Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cải cách thủ tục hành chính

NỘI DUNG


CHƯƠNG 1:

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Cơ sở lý luận:

Thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền hành pháp để giải quyết công việc của nhà nước, cá nhân và tổ chức, do đó thủ tục hành chính là sơ cở và là điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết công việc của dân và tổ chức theo pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và của tổ chức có công việc cần giải quyết. Vì vậy thủ tục hành chính càng đơn giản thì tránh được sự phiền hà, sách nhiễu, rút ngắn được thời gian, làm cho công việc được giải quyết nhanh chóng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Khi thủ tục hành chính thông thoáng, hiệu quả thì càng thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta làm ăn tạo ra nguồn vốn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn, việc làm, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước.

Thủ tục hành chính thông thoáng lành mạnh còn tạo nên sự thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước chống tệ nạn quan liêu, tùy tiện, hách dịch, tăng cường pháp chế XHCN. TTHC bảo đảm thực hiện quyền con người một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, đảm bảo quyền tự do, dân chủ, tạo ra cách thực hiện công việc nhanh gọn khoa học nhất. Chương trình cải cách tổng thể thủ tục hành chính năm 2001 – 2010 đề ra mục tiêu cải cách hành chính là: Xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010 hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN.

1.2. Khái niệm thủ tục hành chính

Thủ tục theo nghĩa tiếng việt là cách thức tiến hành công việc theo một trình tự hay một luật lệ đã quen, theo từ điển từ ngữ và hán việt, nhà xuất bản TPHCM.

Thủ tục hành chính (TTHC) theo cuốn Đại từ điển tiếng việt của nhà xuất bản Văn hóa thông tin năm 1998 là cách thức tiến hành một công việc với nội dung và trình tự nhất định theo quy định của cơ quan nhà nước .

Theo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ quy định Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức.

Có thể nhận thấy qua các khái niệm trên thủ tục hành chính là một quy phạm pháp luật quy định về trình tự về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền trong mối quan hệ nội bộ của hành chính và giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức cá nhân công dân.

TTHC là một bộ phận chế định của Luật hành chính. Nói cách khác, TTHC là một loại hình quy phạm mang tính công cụ để giúp các cơ quan Nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng của mình. Nếu không có các quy định bắt buộc về thủ tục hành chính sẽ không có những căn cứ pháp lý để thực hiện các hoạt động công vụ, giao dịch hành chính gây cản trở một phần hoặc ngưng trệ hoàn toàn hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. TTHC được đặt ra để các cơ quan Nhà nước có thể thực hiện mọi hình thức hoạt động cần thiết của mình trong đó bao gồm cả trình tự thành lập các công sở, bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động công chức, viên chức, trình tự lập quy, áp dụng quy phạm để đảm bảo các quyền của chủ thể và xử lý vi phạm, trình tự điều hành, tổ chức các hoạt động tác nghiệp hành chính. Thủ tục hành chính là các quy tắc phải tuân thủ theo trong quá trình ra các quyết định hành chính của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.

TTHC do các cơ quan Nhà nước ban hành để thực thi Hiến pháp và pháp luật cũng như thực hiện chức năng quản lý của nền hành chính nhà nước (HCNN) và hoàn thiện nhiệm vụ của mình, đồng thời các cơ quan HCNN có trách nhiệm thực thi các thủ tục đó để bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh trong xã hội khi thực thi pháp luật.

Như vậy, TTHC vừa là công cụ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước vừa là điều kiện để công dân, các tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước.

1.3. Đặc điểm của thủ tục hành chính

Thủ tục hành chính là một trong các hình thức thủ tục pháp lý là thủ tục lập pháp, thủ tục hành pháp và thủ tục tư pháp, cũng như mọi hiện tượng có tính chất thủ tục khác, cụ thể là các hình thức thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính. TTHC có các đặc điểm chung cơ bản: Là hình thức của các quy phạm vật chất phát sinh từ quy phạm vật chất nhưng lại là phương tiện đảm bảo thực hiện quy phạm vật chất. Tuy nhiên bản thân thủ tục hành chính là loại thủ tục riêng, có đặc điểm riêng, chứng tỏ nó là một hiện tượng pháp lý có tính chất độc lập tương đối, đó là các đặc điểm sau:

Một là, TTHC do pháp luật quy định. Điều này cho thấy thủ tục hành chính là một loại việc phải được hình thành bởi các quy phạm pháp luật. TTHC được nhà nước xác lập nhằm mục đích thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính. Nếu một hoạt động mà luật pháp không quy định cần những TTHC nhất định thì các nhà quản lý nhà nước không được tự đặt ra thủ tục. TTHC là một nhân tố bảo đảm cho sự hoạt động chặt chẽ, thuận lợi và đúng chức năng quản lý của cơ quan nhà nước, vì nó là những hành vi chuẩn mực cho mọi công dân, cán bộ, công chức nhà nước tuân theo và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. TTHC còn là thủ tục giải quyết các công việc liên quan đến quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức nếu không được pháp luật quy định đầy đủ và chặt chẽ thì rất khó trong việc ngăn ngừa khả năng xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Hai là, thủ tục hành chính rất đa dạng, phong phú. TTHC là tổng thể các hoạt động diễn ra theo trình tự, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước, công chức nhà nước nhằm giải quyết các công việc của nhà nước và các công việc liên quan đến quyền, nhiệm vụ pháp lý của công dân. Nói cách khác sự đa dạng và phong phú của thủ tục hành chính được quy định bởi hoạt động quản lý nhà nước diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, bộ máy hành chính bao gồm rất nhiều các cơ quan từ trung ương đến địa phương, mỗi cơ quan trong đó thực hiện thẩm quyền của mình đều phải tuân theo những thủ tục nhất định.

Trong điều kiện hiện nay, TTHC ở nước ta phong phú, đa dạng và phức tạp bởi nền hành chính nhà nước hiện nay đang chuyển từ hành chính cai quản (hành chính đơn thuần) sang hành chính phục vụ, từ quản lý tập trung sang quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời xu hướng hợp tác quốc tế làm cho các TTHC phải tính đến yếu tố nước ngoài.

Ba là, TTHC diễn ra theo trật tự các bước nhất định, là trình tự thực hiện thẩm quyền trong quản lý hành chính nhà nước: Lĩnh vực chấp hành, điều hành. Nghĩa là thủ tục hành chính được phân biệt với thủ tục tư pháp, thủ tục tố tụng tại tòa án. Các TTHC được ban hành trong các văn bản luật và dưới luật do đó có tính pháp quy rất cao. Thủ tục hành chính được hiểu là các thủ tục một chiều, người dân có quyền và nghĩa vụ phải tuân thủ, chỉ khi đáp ứng đầy đủ những yêu cầu, văn bản, giấy tờ cần thiết theo các quy định của pháp luật thì người dân, tổ chức mới có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền thực hiện, giải quyết thủ tục của mình.

Bốn là, thủ tục hành chính được tiến hành bởi nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau. TTHC được sử dụng trong tất cả cách lĩnh vực của đời sống xã hội, mỗi lĩnh vực lại được quản lý bởi các cơ quan chuyên ngành khác nhau do đó mỗi cơ quan, đơn vị có thẩm quyền sẽ được thực hiện các thủ tục hành chính trong thẩm quyền quản lý, giải quyết của mình. Trong lĩnh vực tư pháp, việc tiến hành tố tụng được thực hiện theo các thủ tục được quy định chỉ do một số cơ quan nhất định như tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra thực hiện. Trong việc thực hiện thủ tục hành chính khác lại do rất nhiều cơ quan nhà nước khác nhau tiến hành: Các cơ quan hành pháp, tư pháp, lập pháp; trong quan hệ nội bộ giữa các cơ quan và đối tượng ngoài cơ quan với tư cách quản lý nhà nước.

Năm là, các văn bản về TTHC tản mạn, không tập trung. Đây là thực trạng đang gây khó khăn trong công tác cải cách thủ tục hành chính hiện nay, các TTHC được ban hành không thống nhất, đôi khi có sự mâu thuẫn hoặc hướng dẫn thực hiện một cách chồng chéo nhau. Các văn bản chứa đựng các TTHC được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn ở lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính có rất nhiều văn bản cụ thể hóa pháp lệnh được ban hành về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau hoặc có những TTHC được quy định trong các văn bản không phải luật hành chính.

Tóm lại, về việc nghiên cứu các đặc điểm của TTHC giúp chúng ta phân biệt được TTHC với thủ tục của các cơ quan lập pháp và tư pháp (thủ tục lập pháp và thủ tục tư pháp), đồng thời cũng là căn cứ lớn để thực hiện đơn giản hóa thủ tục trong giai đoạn hiện nay.

1.4. Vai trò của TTHC

TTHC giữ một vai trò rất quan trọng trong việc điều hành bộ máy công quyền, bởi mục tiêu của nền hành chính là hướng tới việc quản lý nhà nước một cách có hiệu lực, hiệu quả, do đó TTHC đảm bảo tính pháp chế và đem lại hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và của UBND huyện nói riêng.

Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng gần 20 lần nói đến vấn đề CCHC. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh: “Bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân”, “đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục”.

Hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước là tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật nhằm đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra. TTHC là cơ sở pháp lý vững chắc để các chủ thể tiến hành thực hiện các hoạt động giải quyết công việc thuộc chức năng của mình đồng thời là chuẩn mực để đánh giá và đảm bảo tính hợp pháp của quá trình thực hiện các nhiệm vụ công vụ. Cũng nhờ đó mà hoạt động quản lý nhà nước được bảo đảm theo tinh thần công khai, minh bạch và tuân thủ nguyên tắc pháp chế. Từ quan điểm trên thì TTHC thuộc về yếu tố thể chế tức là vấn đề ban hành và thực hiện TTHC. Không phải vô tình mà có quan niệm gắn TTHC với phương diện tiên quyết là thể chế, quy định quyền, nghĩa vụ và cách thức, điều kiện để thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó. Về phương diện khác thì TTHC liên quan chặt chẽ với cơ quan quản lý hành chính nhà nước, đồng thời là cơ sở pháp lý cho hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.

CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA, NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG THỜI GIAN TỚI

2.1. Thực trạng cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính ở nước ta

2.1. 1 Những thành tựu:

Nhằm từng bước tạo ra nền hành chính nhà nước hoạt động thống nhất, chặt chẽ, phù hợp với xu thế đổi mới, ngày 4/5/1994 chính phủ đã ban hành nghị quyết 38/1994/NQ-CP về cải cách một bước thủ tục hành chính trên tám lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công việc của dân và doanh nghiệp làm điểm đột phá. Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chương trình “Tổng thể cải cách hành chính nhà nước năm 2001 – 2010”, tại nghị quyết 38/2001/NQ-ttg với mục tiêu trong cải cách thủ tục hành chính là: Xóa bỏ về cơ bản thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rờm rà, gây phiền hà cho nhân dân và các doanh nghiệp, hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo xu hướng công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân. Chương trình tổng thể cải cách thủ tục hành chính nhà nước năm 2001 – 2010 đề ra bốn nội dung là: Cải cách thể chế; cải cách bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.

Từ khi nghị quyết 38 ra đời đến nay nền hành chính nước ta nói chung và thủ tục hành chính nói riêng có những thay đổi rõ rệt có lợi cho người dân và tổ chức khi đến cơ quan nhà nước giải quyết công việc. Cũng như giữa cơ quan và nhà nước với nhau. Ở mức độ tổng quát có thể đưa ra nhận định cải cách TTHC đạt được một số thành tựu sau:

2.1. 1.1 Những công việc của dân và doanh nghiệp được quy về một đầu mối

Những thủ tục rườm rà, phức tạp, không cần thiết đã được bãi bỏ, những thủ tục cần thiết được thu gọn lại. Điển hình nhất là trong lĩnh vực thành lập và đăng ký doanh nghiệp, trước khi có nghị quyết 38 muốn thành lập một doanh nghiệp phải trải qua hai bước với nhiều loại giấy tờ, trải qua nhiều khâu, tốn kém thời gian và tiền của nhưng hiện nay với việc ban hành luật doanh nghiệp 2005, thì các thủ tục đã rút ngắn rất nhiều chỉ cần nộp đơn đăng ký ở phòng đăng ký kinh doanh của tỉnh nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Tiếp theo chính phủ ban hành nghị định về giao dịch có bảo đảm tại một hệ thống cơ quan thống nhất có bảo đảm và thực hiện đăng ký giao dịch có bảo đảm tại một hệ thống cơ quan thống nhất có phạm vi toàn quốc. Hệ thống cơ quan này đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng lớn, đa dạng và phong phú khi nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng phát triển sôi động.

2.1. 1.2 Hạn chế tối đa sự ban hành văn bản của cơ quan hành chính của cấp chính quyền địa phương

Theo điều 2 nghị định 02/2002/NĐ-CP thì các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp không được ban hành các quy định về đăng ký kinh doanh áp dụng riêng cho ngành hoặc địa phương mình. Hầu hết các lĩnh vực có cải cách thủ tục hành chính đến nay chính phủ đã ban hành các văn bản quy định về thủ tục giải quyết công việc của nhân dân và của doanh nghiệp. Các bộ, ban, ngành đều đã có văn bản hướng dẫn thi hành.

2.1. 1.3 Trình tự, lệ phí giải quyết công việc ở các cơ quan điều được công khai hóa

Tại các trụ sở làm việc của cơ quan, cán bộ, nhân viên làm công tác tiếp dân đã được bố trí thường trực, tránh sự gián đoạn trong việc giải quyết công việc của nhân dân. Nhà nước đã bãi bỏ nhiều thủ tục, nhiều nội dung kiểm soát không hợp lý, đặt niềm tin vào nhân dân. Trước đây khi đăng ký kinh doanh các chủ doanh nghiệp phải kê khai đầy đủ các loại giấy tờ về khám sức khoẻ, vốn pháp định, lí lịch về bản thân phải có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nói chung là rất phiền phức nhưng nay những thủ tục đó không bắt buộc. Còn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hiện nay nhà nước cho phép các chủ hàng tự kê khai hàng hóa số thuế phải nộp và tự chịu trách nhiệm về tính trung thực trước pháp luật. Trước khi có nghị quyết 38 của chính phủ chỉ có hai cơ quan có thẩm quyền cấp giấy kinh doanh xuất nhập khẩu theo hạn ngạch và chỉ tiêu đối với một số mặt hàng do nhà nước quản lý. Do đó doanh nghiệp muốn có giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến phải trải qua ba bước, những trường hợp phức tạp phải có trên 18 loại giấy tờ qua khoảng 16 cửa rất tốn kém, phiền hà. Về thủ tục kiểm tra, kiểm dịch hàng hóa xuất, nhập khẩu của hải quan cửa khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải xuất trình 12 loại giấy tờ, xuất khẩu có 9 loại giấy tờ. Sau khi có NQ/38/1994 trong lĩnh vực nhập khẩu đã cónhững cải biến mạnh mẽ, bãi bỏ giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến và thực hiện xuất nhập khẩu theo giấy phép kinh doanh. Từ năm 1999 thủ tục thu thuế xuất nhập khẩu dưới dạng mẫu hóa đã được áp dụng rút ngắn thời gian làm thủ tục.

Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại việt nam, trước khi có NQ/38 thì việc thẩm định hồ sơ dự án phải thông qua 8 hội đồng được thành lập ở các cơ quan khác nhau với 8 loại hồ sơ riêng. Sau khi có nghị quyết 38 quốc hội thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nay là luật đầu tư, quy định phân định rõ thẩm quyền của các bộ, ngành, địa phương trong hoạt động đầu tư. Bỏ thủ tục xin giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép ngành nghề đối với những ngành nghề theo quy định phải có giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép hành nghề.

2.1. 2 Những tồn tại của cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua

Như vậy, sau khi có NQ38/1994/NQ-CP ra đời chính phủ cũng như các cơ quan liên quan đã tiến hành cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là 8 lĩnh vực theo NQ38/1994/NQ-CP và đã gặt hái được nhiều thành tựu tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục, đó là:

2. 1.2. 1 Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua vẫn nặng nề về giải pháp tình thế, thiếu tính tổng thể.

2. 1.2. 2 Các biện pháp cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua vẫn mang tính thử nghiệm, phương châm cải cách về cơ bản vẫn là vừa làm vừa lấy kinh nghiệm, vừa học hỏi. Vì thế chính phủ chưa hoạch định được một chiến lược tổng thể về cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng. Điều này làm cho tiến trình cải cách gặp nhiều lúng túng, bị động trước đòi hỏi của xã hội.

2.1. 2.3 Chất lượng dịch vụ công nhà nước cung cấp cho nhân dân còn thấp chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân và giới doanh nghiệp. Nạn tham nhũng, hạch sách thái độ thờ ơ của cán bộ công chức đối với công việc của công dân càng phổ biến, khi có việc người dân đi đến cơ quan chức năng để giải quyết nhìn chung vẫn bị đối xử như người đi nhờ vả, đi xin. Phương tiện hiện đại cho một nền hành chính công hoạt động hiệu quả còn thiếu, vì thế năng suất giải quyết công việc của dân còn thấp cải cách thủ tục hành chính chưa tương xứng với các lĩnh vực, những khuyết tật trong nền hành chính gây ra những biến dạng, trong sự vận hành của thủ tục hành chính mới.

2.1. 3 Nguyên nhân tồn tại

Sở dĩ có những tồn tại trên là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:

2.1. 3.1 Nguyên nhân chủ quan:

– Do sự yếu kém về nhận thức của các cơ quan liên quan chưa thấy hết tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác cải cách thủ tục hành chính.

– Công tác tổng kết đúc rút kinh nghiệm thực tiễn phát triển lý luận và dẫn đường cho thực tiễn còn chưa được chú trọng đúng mức, các nguồn lực như: Thời gian, công sức, kinh phí.. dành cho cải cách thủ tục hành chính chưa tương xứng.

– Đội ngũ cán bộ công chức về cơ bản còn thiếu, yếu cả về trình độ chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức chính trị.

– Chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức có nhiều bất hợp lý dẫn đến công cuộc cải cách thủ tục hành chính thiếu động lực, đội ngũ cán bộ, công chức không thiết tha với công việc.

2.1. 3.2 Nguyên nhân khách quan:

– Do tính chất của đối tượng quản lý, sự nghiệp đổi mới diễn ra chưa lâu, do đó chưa tích lũy được kinh nghiệm, các quy luật của nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường mới bước đầu bộc lộ, do đó việc nhận thức.

– Do tính mới mẻ của hoạt động cải cách thủ tục hành chính, đây thực sự là một công việc chưa có tiền lệ ở nước ta, thêm vào đó là thói quen quản lý theo kiểu cũ còn ăn sâu trong đại bộ phận cán bộ, công chức nhà nước.

– Trình độ của các nhà khoa học trong ngành và các nhà lý luận chính trị vẫn chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra.

2.2. Những phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính trong thời gian tới

2.2. 1 Phương hướng cải cách TTHC

2.2. 1.1 Để công việc cải cách thủ tục hành chính đạt hiệu quả cao, tạo ra được môi trường thông thoáng, hài hòa về mức độ và phương thức can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế xã hội. Chương trình tổng thể về cải cách thủ tục hành chính từ năm 2001-2010 đề ra 5 giải pháp thực hiện:

– Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành.

– Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ từ trung ương đến địa phương nhất là đối với cấp xã.

– Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ, đổi mới hệ thống chính trị.

– Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân lực.

– Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền.

2.2. 1.2 Trong thời gian tới chúng ta phải tập trung các nguồn lực về thời gian, công sức, kinh phí để tìm ra các biện pháp cấp bách nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc, sau một thời gian tiến hành cải cách thủ tục hành chính. Trên cơ sở đó phương hướng đổi mới trong thời gian tới có thể là:

– Giành các nguồn lực thỏa đáng, tập trung nghiên cứu và đưa ra giải pháp tối ưu nhất về mức độ và phương thức can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực lĩnh tế, xã hội. Cần phải tiến hành rà soát thủ tục hành chính trong phạm vi rộng, học tập kinh nghiệm nước ngoài để xây dựng chiến lược, kế hoạch nhiệm vụ và từng bước đi của công cuộc cải cách thủ tục hành chính.

– Cần quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa nhân dân và tập thể, giữa cơ quan nhà nước với nhân dân, xây dựng một chính sách thưởng phạt thỏa đáng, nhằm khích lệ tinh thần làm việc của cán bộ, công nhân viên chức. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, loại bỏ bệnh chạy theo thành tích cá nhân làm mất uy tín, sự tin tưởng của nhân dân, người cán bộ công chức phải xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

2.2. 1.3 Đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền

– Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm nhằm tạo điều kiện để người đứng đầu phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị, hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao; khắc phục tình trạng thụ động cũng như việc “đùn đẩy trách nhiệm”.

– Bởi vậy, trong các văn bản pháp luật, pháp quy phải phân công, xác định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm của người đứng đầu, của tập thể, của từng ngành, từng cấp, từng cán bộ, công chức, nhân viên, một vụ việc xẩy ra phải có địa chỉ rõ ràng. Không để một việc, một lĩnh vực mà có nhiều người, nhiều chỗ có quyền, hoặc có quyền nhưng không đến nơi đến chốn, không rõ ràng. Với bộ máy hành chính mà trách nhiệm chồng chéo và chưa rõ ràng thì trách nhiệm của người đứng đầu nhiều khi thật khó phân xử. Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cải cách TTHC trước hết cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản của Đảng và Nhà nước có liên quan đến công tác này.

2.2. 1.4 Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kiểm soát thủ tục hành chính

– Công nghệ thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước. Nhiều văn bản Luật, Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định.. của Đảng và Nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin đã nhấn mạnh việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động nội bộ và giữa các cơ quan nhà nước, trong giao dịch của cơ quan nhà nước với tổ chức và cá nhân; hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính và làm cho hoạt động của cơ quan nhà nước công khai, minh bạch hơn, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn.

– Có thể nói tin học hóa hành chính Nhà nước vừa là phương tiện, vừa là áp lực đối với cải cách hành chính Nhà nước.

Hệ thống công nghệ thông tin ứng dụng được quyết định bởi phần “ứng dụng”, tức là phần thiết lập các hệ thống thông tin, hệ thống các cơ sở dữ liệu, các quy trình vận hành và luân chuyển thông tin do bộ máy hành chính thực hiện. Phần công nghệ gồm phần cứng, phần mềm, mạng, đào tạo sử dụng, chỉ là phương tiện để chuyển các quy trình vận hành bằng phương thức hành chính truyền thành quy trình quản lý hành chính bằng các phần mềm phương thức hành chính bằng điện tử. Do đó việc ứng dụng công nghệ thông tin càng tốt, càng cao bao nhiêu thì việc kiểm soát các thủ tục, quá trình giải quyết thủ tục càng dễ dàng, thuận tiện và chính xác bấy nhiêu.

2.2. 2 Giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính trong thời gian tới

2.2. 2.1 Cần quan tâm đúng mức về vấn đề lương, thưởng đối với những người chịu thiệt thòi từ cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng.

Xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh. Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển như vũ bão về mọi lĩnh vực thì con người luôn đóng vai trung tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì vậy thủ tục hành chính dù diễn ra theo một mô hình nào đi nữa thì vai trò của cán bộ công chức trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính luôn ở vị trí hàng đầu, Đội ngũ cán bộ công chức phải thấy được tầm quan trọng của mình trong việc cải cách thủ tục hành chính, bên cạnh đó không được có thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm. Để có đội ngũ cán bộ công chức lành mạnh cần phải:

– Đề cao phẩm chất lối sống của cán bộ công chức, thường xuyên tổ chức lấy ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, của người dân, điều quan trọng là phải lãnh đạo cán bộ công chức một cách có hệ thống, cán bộ, công chức phải có kiến thức uyên bác, bản lĩnh chính trị vững vàng, tận tâm phục vụ nhân dân.

– Cần có một chế độ tiền lương thỏa đáng với chế độ làm việc tăng lương cho cán bộ công chức cũng là một biện pháp để đẩy nhanh tiến trình cải cách bởi vì lúc đó cán bộ công chức có nhiều thời gian cho công việc không phải lo những vấn đề của cuộc sống đời thường.

– Thường xuyên giáo dục ý thức chấp hành, thái độ cung cách làm việc, sự nhiệt tình trong công tác để nâng cao chất lượng việc cải cách hành chính có hiệu quả cao, làm cho người dân thực sự tin tưởng vào đội ngũ cán bộ, công chức.

– Thường xuyên cử đoàn thanh tra chuyên ngành về kiểm tra, giám sát hoạt động của các cấp, ngành, địa phương trong cải cách thủ tục hành chính. Muốn vậy cần phải đi thực tế đánh giá dựa trên kết quả làm việc chứ không phải thanh tra dựa trên kết quả báo cáo.

2.2. 2.2 Tiếp tục mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực có sự kiểm tra giám sát của nhà nước theo hướng giảm thiểu sự kiểm soát phì hiệu quả và không cần thiết nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước.

2.2. 2.3 Các loại giấy tờ hồ sơ của công dân, doanh nghiệp có nội dung cần thẩm định thì đều phải được mẫu hóa thống nhất.

Cần niêm yết công khai các mức thu phí, lệ phí tại cơ quan hành chính để nhận dân theo dõi và thực hiện tốt nghĩa vụ. Khi xây dựng phải công khai để dân biết, dân đóng góp ý kiến vì mục tiêu chung là mang lại lợi ích cho nhân dân. Bố trí cán bộ, nhân viên có mặt thường xuyên để tiếp dân. Đối với những thủ tục liên quan chặt chẽ tới hoạt động kinh doanh như thủ tục hải quan, thủ tục đăng ký kinh doanh nên duy trì chế độ làm việc cả ngày thứ bảy.

2.2. 4 Đổi mới toàn bộ cơ chế ban hành thủ tục hành chính các văn bản phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các ban ngành hữu quan và phải có tính thực tế cao phù hợp với điều kiện cụ thể.

Cần nghiên cứu, phát hiện và loại bỏ thủ tục rườm rà không cần thiết, dễ lợi dụng và thiếu đồng bộ, phải tạo ra một cơ chế thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân khi cần liên hệ. Thủ tục hành chính phải đảm bảo tính dân chủ, công khai.

2.2. 2.5 Các cấp ngành trong bộ máy hành chính nhà nước cần tuyên truyền phổ biến các kiến thức pháp luật nhà nước nhiều hơn nửa trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân và các tổ chức nắm rõ hơn về các thủ tục hành chính mà họ có quyền và nghĩa vụ phải thực hiện.

Với tiến độ thông tin như hiện nay các phòng bạn cần trang bị cho mình các phương tiện kỹ thuật cần thiết trợ giúp cho công tác lưu trữ cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn về tin học, ngoại ngữ để xử lý các tình huống hoặc truy cập các tin tức về ban hành một số văn bản nghị quyết hoặc sửa đổi của pháp luật về hành chính một cách nhanh chóng và có hiệu quả.

2.2. 2.6 Khi xây dựng pháp luật cần chú ý các yếu tố: Phong tục, tập quán để khi ban hành có tính khả thi cao, mang lợi ích thiết thực, để nâng cao chất lượng các thủ nhà nước đề ra.

Một số địa phương cấp cơ sở, thành phố nếu thấy thủ tục nào không phù hợp thì mạnh dạn đề xuất với các cấp, các ngành trình lên sở, trung ương có hướng dẫn cụ thể góp phần xây dựng và hoàn thiện việc cải cách thủ tục hành chính của địa phương mình.

2.2. 2.7 Để có chất lượng và hiệu quả cao trong công việc cải cách hành chính thì mỗi tỉnh, thành phố, đến địa phương, mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị đều phải dựa trên nền tảng của luật pháp để mà tự tìm cho mình phương pháp cải cách hợp lý nhất, phù hợp với thực trạng đơn vị mình và theo sự chỉ đạo của nhà nước.

2.2. 2.8 Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động cải cách thủ tục hành chính

– Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước khi nói đến hoạt động thanh tra người ta thường nói liền với hoạt động kiểm tra hoặc ngược lại. Việc nhiều văn bản của các cấp ủy, chính quyền cũng viết như vậy xuất phát từ mối quan hệ qua lại và gắn bó với nhau giữa thanh tra và kiểm tra. Mục đích của các hoạt động này đều nhằm phát huy những nhân tố tích cực; phòng ngừa, phát hiện, xử lý những vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao của các chủ thể, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và đưa ra các biện pháp tổ chức thực hiện tiếp theo để đạt kết quả như mong muốn.

– Việc thường xuyên kiểm tra tiến độ và chất lượng thực hiện cải cách thủ tục hành chính giúp nắm bắt và có ý kiến cụ thể đối với từng hoạt động cải cách hành chính của cơ quan. Kịp thời, nghiêm túc thực hiện các hoạt động như xây dựng kế hoạch, xây dựng báo cáo, chấm điểm công tác cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính..

Thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền hành pháp để giải quyết công việc của nhà nước, cá nhân và tổ chức, do đó thủ tục hành chính là sơ cở và là điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết công việc của dân và tổ chức theo pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và của tổ chức có công việc cần giải quyết. Vì vậy thủ tục hành chính càng đơn giản thì tránh được sự phiền hà, sách nhiễu, rút ngắn được thời gian, làm cho công việc được giải quyết nhanh chóng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Khi thủ tục hành chính thông thoáng, hiệu quả thì càng thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta làm ăn tạo ra nguồn vốn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn, việc làm, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước.Thủ tục hành chính thông thoáng lành mạnh còn tạo nên sự thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước chống tệ nạn quan liêu, tùy tiện, hách dịch, tăng cường pháp chế XHCN. TTHC bảo đảm thực hiện quyền con người một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, đảm bảo quyền tự do, dân chủ, tạo ra cách thực hiện công việc nhanh gọn khoa học nhất. Chương trình cải cách tổng thể thủ tục hành chính năm 2001 – 2010 đề ra mục tiêu cải cách hành chính là: Xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010 hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN.Thủ tục theo nghĩa tiếng việt làtheo từ điển từ ngữ và hán việt, nhà xuất bản TPHCM.Thủ tục hành chính (TTHC) theo cuốn Đại từ điển tiếng việt của nhà xuất bản Văn hóa thông tin năm 1998 làTheo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ quy định Thủ tục hành chính làCó thể nhận thấy qua các khái niệm trên thủ tục hành chính là một quy phạm pháp luật quy định về trình tự về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền trong mối quan hệ nội bộ của hành chính và giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức cá nhân công dân.TTHC là một bộ phận chế định của Luật hành chính. Nói cách khác, TTHC là một loại hình quy phạm mang tính công cụ để giúp các cơ quan Nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng của mình. Nếu không có các quy định bắt buộc về thủ tục hành chính sẽ không có những căn cứ pháp lý để thực hiện các hoạt động công vụ, giao dịch hành chính gây cản trở một phần hoặc ngưng trệ hoàn toàn hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. TTHC được đặt ra để các cơ quan Nhà nước có thể thực hiện mọi hình thức hoạt động cần thiết của mình trong đó bao gồm cả trình tự thành lập các công sở, bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động công chức, viên chức, trình tự lập quy, áp dụng quy phạm để đảm bảo các quyền của chủ thể và xử lý vi phạm, trình tự điều hành, tổ chức các hoạt động tác nghiệp hành chính. Thủ tục hành chính là các quy tắc phải tuân thủ theo trong quá trình ra các quyết định hành chính của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.TTHC do các cơ quan Nhà nước ban hành để thực thi Hiến pháp và pháp luật cũng như thực hiện chức năng quản lý của nền hành chính nhà nước (HCNN) và hoàn thiện nhiệm vụ của mình, đồng thời các cơ quan HCNN có trách nhiệm thực thi các thủ tục đó để bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh trong xã hội khi thực thi pháp luật.Như vậy, TTHC vừa là công cụ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước vừa là điều kiện để công dân, các tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước.Thủ tục hành chính là một trong các hình thức thủ tục pháp lý là thủ tục lập pháp, thủ tục hành pháp và thủ tục tư pháp, cũng như mọi hiện tượng có tính chất thủ tục khác, cụ thể là các hình thức thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính. TTHC có các đặc điểm chung cơ bản: Là hình thức của các quy phạm vật chất phát sinh từ quy phạm vật chất nhưng lại là phương tiện đảm bảo thực hiện quy phạm vật chất. Tuy nhiên bản thân thủ tục hành chính là loại thủ tục riêng, có đặc điểm riêng, chứng tỏ nó là một hiện tượng pháp lý có tính chất độc lập tương đối, đó là các đặc điểm sau:TTHC do pháp luật quy định. Điều này cho thấy thủ tục hành chính là một loại việc phải được hình thành bởi các quy phạm pháp luật. TTHC được nhà nước xác lập nhằm mục đích thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính. Nếu một hoạt động mà luật pháp không quy định cần những TTHC nhất định thì các nhà quản lý nhà nước không được tự đặt ra thủ tục. TTHC là một nhân tố bảo đảm cho sự hoạt động chặt chẽ, thuận lợi và đúng chức năng quản lý của cơ quan nhà nước, vì nó là những hành vi chuẩn mực cho mọi công dân, cán bộ, công chức nhà nước tuân theo và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. TTHC còn là thủ tục giải quyết các công việc liên quan đến quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức nếu không được pháp luật quy định đầy đủ và chặt chẽ thì rất khó trong việc ngăn ngừa khả năng xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của họ.thủ tục hành chính rất đa dạng, phong phú. TTHC là tổng thể các hoạt động diễn ra theo trình tự, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước, công chức nhà nước nhằm giải quyết các công việc của nhà nước và các công việc liên quan đến quyền, nhiệm vụ pháp lý của công dân. Nói cách khác sự đa dạng và phong phú của thủ tục hành chính được quy định bởi hoạt động quản lý nhà nước diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, bộ máy hành chính bao gồm rất nhiều các cơ quan từ trung ương đến địa phương, mỗi cơ quan trong đó thực hiện thẩm quyền của mình đều phải tuân theo những thủ tục nhất định.Trong điều kiện hiện nay, TTHC ở nước ta phong phú, đa dạng và phức tạp bởi nền hành chính nhà nước hiện nay đang chuyển từ hành chính cai quản (hành chính đơn thuần) sang hành chính phục vụ, từ quản lý tập trung sang quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời xu hướng hợp tác quốc tế làm cho các TTHC phải tính đến yếu tố nước ngoài.TTHC diễn ra theo trật tự các bước nhất định, là trình tự thực hiện thẩm quyền trong quản lý hành chính nhà nước: Lĩnh vực chấp hành, điều hành. Nghĩa là thủ tục hành chính được phân biệt với thủ tục tư pháp, thủ tục tố tụng tại tòa án. Các TTHC được ban hành trong các văn bản luật và dưới luật do đó có tính pháp quy rất cao. Thủ tục hành chính được hiểu là các thủ tục một chiều, người dân có quyền và nghĩa vụ phải tuân thủ, chỉ khi đáp ứng đầy đủ những yêu cầu, văn bản, giấy tờ cần thiết theo các quy định của pháp luật thì người dân, tổ chức mới có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền thực hiện, giải quyết thủ tục của mình.thủ tục hành chính được tiến hành bởi nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau. TTHC được sử dụng trong tất cả cách lĩnh vực của đời sống xã hội, mỗi lĩnh vực lại được quản lý bởi các cơ quan chuyên ngành khác nhau do đó mỗi cơ quan, đơn vị có thẩm quyền sẽ được thực hiện các thủ tục hành chính trong thẩm quyền quản lý, giải quyết của mình. Trong lĩnh vực tư pháp, việc tiến hành tố tụng được thực hiện theo các thủ tục được quy định chỉ do một số cơ quan nhất định như tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra thực hiện. Trong việc thực hiện thủ tục hành chính khác lại do rất nhiều cơ quan nhà nước khác nhau tiến hành: Các cơ quan hành pháp, tư pháp, lập pháp; trong quan hệ nội bộ giữa các cơ quan và đối tượng ngoài cơ quan với tư cách quản lý nhà nước.các văn bản về TTHC tản mạn, không tập trung. Đây là thực trạng đang gây khó khăn trong công tác cải cách thủ tục hành chính hiện nay, các TTHC được ban hành không thống nhất, đôi khi có sự mâu thuẫn hoặc hướng dẫn thực hiện một cách chồng chéo nhau. Các văn bản chứa đựng các TTHC được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn ở lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính có rất nhiều văn bản cụ thể hóa pháp lệnh được ban hành về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau hoặc có những TTHC được quy định trong các văn bản không phải luật hành chính.Tóm lại, về việc nghiên cứu các đặc điểm của TTHC giúp chúng ta phân biệt được TTHC với thủ tục của các cơ quan lập pháp và tư pháp (thủ tục lập pháp và thủ tục tư pháp), đồng thời cũng là căn cứ lớn để thực hiện đơn giản hóa thủ tục trong giai đoạn hiện nay.TTHC giữ một vai trò rất quan trọng trong việc điều hành bộ máy công quyền, bởi mục tiêu của nền hành chính là hướng tới việc quản lý nhà nước một cách có hiệu lực, hiệu quả, do đó TTHC đảm bảo tính pháp chế và đem lại hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và của UBND huyện nói riêng.Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng gần 20 lần nói đến vấn đề CCHC. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh: “Bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân”, “đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục”.Hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước là tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật nhằm đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra. TTHC là cơ sở pháp lý vững chắc để các chủ thể tiến hành thực hiện các hoạt động giải quyết công việc thuộc chức năng của mình đồng thời là chuẩn mực để đánh giá và đảm bảo tính hợp pháp của quá trình thực hiện các nhiệm vụ công vụ. Cũng nhờ đó mà hoạt động quản lý nhà nước được bảo đảm theo tinh thần công khai, minh bạch và tuân thủ nguyên tắc pháp chế. Từ quan điểm trên thì TTHC thuộc về yếu tố thể chế tức là vấn đề ban hành và thực hiện TTHC. Không phải vô tình mà có quan niệm gắn TTHC với phương diện tiên quyết là thể chế, quy định quyền, nghĩa vụ và cách thức, điều kiện để thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó. Về phương diện khác thì TTHC liên quan chặt chẽ với cơ quan quản lý hành chính nhà nước, đồng thời là cơ sở pháp lý cho hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.2.1. 1 Những thành tựu:Nhằm từng bước tạo ra nền hành chính nhà nước hoạt động thống nhất, chặt chẽ, phù hợp với xu thế đổi mới, ngày 4/5/1994 chính phủ đã ban hành nghị quyết 38/1994/NQ-CP về cải cách một bước thủ tục hành chính trên tám lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công việc của dân và doanh nghiệp làm điểm đột phá. Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chương trình “Tổng thể cải cách hành chính nhà nước năm 2001 – 2010”, tại nghị quyết 38/2001/NQ-ttg với mục tiêu trong cải cách thủ tục hành chính là: Xóa bỏ về cơ bản thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rờm rà, gây phiền hà cho nhân dân và các doanh nghiệp, hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo xu hướng công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân. Chương trình tổng thể cải cách thủ tục hành chính nhà nước năm 2001 – 2010 đề ra bốn nội dung là: Cải cách thể chế; cải cách bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.Từ khi nghị quyết 38 ra đời đến nay nền hành chính nước ta nói chung và thủ tục hành chính nói riêng có những thay đổi rõ rệt có lợi cho người dân và tổ chức khi đến cơ quan nhà nước giải quyết công việc. Cũng như giữa cơ quan và nhà nước với nhau. Ở mức độ tổng quát có thể đưa ra nhận định cải cách TTHC đạt được một số thành tựu sau:2.1. 1.1 Những công việc của dân và doanh nghiệp được quy về một đầu mốiNhững thủ tục rườm rà, phức tạp, không cần thiết đã được bãi bỏ, những thủ tục cần thiết được thu gọn lại. Điển hình nhất là trong lĩnh vực thành lập và đăng ký doanh nghiệp, trước khi có nghị quyết 38 muốn thành lập một doanh nghiệp phải trải qua hai bước với nhiều loại giấy tờ, trải qua nhiều khâu, tốn kém thời gian và tiền của nhưng hiện nay với việc ban hành luật doanh nghiệp 2005, thì các thủ tục đã rút ngắn rất nhiều chỉ cần nộp đơn đăng ký ở phòng đăng ký kinh doanh của tỉnh nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Tiếp theo chính phủ ban hành nghị định về giao dịch có bảo đảm tại một hệ thống cơ quan thống nhất có bảo đảm và thực hiện đăng ký giao dịch có bảo đảm tại một hệ thống cơ quan thống nhất có phạm vi toàn quốc. Hệ thống cơ quan này đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng lớn, đa dạng và phong phú khi nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng phát triển sôi động.2.1. 1.2 Hạn chế tối đa sự ban hành văn bản của cơ quan hành chính của cấp chính quyền địa phươngTheo điều 2 nghị định 02/2002/NĐ-CP thì các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp không được ban hành các quy định về đăng ký kinh doanh áp dụng riêng cho ngành hoặc địa phương mình. Hầu hết các lĩnh vực có cải cách thủ tục hành chính đến nay chính phủ đã ban hành các văn bản quy định về thủ tục giải quyết công việc của nhân dân và của doanh nghiệp. Các bộ, ban, ngành đều đã có văn bản hướng dẫn thi hành.2.1. 1.3 Trình tự, lệ phí giải quyết công việc ở các cơ quan điều được công khai hóaTại các trụ sở làm việc của cơ quan, cán bộ, nhân viên làm công tác tiếp dân đã được bố trí thường trực, tránh sự gián đoạn trong việc giải quyết công việc của nhân dân. Nhà nước đã bãi bỏ nhiều thủ tục, nhiều nội dung kiểm soát không hợp lý, đặt niềm tin vào nhân dân. Trước đây khi đăng ký kinh doanh các chủ doanh nghiệp phải kê khai đầy đủ các loại giấy tờ về khám sức khoẻ, vốn pháp định, lí lịch về bản thân phải có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nói chung là rất phiền phức nhưng nay những thủ tục đó không bắt buộc. Còn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hiện nay nhà nước cho phép các chủ hàng tự kê khai hàng hóa số thuế phải nộp và tự chịu trách nhiệm về tính trung thực trước pháp luật. Trước khi có nghị quyết 38 của chính phủ chỉ có hai cơ quan có thẩm quyền cấp giấy kinh doanh xuất nhập khẩu theo hạn ngạch và chỉ tiêu đối với một số mặt hàng do nhà nước quản lý. Do đó doanh nghiệp muốn có giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến phải trải qua ba bước, những trường hợp phức tạp phải có trên 18 loại giấy tờ qua khoảng 16 cửa rất tốn kém, phiền hà. Về thủ tục kiểm tra, kiểm dịch hàng hóa xuất, nhập khẩu của hải quan cửa khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải xuất trình 12 loại giấy tờ, xuất khẩu có 9 loại giấy tờ. Sau khi có NQ/38/1994 trong lĩnh vực nhập khẩu đã cónhững cải biến mạnh mẽ, bãi bỏ giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến và thực hiện xuất nhập khẩu theo giấy phép kinh doanh. Từ năm 1999 thủ tục thu thuế xuất nhập khẩu dưới dạng mẫu hóa đã được áp dụng rút ngắn thời gian làm thủ tục.Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại việt nam, trước khi có NQ/38 thì việc thẩm định hồ sơ dự án phải thông qua 8 hội đồng được thành lập ở các cơ quan khác nhau với 8 loại hồ sơ riêng. Sau khi có nghị quyết 38 quốc hội thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nay là luật đầu tư, quy định phân định rõ thẩm quyền của các bộ, ngành, địa phương trong hoạt động đầu tư. Bỏ thủ tục xin giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép ngành nghề đối với những ngành nghề theo quy định phải có giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép hành nghề.Như vậy, sau khi có NQ38/1994/NQ-CP ra đời chính phủ cũng như các cơ quan liên quan đã tiến hành cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là 8 lĩnh vực theo NQ38/1994/NQ-CP và đã gặt hái được nhiều thành tựu tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục, đó là:2.2.Vì thế chính phủ chưa hoạch định được một chiến lược tổng thể về cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng. Điều này làm cho tiến trình cải cách gặp nhiều lúng túng, bị động trước đòi hỏi của xã hội.Nạn tham nhũng, hạch sách thái độ thờ ơ của cán bộ công chức đối với công việc của công dân càng phổ biến, khi có việc người dân đi đến cơ quan chức năng để giải quyết nhìn chung vẫn bị đối xử như người đi nhờ vả, đi xin. Phương tiện hiện đại cho một nền hành chính công hoạt động hiệu quả còn thiếu, vì thế năng suất giải quyết công việc của dân còn thấp cải cách thủ tục hành chính chưa tương xứng với các lĩnh vực, những khuyết tật trong nền hành chính gây ra những biến dạng, trong sự vận hành của thủ tục hành chính mới.Sở dĩ có những tồn tại trên là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:2.1. 3.1 Nguyên nhân chủ quan:- D- Công tác tổng kết đúc rút kinh nghiệm thực tiễn phát triển lý luận và dẫn đường cho thực tiễn còn chưa được chú trọng đúng mức, các nguồn lực như: Thời gian, công sức, kinh phí.. dành cho cải cách thủ tục hành chính chưa tương xứng.- Đội ngũ cán bộ công chức về cơ bản còn thiếu, yếu cả về trình độ chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức chính trị.- Chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức có nhiều bất hợp lý dẫn đến công cuộc cải cách thủ tục hành chính thiếu động lực, đội ngũ cán bộ, công chức không thiết tha với công việc.2.1. 3.2 Nguyên nhân khách quan:- Do tính chất của đối tượng quản lý, sự nghiệp đổi mới diễn ra chưa lâu, do đó chưa tích lũy được kinh nghiệm, các quy luật của nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường mới bước đầu bộc lộ, do đó việc nhận thức.- Do tính mới mẻ của hoạt động cải cách thủ tục hành chính, đây thực sự là một công việc chưa có tiền lệ ở nước ta, thêm vào đó là thói quen quản lý theo kiểu cũ còn ăn sâu trong đại bộ phận cán bộ, công chức nhà nước.- Trình độ của các nhà khoa học trong ngành và các nhà lý luận chính trị vẫn chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra.2.2. 1 Phương hướng cải cách TTHC2.2. 1.1 Để công việc cải cách thủ tục hành chính đạt hiệu quả cao, tạo ra được môi trường thông thoáng, hài hòa về mức độ và phương thức can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế xã hội. Chương trình tổng thể về cải cách thủ tục hành chính từ năm 2001-2010 đề ra 5 giải pháp thực hiện:- Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành.- Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ từ trung ương đến địa phương nhất là đối với cấp xã.- Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ, đổi mới hệ thống chính trị.- Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân lực.- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền.2.2. 1.2 Trong thời gian tới chúng ta phải tập trung các nguồn lực về thời gian, công sức, kinh phí để tìm ra các biện pháp cấp bách nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc, sau một thời gian tiến hành cải cách thủ tục hành chính. Trên cơ sở đó phương hướng đổi mới trong thời gian tới có thể là:- Giành các nguồn lực thỏa đáng, tập trung nghiên cứu và đưa ra giải pháp tối ưu nhất về mức độ và phương thức can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực lĩnh tế, xã hội. Cần phải tiến hành rà soát thủ tục hành chính trong phạm vi rộng, học tập kinh nghiệm nước ngoài để xây dựng chiến lược, kế hoạch nhiệm vụ và từng bước đi của công cuộc cải cách thủ tục hành chính.- Cần quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa nhân dân và tập thể, giữa cơ quan nhà nước với nhân dân, xây dựng một chính sách thưởng phạt thỏa đáng, nhằm khích lệ tinh thần làm việc của cán bộ, công nhân viên chức. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, loại bỏ bệnh chạy theo thành tích cá nhân làm mất uy tín, sự tin tưởng của nhân dân, người cán bộ công chức phải xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.2.2. 1.3 Đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền- Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm nhằm tạo điều kiện để người đứng đầu phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị, hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao; khắc phục tình trạng thụ động cũng như việc “đùn đẩy trách nhiệm”.- Bởi vậy, trong các văn bản pháp luật, pháp quy phải phân công, xác định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm của người đứng đầu, của tập thể, của từng ngành, từng cấp, từng cán bộ, công chức, nhân viên, một vụ việc xẩy ra phải có địa chỉ rõ ràng. Không để một việc, một lĩnh vực mà có nhiều người, nhiều chỗ có quyền, hoặc có quyền nhưng không đến nơi đến chốn, không rõ ràng. Với bộ máy hành chính mà trách nhiệm chồng chéo và chưa rõ ràng thì trách nhiệm của người đứng đầu nhiều khi thật khó phân xử. Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cải cách TTHC trước hết cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản của Đảng và Nhà nước có liên quan đến công tác này.2.2. 1.4 Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kiểm soát thủ tục hành chính- Công nghệ thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước. Nhiều văn bản Luật, Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định.. của Đảng và Nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin đã nhấn mạnh việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động nội bộ và giữa các cơ quan nhà nước, trong giao dịch của cơ quan nhà nước với tổ chức và cá nhân; hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính và làm cho hoạt động của cơ quan nhà nước công khai, minh bạch hơn, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn.- Có thể nói tin học hóa hành chính Nhà nước vừa là phương tiện, vừa là áp lực đối với cải cách hành chính Nhà nước.Hệ thống công nghệ thông tin ứng dụng được quyết định bởi phần “ứng dụng”, tức là phần thiết lập các hệ thống thông tin, hệ thống các cơ sở dữ liệu, các quy trình vận hành và luân chuyển thông tin do bộ máy hành chính thực hiện. Phần công nghệ gồm phần cứng, phần mềm, mạng, đào tạo sử dụng, chỉ là phương tiện để chuyển các quy trình vận hành bằng phương thức hành chính truyền thành quy trình quản lý hành chính bằng các phần mềm phương thức hành chính bằng điện tử. Do đó việc ứng dụng công nghệ thông tin càng tốt, càng cao bao nhiêu thì việc kiểm soát các thủ tục, quá trình giải quyết thủ tục càng dễ dàng, thuận tiện và chính xác bấy nhiêu.2.2. 2 Giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính trong thời gian tới2.2. 2.1 Cần quan tâm đúng mức về vấn đề lương, thưởng đối với những người chịu thiệt thòi từ cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng.Xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh. Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển như vũ bão về mọi lĩnh vực thì con người luôn đóng vai trung tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì vậy thủ tục hành chính dù diễn ra theo một mô hình nào đi nữa thì vai trò của cán bộ công chức trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính luôn ở vị trí hàng đầu, Đội ngũ cán bộ công chức phải thấy được tầm quan trọng của mình trong việc cải cách thủ tục hành chính, bên cạnh đó không được có thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm. Để có đội ngũ cán bộ công chức lành mạnh cần phải:- Đề cao phẩm chất lối sống của cán bộ công chức, thường xuyên tổ chức lấy ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, của người dân, điều quan trọng là phải lãnh đạo cán bộ công chức một cách có hệ thống, cán bộ, công chức phải có kiến thức uyên bác, bản lĩnh chính trị vững vàng, tận tâm phục vụ nhân dân.- Cần có một chế độ tiền lương thỏa đáng với chế độ làm việc tăng lương cho cán bộ công chức cũng là một biện pháp để đẩy nhanh tiến trình cải cách bởi vì lúc đó cán bộ công chức có nhiều thời gian cho công việc không phải lo những vấn đề của cuộc sống đời thường.- Thường xuyên giáo dục ý thức chấp hành, thái độ cung cách làm việc, sự nhiệt tình trong công tác để nâng cao chất lượng việc cải cách hành chính có hiệu quả cao, làm cho người dân thực sự tin tưởng vào đội ngũ cán bộ, công chức.- Thường xuyên cử đoàn thanh tra chuyên ngành về kiểm tra, giám sát hoạt động của các cấp, ngành, địa phương trong cải cách thủ tục hành chính. Muốn vậy cần phải đi thực tế đánh giá dựa trên kết quả làm việc chứ không phải thanh tra dựa trên kết quả báo cáo.2.2. 2.22.2. 2.3 Các loại giấy tờ hồ sơ của công dân, doanh nghiệp có nội dung cần thẩm định thì đều phải được mẫu hóa thống nhất.Cần niêm yết công khai các mức thu phí, lệ phí tại cơ quan hành chính để nhận dân theo dõi và thực hiện tốt nghĩa vụ. Khi xây dựng phải công khai để dân biết, dân đóng góp ý kiến vì mục tiêu chung là mang lại lợi ích cho nhân dân. Bố trí cán bộ, nhân viên có mặt thường xuyên để tiếp dân. Đối với những thủ tục liên quan chặt chẽ tới hoạt động kinh doanh như thủ tục hải quan, thủ tục đăng ký kinh doanh nên duy trì chế độ làm việc cả ngày thứ bảy.2.2. 4 Đổi mới toàn bộ cơ chế ban hành thủ tục hành chính các văn bản phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các ban ngành hữu quan và phải có tính thực tế cao phù hợp với điều kiện cụ thể.Cần nghiên cứu, phát hiện và loại bỏ thủ tục rườm rà không cần thiết, dễ lợi dụng và thiếu đồng bộ, phải tạo ra một cơ chế thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân khi cần liên hệ. Thủ tục hành chính phải đảm bảo tính dân chủ, công khai.2.2. 2.5 Các cấp ngành trong bộ máy hành chính nhà nước cần tuyên truyền phổ biến các kiến thức pháp luật nhà nước nhiều hơn nửa trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân và các tổ chức nắm rõ hơn về các thủ tục hành chính mà họ có quyền và nghĩa vụ phải thực hiện.Với tiến độ thông tin như hiện nay các phòng bạn cần trang bị cho mình các phương tiện kỹ thuật cần thiết trợ giúp cho công tác lưu trữ cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn về tin học, ngoại ngữ để xử lý các tình huống hoặc truy cập các tin tức về ban hành một số văn bản nghị quyết hoặc sửa đổi của pháp luật về hành chính một cách nhanh chóng và có hiệu quả.2.2. 2.6 Khi xây dựng pháp luật cần chú ý các yếu tố: Phong tục, tập quán để khi ban hành có tính khả thi cao, mang lợi ích thiết thực, để nâng cao chất lượng các thủ nhà nước đề ra.Một số địa phương cấp cơ sở, thành phố nếu thấy thủ tục nào không phù hợp thì mạnh dạn đề xuất với các cấp, các ngành trình lên sở, trung ương có hướng dẫn cụ thể góp phần xây dựng và hoàn thiện việc cải cách thủ tục hành chính của địa phương mình.2.2. 2.7 Để có chất lượng và hiệu quả cao trong công việc cải cách hành chính thì mỗi tỉnh, thành phố, đến địa phương, mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị đều phải dựa trên nền tảng của luật pháp để mà tự tìm cho mình phương pháp cải cách hợp lý nhất, phù hợp với thực trạng đơn vị mình và theo sự chỉ đạo của nhà nước.2.2. 2.8 Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động cải cách thủ tục hành chính- Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước khi nói đến hoạt động thanh tra người ta thường nói liền với hoạt động kiểm tra hoặc ngược lại. Việc nhiều văn bản của các cấp ủy, chính quyền cũng viết như vậy xuất phát từ mối quan hệ qua lại và gắn bó với nhau giữa thanh tra và kiểm tra. Mục đích của các hoạt động này đều nhằm phát huy những nhân tố tích cực; phòng ngừa, phát hiện, xử lý những vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao của các chủ thể, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và đưa ra các biện pháp tổ chức thực hiện tiếp theo để đạt kết quả như mong muốn.- Việc thường xuyên kiểm tra tiến độ và chất lượng thực hiện cải cách thủ tục hành chính giúp nắm bắt và có ý kiến cụ thể đối với từng hoạt động cải cách hành chính của cơ quan. Kịp thời, nghiêm túc thực hiện các hoạt động như xây dựng kế hoạch, xây dựng báo cáo, chấm điểm công tác cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính..