ ngang qua yếu tính của các hữu thể thì chúng ta mới biết được nhiều thứ khác nhau. Đây đơn giản là sự kết hiệp giữa khả năng nhận diện thực thể vật chất và phi vật chất.  Trí khôn con người, vốn dĩ là phi vật chất, có thể nắm bắt được một cách trọn vẹn yếu tính của sự vật, thông qua phương pháp trừu xuất. Trí khôn trừu xuất yếu tính phi vật chất từ vật chất tính của những cá thể. Nhưng liệu “yếu tính” có bảo đảm sự tồn tại của một hữu thể không? Biêt yếu tính của một hữu thể có thể kết luận là hữu thể đó hiện hữu không?

Tất nhiên, yếu tính có thực vì nó là ý tưởng trí khôn trừu xuất từ hữu thể, nhưng bản chất của sự tồn tại đó là tùy thể, nó chỉ hiện hữu trong tâm trí. Khả năng hình thành một khái niệm về một sự vật của con người tự nó không thể tạo nên sự tồn tại của sự vật đó bên ngoài tâm trí. Nhưng cho dù mọi sự vật luôn trong trạng thái thay đổi, trí khôn vẫn có thể nắm bắt được yếu tính, hay ý tưởng rõ ràng về cá thể tính (quidditas) của sự vật. Tồn tại chính là hành động biểu lộ yếu tính của một hữu thể ra bên ngoài nó. Hiện hữu là đi vào trong các phạm trù thời gian và không gian. Đây không phải là một hành vi hay hoạt động bên ngoài vốn có thể được quan sát và định lượng. Rõ ràng là trước khi điều gì đó có thể ở trong một cách thế cụ thể, trước hết nó đơn giản phải là, vì hiện hữu là mô thức chính yếu hay cơ bản nhất của hành động. Để một con ngựa chạy nhanh thì trước tiên nó phải tồn tại như là con ngựa. Aristotle gọi mô thức cơ bản của hữu thể này là “Nhất vi” hay “hành động tiên khởi”. Hiện hữu là cách yếu tính thể hiện chính mình. Hiện hữu nói lên “cái là” (is-ness) của yếu tính. “Cá thể tính” (quidditas) đứng im, nhưng “là” hay hiện hữu sẽ không ở một chỗ. “Là” là hành động mà ngang qua nó một cái gì đó tỏ  lộ chính nó. Khi ta có được một ý tưởng về “X”, tức là ta nắm bắt được yếu tính của X, nhưng tồn tại, tức là hành động của hiện hữu, sẽ không bị nắm bắt. Chúng ta không thể sao chụp được chân dung của cái “là” trong trạng thái bất động hay chuyển động”, bởi vì “là” là nguyên lý ẩn hiện đàng sau cả hai trạng thái vốn là mối liên kết nền tảng giữa lý trí và thế giới vật lý.

Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM

[i] Triết học về Thiên Nhiên. Joseph Tân Nguyễn, OFM. Học Viện Phanxicô, 2021