Tiểu luận Phân tích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong giai đoạn sau đổi mới – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là
những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị
chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu
chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là
phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người
dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng
ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn
lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ
chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy
móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái
hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng
vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất
lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn
kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù
hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng
phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên
tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế
của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới.
Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong
khu vực trên thế giới.

doc

19 trang

|

Chia sẻ: superlens

| Lượt xem: 19384

| Lượt tải: 2

download

Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong giai đoạn sau đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
**********
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP , NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN SAU ĐỔI MỚI
Sinh viên thực hiện : Nhóm 4
Lớp : TRI106.15
Giảng viên hướng dẫn : Cô giáo Nguyễn Thị Thanh Tú
Hà Nội,12/2013
THÀNH VIÊN NHÓM:
Vũ Thị Lệ Thủy
MSSV :1212160119
STT:98
Nguyễn Tố Linh
MSSV: 1217160064
STT: 47
Đinh Thị Lan Anh
MSSV: 1211160007
STT: 9
Mã Thị Vân Anh
MSSV: 1214160014
STT: 03
Phạm Thanh Thảo
MSSV: 1211160110
STT: 89
Nguyễn Thị Thanh Thủy
MSSV: 1211160115
STT: 94
Nguyễn Anh Tuấn
MSSV:
STT:
Nguyễn Phi Ninh
MSSV:
STT:
Nguyễn Mai Hương
MSSV:
STT:
Nguyễn Thị Thu Huyền
MSSV: 1217160050
STT: 39
Nguyễn Tuấn Vũ:
MSSV:
STT:
Đặng Thị Thu Hiền
MSSV: 1216160036
STT: 29
Mục lục:
DANH MỤC Trang
LỜI MỞ ĐẦU:
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là
những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị
chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu
chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là
phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người
dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng
ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn
lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ
chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy
móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái
hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng
vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất
lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn
kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù
hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng
phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên
tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế
của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới.
Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong
khu vực trên thế giới.

KHÁI NIỆM
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản phẩm như lươngthực,thựcphẩm… 
để thoả mãn các nhu cầu của mình. 
Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, v.v
Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lí kinh tế – xã hội. Đô thị hiện đại 
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ VẤN ĐỀ CNH, HĐH NGÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN SAU THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được Đảng ta xác định là: Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. 
Để thực hiện các mục tiêu trên, Đảng đã xác định quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiên nay phải tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới:
Nông nghiệp
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác của các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hoá, áp dụng công nghệ hiện đại (nhất là công nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hoá, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn. Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn. Giữ vững diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và tăng giá trị xuất khẩu gạo. Mở rộng diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng các loại rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế. Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp với công nghệ tiên tiến. 
Lâm nghiệp
Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư.
Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân có thể sống, làm giàu từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng;
Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản có công nghệ hiện đại. 
Hình thành các tổ hợp trồng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản và phát triển các vùng rừng chuyên môn hoá bảo đảm đáp ứng ngày càng nhiều hơn nguyên liệu trong nước cho công nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, giấy.
Ngư nghiệp
Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp, thâm canh là chủ yếu đối với thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại hoá các cơ sở chế biến thuỷ sản.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Thành tựu
Kinh ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm ngư sản của nước ta lớn. năm 2010 tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm , thủy sản đã đạt trên 18 tỷ USD, đưa nước ta thành 1 trong những quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới.
Từ  năm  1989  trở  lại  đây  Việt  Nam  không  những  tự  túc  được  lương thực,  có  dựtrữ  lúa  còn  xuất  khẩu  gạo  với  kim  ngạch  mỗi  năm  một  tăng (năm 1998 xuất khẩu tới 3,8 triệu tấn). Và hiện nay Việt Nam đang là nước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Một số nông sản hàng hóa khác cũng được xuất khẩu ngày càng tăng trên thị trường thế giới như: cà phê, chè,  cao su,  hạt điều,  rau quả…  tốc  độ tăng trưởng  sản xuất  nông nghiệp trong  mười  năm  trở  lại  đây  (1988  –  1998)  đạt  trên  4%  một  năm. Hạt điều, hạt tiêu có giá trị xuất khẩu cao nhất thế giới, cà phê đứng thứ 2,cao su đứng thứ 4, thủy sản đứng thứ 5, chè đứng thứ 7
Tăn trưởng bình quân hằng năm về nông lâm ngư nghiệp thời kỳ 1991-2000 đạt 4,3% trong đó nông nghiệp đạt 5,4%, thủy sản tang 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%
Sản xuất lương thực đạt kết quả to lớn từ 13,478 triệu tấn năm 1976 đã tăng lên 34,254 triệu tấn năm 1999
Gía trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp năm 2010 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 232,7 nghìn tỷ đồng, tăng 4,7% so với năm 2009
Sản lượng thủy sản năm 2010 ước tính 5127,6 nghìn tấn, tăng 5,3 % so với năm 2009.
Tỷ lệ che phủ rừng từ 33,2% năm 1999 tăng lên 39,5% năm 2010, góp phần làm cải thiện môi trường sống.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn,
Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới;
xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ.
Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. 
Thành tựu
Phong trào xây dựng nông thôn mới đã tạo được sự đồng thuận và lan toả trong toàn xã hội, bình quân đạt 7,87 tiêu chí/xã, 75 xã được công nhận đạt chuẩn 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Hạ tầng kinh tế kỹ thuật – xã hội ở nông thôn được xây dựng khang trang; các dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và đời sống nông dân được cung cấp ngày càng tốt hơn.
An sinh xã hội được thực hiện tốt, huy động được nhiều nguồn lực để đầu tư cho chương trình giảm nghèo, chăm lo giúp các đối tượng chính sách, người nghèo, người gặp khó khăn cơ nhỡ từng bước ổn định cuộc sống.
Hệ thống chính trị ở cơ sở thường xuyên được củng cố, hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng lên
Theo số liệu thống kê, đến 01/7/2011 cả nước đã có 8940 xã, chiếm 98,6% tổng số xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã (tăng 2,3% so với năm 2006)
các thôn, bản miền núi cũng được các cấp chính quyền hết sức quan tâm đầu tư với số liệu rất ấn tượng đó là có tới 89,5% số thôn, bản có đường ô tô đến được.
So với năm 2005, tổng số chiều dài km đường giao thông nông thôn tăng thêm 34.811km; trong đó số km đường huyện tăng thêm 1.563km, đường xã tăng 17.414km và đường thôn xóm tăng 15.835km
Giải quyết vấn đề việc làm ở nông thôn.
Chú trọng dạy nghề , giả quyết việc làm cho nông dân, , tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ.
Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.  Thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp. 
Thành tựu
Năm 1993 có tới 2/3 số dân nông thôn được coi là nghèo thì ngày nay con số này chỉ còn 1/5.
Công tác thủy lợi và phòng chống thiên tai có nhiều cai thiện. đến nay, cả nước có 75 hệ thống thủy điện lớn, 800 hồ chứa lớn, 3500 hồ trên dung tích 1trieeuj m3, trên 1000 trạm bơm
Hệ thống đê điều đồ sộ với 5700km đê sông, 200km đê biển, 23000km bờ bao làm nền cho công tác phòng chống thiên tai.
Đến năm học 2011-2012, tổng số trường phổ thông là 28.803 trường Cả nước có 596 cơ sở đào tạo TCCN 420 trường ĐH, CĐ. 41/63 tỉnh, thành phố có trường ĐH, đạt tỷ lệ 65%; 60/63 tỉnh, thành có trường CĐ, đạt tỷ lệ 95%
Số giảng viên ĐH, CĐ đã tăng từ 20.112 năm 1997 lên 84.071 năm 2012 (gấp 4,2 lần); số giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 2041 lên 9126 (gấp 4,5 lần); số giảng viên có trình độ thạc sĩ từ 3802 người lên 36347 (gấp 9,5 lần), số giảng viên là giáo sư, phó giáo sư tăng từ 526 người lên 2687 người (gấp 5,1 lần).
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI
Trích lời một bài báo “Chúng ta công nghiệp hóa nông thôn chứ không hiện đại hóa nó. Chúng ta đưa công nghiệp vào sát mũi nông thôn, chúng ta nhử các khu công nghiệp vào ngay đầu làng thì làm thế nào mà duy trì được nông thôn.”
Hiện nay, khu vực nông thôn đang ở trong tình trạng xuất phát thấp khi bước đầu chuyển sang giai đoạn mới: GDP từ nông nghiệp chỉ chiếm 30% tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập bình quân một lao động trên tháng khoảng 100.000đ thấp hơn rất nhiều so với thành thị.
Một thực tế là tỷ lệ người nghèo ở khu vực nông thôn quá lớn so với thành thị. Tại các đô thị lớn tỷ lệ này cũng chỉ ở mức 2.4% trong khi đó có ở khu vực nông thôn tỷ lệ này là 30% – 40%, đặc biệt ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa .
Bản thân trong khu vực nông thôn cũng diễn ra sự phân hoá mạnh mẽ. Tốc độ phát triển của các giữa các khu vực nông thôn khá chênh lệch. Ngoài ba khu vực là đồng bằng s.Hồng, đồng bằng Sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ có tốc độ phát triển tương đối nhanh còn lại là các khu vực chậm phát triển.
Khác với nhiều nước trong khu vực, sự phát triển sản xuất ở Việt Nam lại diễn ra trong bối cảnh mức tăng dân số và tỷ lệ đói nghèo cao. Công tác giáo dục và đào tạo, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi cao còn nhiều khó khăn, hạn chế. Hệ thống phúc lợi công cộng, cơ sở vật chất kỹ thuật và các vấn đề xã hội khác còn một khoảng cách xa với yêu cầu. Tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo tuy có xu hướng giảm nhưng mức sống còn rất thấp. Chênh lệch mức sống vật chất và văn hoá giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng ngày càng tăng. Căng thẳng xã hội về nguồn nhân lực dư thừa ngày càng nóng bỏng. Bên cạnh đó, trong nhiều năm chiến lược phát triển kinh tế xã hội chưa chú ý đúng mức tới bảo vệ môi trường, môi trường sống trong lành ở nông thôn cũng đang bị suy thoái nghiêm trọng .
Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu phân tích thực trạng nông thôn Việt Nam ngày nay.
Lực lượng lao động ở nông thôn.
Lao động qua đào tạo ở nông thôn chỉ chiếm trên dưới 10% so với 25% ở khu vực thành thị. Trình độ học vấn thấp hơn hai lần, nhân lực thấp hơn 10 lần, năng suất lao động nông nghiệp thấp, trên 80% hộ nghèo sống ở nông thôn… là những khó khăn cho phát triển.
Lực lượng lao động ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp hiện nay phần lớn là người già và phụ nữ. Đàn ông, thanh niên đã lên thành phố, chấp nhận làm lao động phổ thông, các công việc tay chân để kiếm tiền gửi về cho gia đình.
“Thanh niên của chúng ta lấy ra phố là khuynh hướng cơ bản. Ra phố nhưng không đến được đô thị.”
Thanh niên nông thôn, cũng như lực lượng lao động ở nông thông có trình độ tay nghề, lao động cũng như nhận thức còn kém. Họ là những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, do nhiều tác động. Các tệ nạn rượu chè, cờ bạc, ma túy đánh nhau cũng xảy ra nhiều nhất ở vùng nông thôn.
Chưa kể, một bộ phận thanh niên ra đi từ nông thôn, học tập ở các trường đại học, cao đẳng nhưng lại không quay về nông thôn làm giàu mà bám trụ ở thành phố khiến khu vực nông thôn bị chảy máu chất xám trầm trọng.
Lý do của sự chuyển dịch lực lượng lao động như trên là vì: Dân số sống bằng nghề nông chiếm 70% dân số cả nước, 57% lực lượng lao động xã hội làm việc trong ngành nông nghiệp, nhưng chỉ tạo ra chưa đầy 20% GDP.
Khi 70% dân số sống ở nông thôn lại không thể sống trên chính mảnh đất quê hương, không thể khai thác thế mạnh của sản xuất nông nghiệp, điều đó cũng có nghĩa, Việt Nam đang lãng phí những nguồn tài nguyên. Kèm theo đó là hàng loạt các hệ lụy: tệ nạn xã hội, sự mất ổn định trong xã hội, tình trạng quá tải dân số ở các thành phố lớn.
Cáp cấp quản lý, lãnh đạo của nông thôn cũng chưa được đào tạo bài bản về quản lý, lãnh đạo. Tại thời điểm triển khai chương trình xây dựng Nông thôn mới vào năm 2010, trong 181 nghìn cán bộ cấp xã có 0,1% không biết chữ, 48% chưa qua đào tạo, 80% không biết sử dụng máy tính. Các cấp quản lý còn quan liêu bao cấp, tham ô, tham nhũng. Nạn tham ô, phong bì, lạm thu ở nông thôn diễn ra mạnh mẽ nhất, khiến đời sống người nông dân ngày càng khó khăn. Không khó để tìm thấy những bài báo về lạm thu ngân sách thôn, xã, một hạt gạo gánh 40 thứ thuế hay tình trạng chủ tịch xã có ô tô riêng nhưng ủy ban nhân dân xã lại không đủ tiền để mua ghế cho người dân.
Thực trạng nền kinh tế hiện nay ở nông thôn.
Nhắc đến kinh tế nông thôn, hầu hết chúng ta đều nghĩ đến nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống. Hay gần đây, bằng những chủ trương của nhà nước, các xí nghiệp, nhà máy đang mọc lên ở các làng quê.
Nhưng, nếu bỏ qua những ưu điểm, những thành tựu mà nông nghiệp, nông thôn đạt được, chúng ta còn lại gì?
Đó là một nền kinh tế nông nghiệp manh mún; khi những người sản xuất nông nghiệp chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà không quan tâm đến lợi ích lâu dài. Đất đai bị thoái hóa vì thuốc bảo vệ thực vật, phá ruộng trồng các cây ngắn ngày vì giá thu mua cao dẫn đến cung vượt cầu; khi nông dân chỉ sản xuất mà không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Thêm nữa, do thiếu vốn đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông dân cũng có hạn do không được đào tạo một cách chính quy và cơ bản nên ở hầu hết các địa bàn nông thôn các quá trình sản xuất và chế biến đều trải qua nhiều công đoạn nhỏ và phân tán. Sản xuất theo quy mô nhỏ, đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ gia đình khó có điều kiện có được công nghệ tinh chế tốt nhất bởi vậy chất lượng sản phẩm mới trở nên thấp kém, không đủ tiêu chuẩn phân phối trong nước hoặc xuất khẩu ra nước ngoài.
Bên cạnh đó còn là những hạn chế trong công tác ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ trong nông nghiệp nông thôn. Công tác cơ giới hoá nông nghiệp hiện nay đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Đất đai manh mún gây khó khăn cho cơ giới hoá sản xuất, quy mô ruộng đất phân tán, nhỏ lẻ làm cho việc sử dụng máy kéo, xe vận tải và máy móc nông nghiệp khó phát huy tác dụng, chi phí cao trong khi hiệu quả thu được thấp. Có thể nói, vấn đề cơ giới hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn đang trong tình trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu của hiện đại hóa với lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn.
Ruộng đất manh mún – diện tích đất nông nghiệp giảm.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Hiện cả nước có đến 70 triệu thửa đất nông nghiệp, nhưng chưa đến 4 triệu héc ta đất trồng lúa. Đất ít, manh mún đang chứng tỏ một nền kinh tế tiểu nông. Đất canh tác đang ngày một loang lổ vì sự xâm lấn của sân golf, khu công nghiệp.Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bình quân mỗi năm có 73.300 héc ta đất nông nghiệp bị thu hồi, ảnh hưởng đến khoảng 2,5 triệu người. Hai vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc là nơi bị thu hồi đất nhiều nhất. Trong năm năm qua, diện tích đất nông nghiệp thu hồi trên toàn quốc lên tới hơn 154.000 héc ta, đồng nghĩa việc diện tích đất trồng lúa giảm 7,6%. Chính sách đất đai cho